Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

65. Kỷ Niệm Dưới Mái Chùa Xưa

17 Tháng Sáu 201400:03(Xem: 7165)
65. Kỷ Niệm Dưới Mái Chùa Xưa
s142-000

Tôi năm nay thiếu một tuổi (tôi sinh năm Bính Tuất-1946) là bước đến bực thềm mà người xưa gọi là “Cổ Lai Hy”. Với ngần ấy thời gian của đời người, tôi chứng kiến biết bao sự thay đổi trong cuộc sống, thay đổi từ bản thân mình cho đến hoàn cảnhcon người chung quanh. Tuy nhiên, khoảng thời gian gần 20 năm tu học tại chùa Viên Giác, Hội An (1958 đến 1976) là quảng đời đẹp nhất trong tôi. Nơi đây tôi có nhiều kỷ niệm của thuở ấu thơ thời làm điệu cũng như những huynh đệ đồng tu của một giai đoạn gian khổ.

Tôi từ nhỏ được thân phụ đưa về chùa Long Tuyền quy y với Tổ Phổ Thoại nên có pháp danh Chơn Đắc. Ông thân tôi là một người viết chữ Nho rất đẹp, về sau xuất gia với Tổ nên có pháp danh Chơn Tề hiệu Long Niệm và được Tổ cử làm Thư ký của chùa. Chính vì mối quan hệ đồng môn với Thầy tôi (tức cố Hoà Thượng thượng Long hạ Trí) nên năm 1958, khi tròn 13 tuổi thân phụ gởi tôi về chùa Viên Giác tu học với Thầy. Vì tôi quy y 5 giới với Tổ Phổ Thoại nên khi xuống tóc, Thầy vẫn giữ nguyên pháp danh Chơn Đắc. Và sau này các huynh đệ cũng vậy, ai có pháp danh rồi thì Thầy giữ nguyên, chỉ cho Pháp tự hoặc Pháp hiệu mà thôi.

Chùa Viên Giác vốn dĩ là ngôi chùa của làng Cẩm Phô và Thầy mới về đảm nhận trụ trì. Lúc ấy, chùa làm bằng gỗ nên rất thấp, hai bên thờ Thập Điện Diêm Vương, Quan Thánh Đế Quân v.v… tạo nên một không khí âm u huyền bí khiến một đứa trẻ như tôi không phải phát khiếp khi nhìn gương mặt của Tổ Đạt Ma. Thời gian đầu, một Thầy một trò chăm lo việc chùa. Lúc ấy, đời sống người dân rất khó khăn, sự cúng dường của tín đồ không có là bao nên kinh tế nhà chùa tự cung tự cấp. Thầy vừa canh tác mấy sào ruộng rồi còn đi cày thuê đổi công cho các nhà nông khác. Mỗi sáng Thầy làm cho tôi một rổ kẹo ú kẹo mè mang xuống chợ Hội An bán để có thêm kinh tế cho chùa. Có những lúc bán không hết thì mấy bà đạo hữu mua ủng hộ, hoặc có khi tôi cao hứng kẹo ú kẹo mè trộn thêm với “đường cát” thì mấy bà góp tiền ủng hộ từ thiện để có vốn cho ngày mai.

Dần dà vào những năm sau thì chùa mới có người vào tu như bác Hồ Quyên pháp danh Thị Tâm, chú Phạm Ngọc Thứ pháp danh Thị Phẩm, chú Nguyễn Thanh Tùng pháp danh Như Mậu. Trong mùa tranh đấu năm 1963 thì huynh trưởng Lê Thanh Hải xuất gia tại đây, về sau là Hòa Thượng Thích Tâm Thanh, khai sơn tu viện Vĩnh Minh ở Lâm Đồng. Đến năm 1964 thì chú Lê Cưỡng tức thầy Như Điển, chú Phạm Kim Biên pháp danh Như Lượng, rồi các chú Ngô, chú Quang, chú Duy pháp danh Như Giáo, chú C, chú Đức, chú Trai tức Sư Giác Thanh ngày nay v.v… cùng về tu học. Bên cạnh đó chùa còn có các học sinh được Thầy nuôi ăn học như Nhơn, Nhiêu, Hoàng, Sơn, Hùng tức Sư Giác Ánh ở Vĩnh Long ngày nay v.v…

Năm 1965 tôi thọ Sa di tại chùa Long Tuyền được Thầy cho pháp tự Giải Hành và năm 1970 thọ Tỳ kheo tại giới đàn Vĩnh Gia và Thầy cho hiệu là Trí Viên. Tôi tuy là đệ tử đầu tay của Thầy nhưng cái thuở tôi vào chùa thì còn quá nhiều khó khăn, thêm vào đó khả năng tôi hạn chế nên việc học hành không được nhiều. Tuy nhiên, Thầy thường dẫn tôi đi ứng phú nên tôi thừa hưởng được âm diệu tán tụng của Thầy. Vì thế ở chùa, tôi lo việc nhang đăng cũng như chủ trì các đám lễ mỗi khi Thầy vắng mặt. Chú Thứ là người lanh lẹ tháo vát nên thường theo làm thị giả cho Thầy. Thầy Tâm Thanh xuống tóc trong mùa tranh đấu năm 63, ở một thời gian ngắn rồi vào Nam tu học. Chùa Viên Giác lúc ấy chúng lý rất đông cũng như những người tỵ nạn chiến tranh về ở cũng nhiều.

Sau pháp nạn 1963, Thầy tôi đã trở thành một trong những yếu nhân quan trọng của Phật giáo Quảng Nam. Ai cũng nghĩ chúng Viên Giác lúc đó sướng nhưng thật ra kinh tế vẫn giữ tinh thần của chư tổ “bất tác bất thực”. Tôi lo về phần ứng phú, chú Như Mậu mở phòng mạch châm cứu, chú Như Điển chầm nón v.v… Trong những ngày sóc vọng chùa làm đậu khuôn để phát hành. Chú Như Điển lo phần gánh nước và bòng đậu. Lúc ấy không có máy nước như bây giờ nên Chú Điển phải gánh nước ở các giếng gần chùa mới đủ nước cung ứng cho công việc. Các em học sinh như Nhơn, Nhiêu lo phần xay đậu với một cái cối bằng đá to, phần chế biến thành phẩm nhờ các đạo hữu như bà Chín, bà Trợ, bà Năm Nga, chị Bốn v.v…, phần đi phát hành thì có chú Ngô, chú Đức. Đôi khi các bà đạo hữu dưới phố lên mắng vốn: “Chú Đức gánh đậu khuôn đi bán mà cứ rao ai mua cá liệt không” khiến cả chúng được một trận cười vỡ bụng.

Người đời thường nói “Thợ rèn ăn dao luộc” quả không sai. Tuy cả chúng làm đậu nhưng mấy khi được ăn một miếng đậu ngon. Đa phần đậu được đem đi bán để có tiền trang trải cho các khoản sinh hoạt của chùa. Các mảnh cắt rẻo còn lại thì nấu canh cho chúng ăn. Thỉnh thoảng các cô cũng như các anh Huynh Trưởng trong Ban Hướng Dẫn Quảng Nam lấy xác đậu xào với rau răm rồi nướng bánh tráng xúc ăn. Đó là bữa tiệc ngon nhất của đại chúng thời ấy.

Chúng chùa Viên Giác thời ấy rất đông nhưng tôi chẳng thân ai ngoài chú Như Điển. Thời gian chú Như Điển ở Viên Giác khoảng 2 năm nhưng anh em chúng tôi rất là khắn khít. Chú Điển là người siêng năng trong việc tu việc học. Trong những mùa thi, tôi thấy Chú học bài rất khuya nhưng sáng sớm 3 giờ đã dậy cùng đại chúng công phu. Sự chăm chỉ siêng năng của Chú được đền bù xứng đáng khi cuối năm học Chú được xích lô chở về chùa với đầy phần thưởng của trường, khiến cả chúng ai cũng tự hào.

Chú Như Điển tánh tình nghiêm túc, ít khi nào tôi thấy chú giỡn cười và nói chuyện của người nên trong chúng ai cũng nể sợ. Chú tuy trẻ tuổi nhưng cũng đã toát lên sự uy nghiêm của một người Thầy. Có lần chú Trai trèo lên mái chùa hái trộm khế của Bà Chất. Chẳng may chú sẩy tay té xuống, cả chúng ai cũng nghĩ chú gãy chân. Có ai đó la lên: “Chú Điển ra đó mi!”. Thế là chú Trai co giò chạy trốn vì sợ bị chú Điển trách phạt.

Thời gian huynh đệ chúng tôiViên Giác chỉ có 2 năm với nhiều kỷ niệm không thể nào quên. Đến năm 1969 thì chú Như Điển vào Sài Gòn tu học rồi du học Nhật Bản năm 1972. Đến năm 1974 Chú có dẫn vài người Nhật về thăm quê hương. Tôi có hỏi Chú khi nào về lại? Chú nói học xong thì sẽ về. Tuy nhiên, sau năm 1975 thế sự đổi thay và từ đó đến nay anh em chúng tôi không có cơ duyên gặp gỡ nhau nữa. Sau này nghe nói Thầy Như Điển đã sang nước Đức hành đạo và làm một ngôi chùa rất lớn cũng lấy tên Viên Giác.

Sau năm 1975, đứng trước những biến động của xã hội, đời sống của người tu cũng gặp nhiều khó khăn hơn trước. Thế rồi, cuối năm 1976 tôi giã từ ngôi chùa Viên Giác thân yêutrở lại đời sống của người cư sĩ. Tuy không còn làm Trưởng tử Như Lai nhưng tôi vẫn hằng tâm niệm mình sẽ làm theo khả năng thực tế của mình để báo đáp ân Thầy Tổ và trả nợ tín thí đàn na. Vì thế, trong những ngày sóc vọng tôi về chùa phụ Thầy trong nghi lễ, hoặc ruộng nương tôi cũng phụ giúp cùng Thầy, hoặc khi những vị đạo hữu lâm chung mà Thầy bận việc thì tôi đến hộ niệm tống táng v.v….

Trong nhà chùa thường có câu “bông xoài trứng cá” để chỉ cho sự khó thành tựu xuyên suốt một đời tu của người tăng sĩ. Ngẫm lại điều này cũng không sai. Trước năm 1975, chúng chùa Viên Giác rất đông, nhưng trải một cuộc biến thiên của lịch sử thì giờ chỉ đếm còn trên đầu ngón tay. Thế hệ chúng tôi trước 1975 có khoảng 20 vị nhưng đi đến chung cuộc thì chỉ còn hai vị, đó là Cố Hòa Thượng Thích Tâm Thanh -khai sơn Vĩnh Minh Tự Viện tỉnh Lâm Đồng và hiện tại còn Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương trượng chùa Viên Giác, Đức Quốc. Cả hai vị đều thành tựu đạo nghiệp, hoằng pháp một vùng làm rạng rỡ cho ngôi nhà Phật pháp. Đây cũng là điều tự hào của tất cả anh em chúng tôi.

Giã biệt nhau cũng đã tròn 40 năm tôi chưa một lần gặp lại Hòa Thượng Như Điển. Thời gian sau này, Thầy có viết thư thăm tôi và thỉnh thoảng cũng trợ giúp trong những khi gia cảnh ngặt nghèo. Tuy giờ tăng tục có phần cách biệt nhưng tôi nghĩ rằng tình cảm anh em chúng tôi không bao giờ thay đổi. Hy vọng sẽ có một ngày nào đó tôi sẽ gặp lại Hòa Thượng, gặp lại Chú Điển thân thương thuở nào để ôn lại một thời tu học dưới mái chùa xưa.

(Đầu hạ năm Giáp Ngọ, 2014)

Quỹ Học Bổng Hiền Mẫu của HT. Thích Bảo Lạc và Quỹ Học Bổng Thích Như Điển

cấp phát suốt 20 năm qua cho học sinh nghèo học hạnh kiêm toàn tại các trường trung học Quảng Nam

s142-003s142-002s142-001

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19878)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20948)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19314)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40568)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21290)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41106)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24139)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23081)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17868)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26991)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20765)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33657)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 21052)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28952)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12712)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25334)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19162)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17530)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25808)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 19026)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 19010)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 29051)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18928)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33364)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38430)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31274)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18256)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24533)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19463)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17923)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 23083)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 18040)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32225)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17399)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17443)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16093)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18576)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20786)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18085)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20132)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14910)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20930)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15075)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15773)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12948)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14516)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14934)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29431)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12780)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14538)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant