Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Introduction/ Lời Giới Thiệu

21 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 13985)
Introduction/ Lời Giới Thiệu

NHỮNG LỜI DẠY

TỪ CÁC THIỀN SƯ VIỆT NAM XƯA
Teachings From Ancient Vietnamese Zen Masters
Translated and Commented by Nguyen Giac
Phap Vuong Monastery
California, 2010

Introduction


Stretching two thousand years of dharma transmission, and after many generations of patriarchs and great Zen monks, the Vietnamese Buddhism now has a dharma treasure, in which hundreds of dharma texts have showed the Way and encouraged learners via poems, verses, chants and praises. Carrying profound meanings and practical instructions, those dharma texts have helped so many practitioners to experience the awakening and attain liberation

The Vietnamese monks wrote most of those precious dharma texts originally in ancient Chinese. These days, a majority of those texts are already translated into modern Vietnamese language; though still limited, those poems and verses are greatly helping the young Buddhists who don’t understand Chinese.

For those who live outside Vietnam, now and in the future, it would be very difficult to understand those dharma poems, even in the modern-Vietnamese language. The reason is that the young Vietnamese who are born and live outside Vietnam cannot understand Vietnamese well; they can have a simple conversation in Vietnamese, but most of them cannot read and write Vietnamese. Thus, it is very hard, in general, to preserve the Vietnamese culture, and, in particular, to pass on the Buddhist treasure to the young overseas Vietnamese – both now and in the future.

So, it is necessary and urgent to get the Vietnamese dharma texts translated into English; via the bilingual texts, the young overseas Vietnamese would learn both the precious Buddhist treasure and the Vietnamese language.

For that reason, Phap Vuong Monastery (located in Escondido, San Diego, California, USA) decides to publish the bilingual book “Teachings from Ancient Vietnamese Zen Master” -- in which many poems and verses written by the Vietnam’s ancient patriarchs are translated into the modern-Vietnamese language by several scholars, and then into English by layperson Nguyen Giac Phan Tan Hai.

From some years ago, layperson Nguyen Giac Phan Tan Hai started translating into English many poems and verses written by Vietnamese Zen masters; his translations were posted online in some Vietnamese Buddhist websites, primarily in Thu Vien Hoa Sen (www.thuvienhoasen.org) – for examples, “Tran Nhan Tong (1258-1308) The King Who Founded A Zen School” [Trần Nhân Tông Đức Vua Sáng Tổ Một Dòng Thiền], “The Wisdom Within Teachings and Poetry of the Vietnamese Zen Master Tue Trung Thuong Si (1230-1291),” and “The Zen Teachings of Master Duy Luc”... 

“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” is a bilingual compilation of many dharma poems, verses and talks made by the ancient monks in Vietnam – in which the earliest writer was the Most Venerable Khuong Tang Hoi (3rd century), also the founder of Vietnamese Buddhism; and the most recent one was the Most Venerable Thanh Dam of 19th century. Beside the translations, layperson Nguyen Giac made the bilingual comments accordingly.

This book is a bilingual selection of many dharma talks, poems and verses made by Zen masters from the 3rd century to the 19th century; thus, this book carries the core of the Buddhist teachings, especially and prominently the Zen teachings.

Phap Vuong Monastery would like to sincerely praise layperson Nguyen Giac Phan Tan Hai, and cordially introduce this book to all readers. We wish that the parents would encourage their children to read this book – for the benefit of learning in both Buddhist teachings and Vietnamese language.

 

At the Phap Vuong Monastery, San Diego, in the autumn of 2010.

Thich Nguyen Sieu Bhikkhu

 

Lời Giới Thiệu


Suốt hai ngàn năm lịch sử truyền thừa, trải bao thế hệ lịch đại tổ sư và chư vị cao tăng thạc đức, Phật Giáo Việt Nam có được kho tàng pháp bảo quý giá với hàng trăm bài pháp khai đạo, khuyến tu qua các thể loại thơ, văn, kệ, tán, vừa cao sâu vi diệu, vừa hữu ích thiết thực cho con đường tu tậpchứng đắc của những hành giả thực hiện giác ngộgiải thoát.

Phần lớn những bài thi kệ quý giá đó đều được chư tôn thiền đức sáng tác bằng chữ Hán. May mắn là hơn nửa thế kỷ nay, đa phần các thơ văn ấy đều được dịch sang chữ Việt, mặc dù sự phổ biến vẫn còn giới hạn, đã góp phần giúp ích rất lớn cho người học Phật ở các thế hệ về sau không thông thạo Hán văn.

Tuy nhiên, tại hải ngoại, hiện nay và sau này, ngay cả những bản dịch chữ Việt của các bài pháp bằng thi kệ của chư tổ, cũng khó bề được phổ biếntiếp nhận một cách trọn vẹn. Lý do là vì, các thế hệ con em Việt Nam sinh trưởng tại hải ngoại ngày càng ít biết tiếng Việt. Các thế hệ trẻ Việt Nam này, có thể nghe và nói được tiếng Việt, nhưng đọc và viết thì khó khăn. Sự kiện này cho thấy một viễn tượng không mấy khả quan trong việc duy trì văn hóa Việt nói chung và truyền bá Phật Pháp nói riêng cho các thế hệ con em người Việt ở hải ngoại trong hiện tại cũng như tương lai.

Chính vì vậy, thực hiện các phương thức hữu hiệu để truyền bá Chánh Pháp, mà trong đó việc chuyển dịch kho tàng pháp bảo của Phật Giáo Việt Nam sang tiếng Anh để giúp giới trẻ dễ đọc và hiểu là điều cần thiếtcấp bách. Thuận tiện hơn hết là ấn hành những bản dịch tiếng Anh kèm theo bản tiếng Việt để giới trẻ có cơ hội duy trì tiếng mẹ đẻ.

Trong tâm niệm như vậy, Tu Viện Pháp Vương, thành phố Escondido, Quận San Diego, California, Hoa Kỳ, phát tâm ấn hành bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ, và bài pháp của chư tổ Phật Giáo Việt Nam với tựa đề “Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” [Những Lời Dạy Từ Các Thiền Sư Việt Nam Xưa] do cư sĩ Nguyên Giác Phan Tấn Hải thực hiện, in chung với bản tiếng Việt do nhiều người dịch được cư sĩ Nguyên Giác sưu tập.

Trong suốt mấy năm qua, cư sĩ Nguyên Giác Phan Tấn Hải vẫn âm thầm và kiên trì thực hiện việc dịch sang tiếng Anh nhiều tác phẩm thi văn của các thiền sư Việt Nam, trong đó một số đã được đăng trên các trang nhà Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt là Thư Viện Hoa Sen ( www.thuvienhoasen.org ) như, “Tran Nhan Tong (1258-1308) The King Who Founded A Zen School” [Trần Nhân Tông Đức Vua Sáng Tổ Một Dòng Thiền], “The Wisdom Within Teachings and Poetry of the Vietnamese Zen Master Tue Trung Thuong Si (1230-1291),” và “The Zen Teachings of Master Duy Luc,” v.v…

“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch, được biết như là vị khai tổ của Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt những tác phẩm của Ngài là những tác phẩm văn học Phật Giáo Việt Nam có mặt sớm nhất mà ngày nay chúng ta biết, tới ngài Thanh Đàm ở thế kỷ thứ 19. Ngoài phần dịch, cư sĩ Nguyên Giác còn viết phần bình bằng tiếng Anh và dịch luôn sang tiếng Việt.

Vì là bản dịch tập hợp những bài pháp, bài thơ và kệ của các thiền sư trải dài 16 thế kỷ, từ thế kỷ 3 đến thế kỷ 19, tác phẩm này chứa đựng tất cả những tinh yếu của Phật Pháp, đặc biệtnổi bật nhất là về thiền.

Tu Viện Pháp Vương xin thành tâm tán thán công đức của cư sĩ Nguyên Giác Phan Tấn Hải và trân trọng giới thiệu đến quý độc giả. Mong rằng các bậc cha mẹ phát tâm khuyến khích con em đọc tác phẩm này để vừa hiểu Phật Pháp, vừa học thêm tiếng Việt.

Mong lắm thay!

Tu Viện Pháp Vương, San Diego, mùa thu 2010

Thích Nguyên Siêu


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34406)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16887)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22995)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13071)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21995)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22240)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14886)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23618)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24161)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23698)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17175)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19391)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27116)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14438)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13866)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22717)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14778)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17387)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12699)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13893)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10431)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14732)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17222)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12577)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12745)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10391)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28738)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10729)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11154)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16906)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15797)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13360)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12575)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11397)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13053)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19336)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12286)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28673)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10074)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21603)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12816)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17857)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26311)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11733)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10874)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22788)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12074)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10623)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11428)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11549)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant