Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 1: Quán Chiếu

17 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 6007)
Chương 1: Quán Chiếu

VŨ TRỤ TRONG MỘT NGUYÊN TỬ

Nguyên tác: The Universe in a Single Atom của Đức Đạt Lai Lạt Ma
Dịch Việt: Làng Đậu Võ Quang Nhân

Chương 1 Quán Chiếu

 

Tôi đã có nhiều năm suy ngẩm về những phát triển đáng ghi dấu của khoa học. Chỉ nội trong khoảnh khắc ngắn ngủi của đời tôi, thì tác động của khoa học và công nghệ lên con người đã thật to lớn. Mặc dù mối quan tâm của tôi đến khoa học bắt đầu bởi tính tò mò về một thế giới được chi phối bởi công nghệ, thì khi đó khoa học còn khá lạ lẫm với tôi. Mối quan tâm này đã lóe ra trong trí tôi không lâu trước khi khoa học ảnh hưởng to tát lên nhân loạiđặc biệt là sau khi tôi lưu vong trong năm 1959. Ngày nay thì hầu như không có một lãnh vực nào của nhân sinh mà không dính dáng đến các hiệu quả của khoa học và công nghệ. Dù chúng ta đã rõ vị trí của khoa học trong toàn bộ đời sống con người – thì điều gì đúng ra khoa học nên được tiến hành và điều gì khoa học nên chịu sự quản lý? Điểm thứ nhì trong câu hỏi này thật sự quan yếu bởi vì trừ khi hướng đi của khoa học được dẫn dắt bởi một động lực đạo đứcý thức, đặc biệtlòng từ ái, nếu không thì các hậu quả của nó có thể thất bại trong việc mang lại lợi ích. Chúng dĩ nhiên còn có thể gây tác hại vô cùng.

Việc thấy được tầm quan trọng to lớn của khoa học và nhận biết địa vị thống trị không tránh khỏi của nó trong thế giới đã thay đổi một cách cơ bản thái độ của tôi với khoa học, từ chỗ tò mò trở thành một kiểu hành động gấp rút. Trong Phật giáo, lý tưởng tâm linh cao nhất là để nuôi dưỡng lòng từ bi cho mọi chúng sinh hữu tình[1] và để làm cho phúc lợi của họ được mở rộng tối đa. Từ khi còn rất ấu thơ, tôi đã được tạo duyên để chăm chút cho lý tưởng này và cố gắng để thi hành nó trong mọi hành vi. Vậy nên, tôi đã muốn hiểu biết khoa học vì nó cho tôi một lãnh vực mới để thám sát trong cuộc truy tầm để hiểu được bản chất về thực tại của tôi. Tôi cũng muốn học hỏi nó, bởi vì nó là cách thức mạnh mẽ để liên lạc với các thấu hiểu được góp nhặt từ chính truyền thống tâm linh của mình. Cho nên, với tôi, nhu cầu làm việc với lực lượng [khoa học] mạnh mẽ này trong thế giới của chúng ta cũng đã trở thành một loại sứ mệnh tâm linh. Câu hỏi trọng tâmtrọng tâm cho sự tồn tạihoàn thiện của thế giới chúng ta – là làm sao có thể tạo ra các phát triển khoa học tuyệt diệu cho các đối tượng (hay sự vật) nào mà nó cống hiến dịch vụ vị thatừ bi cho nhu cầu của con người và các chúng sinh hữu tình vốn đang cùng chia sẻ trái đất này với chúng ta.

Đạo đức có chiếm một địa vị nào trong khoa học hay không? Tôi tin rằng có. Trước tiên, giống như một trang cụ bất kì, khoa học có thể đặt vào chỗ hữu dụng hay tai hạiTrạng thái tâm thức của người đang vận hành trang cụ đó sẽ quyết định hậu quả sau cùng của việc sử dụng. Thứ đến, các phát hiện khoa học ảnh hưởng lên cách mà chúng ta hiểu về thế giới và về vị trí của mình trong đó. Điều này có hậu quả đến hệ thống ứng xử cuả chúng ta. Chẳng hạn, hiểu biết về cơ giới của thế giới đã dẫn tới cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ[2], trong đó, khai thác thiên nhiên trở thành hoạt động chuẩn mực. Mặc dù vậy, có một giả thiết chung cho rằng đạo đức chỉ thích hợp đến ứng dụng của khoa học, mà không phải là mưu cầu thực tại của khoa học. Trong mô hình này, mỗi khoa học gia như là một cá thểcộng đồng các nhà khoa học nói chung giữ vị trí trung tính về đạo đức không chịu trách nhiệm cho hậu quả của những gì mà họ khám phá ra. Nhưng có nhiều khám phá khoa học quan trọng, và riêng những phát kiến công nghệ được các khám phá này dẫn tới hay tạo ra những điều kiện mới và mở ra nhiều khả năng xuất hiện các thách thức mới về đạo đứctâm linhChúng ta không thể đơn thuần miễn trừ những hành vi tạo tác khoa học và cả chính cá nhân các nhà khoa học ra khỏi trách nhiệm cho việc đóng góp vào sự nảy sinh của một thực tế mới.

Có lẽ điểm tối quan trọng là đảm bảo được rằng khoa học không bao giờ tách rời khỏi cảm xúc nhân bản về sự cảm thông với các chúng sinh đồng đẳng của ta. Cũng như là các ngón tay của một người chỉ có thể hoạt động trong mối quan hệ với bàn tay, các khoa học gia phải luôn nhận biết mối tương quan của họ với xã hội bên ngoài. Khoa học thì vô cùng quan trọng nhưng nó chỉ là một ngón trên cánh tay của nhân loại, và năng lực vỹ đại nhất của nó chỉ có thể thực hiện được khi chúng ta ghi nhớ cẩn thận điều này. Ngược lại, ta có nguy cơ đánh mất ý nghĩa của các thứ tự ưu tiênCon người có thể đi đến chỗ phục vụ cho các quan tâm về tiến bộ khoa học hơn là theo chiều hướng ngược lại [tức là khoa học phục vụ cho con người] Khoa học và công nghệ là những công cụ mạnh, nhưng ta phải quyết định sử dụng chúng sao cho tốt nhất. Đứng trên tất cả những điều đó là động lực để quản lý việc ứng dụng khoa học và công nghệ, để cho tâm và trí được hài hòa thống nhất một cách lý tưởng.

Với tôi, khoa học, trước và trên hết, là một bộ môn thực nghiệm cung ứng cho nhân loại một phương thức truy cập mạnh để tìm hiểu bản chất của thế giới sống và thế giới vật chất. Một cách cơ bản, nó là một lối truy cứu cung cấp cho chúng ta một tri thức tỉ mỉ tuyệt vời về thế giới thực nghiệm và các quy luật vận hành bên trong của thiên nhiên, mà ta rút ra được từ các dữ liệu thực nghiệm. Khoa học tiến hành bằng các giá trị của một phương pháp rất đặc biệt bao gồm đo đạc, định lượng, và kiểm nghiệm đa chủ thể[3] thông qua các thí nghiệm lặp lại. Điều này tối thiểu là một tính chất căn bản của phương pháp khoa học khi mà nó có mặt trong mẫu hình khoa học hiện nay. Trong mô hình này, thì nhiều khía cạnh về sự tồn tại của con người, bao gồm các câu hỏi về các giá trị, sự sáng tạo, và tâm linh cũng như là các câu hỏi siêu hình ở mức sâu hơn sẽ nằm ngoài nội dung của truy cứu khoa học.

Mặc dù có nhiều lãnh vực của đời sốngkiến thức nằm ngoài phạm vi của khoa học, tôi nhận thấy nhiều người giữ ý định cho rằng quan điểm khoa học của thế giới phải nên là cơ sở cho tất cả tri thức và tất cả những gì khả kiến. Đây là chủ nghĩa duy vật khoa học. Mặc dù tôi không nhận thấy có trường phái tư tưởng nào đề xướng ý này, nhưng nó dường như là một tiền lệ chung không được kiểm nghiệm lại. Quan điểm này duy trì lòng tin vào thế giới khách quan, cho rằng thế giới này độc lập với sự ngẫu nhiên của những người quan sát nó. Nó cho rằng dữ liệu được phân tích trong một thí nghiệm là độc lập với các nhận thức thành kiến, và sự trải nghiệm của nhà khoa học dùng phân tích chúng.

Ẩn đàng sau của quan điểm này là sự thừa nhận rằng, trong phân tích tối hậu, thì vật chất, sẽ như là được mô tả bởi vật lý và như là nó chịu tác động bởi các luật vật lý là tất cả hiện hữu. Theo đó, quan điểm này cho rằng tâm lý học có thể được quy giảm về sinh học, sinh học quy về hóa học và hóa học quy về vật lý. Ở đây, tôi không quan tâm nhiều đến việc tranh luận chống lại luận điểm của chủ nghĩa quy giảm[4] (dù rằng chính tôi cũng không đồng tình với quan điểm này) mà là để lưu ý tới một điểm vô cùng quan trọng: là những ý kiến đó không tạo dựng nên tri kiến khoa học; đúng hơn, chúng đại diện cho một luận điểm triết học, thật ra là một luận điểm siêu hình. Quan điểm cho rằng tất cả các khía cạnh của thực tại đều có thể quy giảm về vật chất và các hạt vật lý của nó, theo ý tôi, có vị trí siêu hình tương đương không thua gì với vị trí siêu hình của quan điểm cho rằng có một cơ chế thông minh đã sáng tạo ra và điều khiển thực tại.

Một trong những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa duy vật khoa học trọng căn là nó dẫn tới tầm nhìn thiển cận và có thể nảy sinh ra chủ nghĩa hư vô. Chủ nghiã hư vô, chủ nghiã duy vật, và chủ nghĩa quy giảm tất cả có các vấn đề nêu trên từ tầm nhìn triết học, đặc biệt là tầm nhìn con người, bởi vì chúng có tiềm lực làm nghèo kiệt đi cách thức mà chúng ta nhìn chính mình. Thí dụ, khi ta nhìn chính mình như là các sinh vật hữu cơ ngẫu nhiên hay như là các chúng sinh đặc biệt được phú cho phương diện về ý thức và khả năng đạo đức sẽ tạo nên tác động lớn đến cách mà ta cảm thấy về chính mình và cách đối xử với tha nhân. Trong cách nhìn này, nhiều khía cạnh của toàn bộ thực tại trong các phạm trù thuộc tính của con người như nghệ thuật, đạo đức, lòng tốt, nét đẹp, và trên tất cả là ý thức – hoặc sẽ bị quy giảm về các phản ứng hoá học của các tế bào thần kinh hay được xem như là một sự kiện đơn thuần của các cấu trúc tưởng tượng. Điều nguy hại tiếp sau đó là con người có thể bị quy giảm xuống không hơn gì những máy móc sinh học, các sản phẩm của sự tình cờ đơn thuần trong tổ hợp ngẫu nhiên của các gen, với không có mục đích nào khác hơn là sự cưỡng bách sinh học của việc tái sinh sản.

Thật là khó để thấy được bằng cách nào các vấn đề như là ý nghĩa của cuộc sống hay thiện và ác có thể tương hợp được bên trong một thế giới quan như vậy. Vấn đề không phải ở các dữ kiện thực nghiệm của khoa học mà ở luận điểm cho rằng các dữ liệu này một mình chúng cấu trúc được nền tảng hợp lệ cho việc phát triển một thế giới quan toàn diện hay một giá trị thoả đáng để trả lời cho các vấn đề của thế giới. Có nhiều điều về sự tồn tại của con người và về tự bản thân thực tại mà khoa học hiện nay chưa đủ khả năng cho chúng ta truy cập tới.

Bởi cùng cách biểu hiện, tâm linh phải được làm mạnh bởi các phát kiến và thấu hiểu của khoa học. Nếu như những người thực hành tâm linh chúng tôi không đếm xỉa đến các phát kiến của khoa học, thì thực hành của chúng tôi cũng bị nghèo kiệt đi, giống như là sự cố chấp có thể dẫn đến chủ nghĩa kinh điển[5]. Đây là một trong những lý do khiến tôi khuyến khích các Phật tử đồng môn tiếp nhận nghiên cứu khoa học, có như vậy, các thấu hiểu của khoa học có thể được tích hợp vào trong thế giới quan Phật giáo.



[1] Cụm từ Chúng sinh hữu tình bao gồm hai vế. Vế thứ nhất "chúng sinh" tức là những thể sống có khả năng tạo sinh ra các thế hệ mới, có khả năng hấp thụ dinh dưỡng, thải chất cặn bã, vv. Động và thực vật đều là chúng sinh nhưng đất, nước, không khí tinh khiết không phải là chúng sinh. Vế thứ nhì “hữu tình” để ám chỉ khả năng có xúc cảm, và tùy theo mức độ có các khả năng khác về tinh thần, tri giác. Như vậy giới động vật được xem là thuộc về hữu tình. Sự phân định chi tiết một số loài thuộc cực hạn giữa hữu tinh và vô tình là con tùy theo tiêu chuẩn. Riêng sự phân định cực hạn giữa các loại (như giữa động vậtthực vật) đã dẫn đến theo cách phân chia khác -- như giữa các loại tế bào không có nhân (eukaryotes -- chúng không thuộc về cả động hay thực vật) và loại tế bào có nhân prokaryotes bao gồm cả động thực vật, nấm, ..)

[2] Cách Mạng Kỹ Nghệ xảy ra vào thế kỷ 18 và 19 trong đó có sự thay đổi lớn chủ yếu trong nông nghiệp, công nghiệp, khai thác mỏ và lưu thông đã tạo ra hiệu quả sâu sắc lên các điều kiện về kinh tế xã hộivăn hóa bắt đầu nổ ra tại Anh lan khắp châu Âu, bắc Mỹ và thế giới. Cuộc cách mạng này mở ra một trang sử mới cho nhân loạiảnh hưởng đến hầu như mọi khía cạnh của cuộc sống. “Industrial Revolution”. Wikipedia. Truy cập 11/01/2010

<http://en.wikipedia.org/wiki/Industrial_Revolution>

[3] Dịch từ chữ "intersubjective verification": Tức là cách thức kiểm tra lại các lý thuyết thông qua việc áp dụng lý thuyết đó lên các chủ thể khác nhau mà chúng có chia sẻ cùng đặc tính (kinh nghiệm) và thoả mãn tiền đề của lý thuyết. “Intersubjective Verifiability”. Wikipedia. Truy cập 18/02/2009

<http://en.wikipedia.org/wiki/Intersubjective_verifiability>

[4] Chủ trương quy giảm là một chủ trương để tìm hiểu bản chất phức tạp của các sự vật bằng cách quy giảm chúng vào các tương tác của các bộ phận nhỏ hơn của chúng, hay quy giảm đến các sự vật nền tảng và đơn giản hơn.
"Reductionism". Wikipedia. Truy cập 17/02/2009.

<http://en.wikipedia.org/wiki/Reductionist>

[5] Từ chữ "Fundamentalism": Chủ trương tin tưởng tuyệt đối vào kinh điển. Kinh điểntuyệt đối không có sai sót và không có lỗi lầm.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10190)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11247)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13584)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13728)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22199)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21856)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27363)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17771)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11733)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12326)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25244)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23269)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28569)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22759)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25689)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22287)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13985)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13427)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22461)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26363)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18463)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18956)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34497)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27369)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28400)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21364)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14887)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19195)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10615)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18563)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15660)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13175)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13416)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14020)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11787)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11625)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11336)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11885)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19939)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12391)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13939)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13270)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31954)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13428)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12749)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13327)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11888)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21856)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11088)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12896)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant