Phật lịch: 2561; Việt lịch: 4896; Nông lịch: Đinh Dậu
THIỀN QUÁN VỀ SỐNG VÀ CHẾT
Cẩm Nang Hướng Dẫn Thực Hành
The Zen of Living and Dying
A Practical and Spiritual Guide
Nguyên tác Anh ngữ:
Đại Sư Philip Kapleau
Việt dịch:
HT Thích Như Điển
TT Thích Nguyên Tạng
Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu
Ấn Hành 2017
Mục lục
Mục lục. 3
Ghi Chú Của Người Biên Tập. 7
Lời Cảm Tạ của Tác Giả. 8
Lời Dẫn Nhập. 10
Phần một: SỰ CHẾT. 23
1.... Phương Diện Hiện Sinh Của Sự Chết 25
Sống Là Gì? Chết Là Gì?. 25
Phản Ứng Của Các Vị Thầy Về Sự Chết 30
“Sinh” Và “Tử” Nghĩa Là Gì?. 38
Năng Lực Của Vũ Trụ. 40
Tại Sao Chúng Ta Sợ Chết?. 42
Tự Ngã. 48
Đối Diện Cái Chết Một Cách Vô Úy. 59
2.... Quán Niệm Về Sự Chết 62
Suy Ngẫm Về Sự Chết: Tám Quan Điểm.. 66
Thiền Quán Về Từ Ngữ “Chết” 68
Tham Quán Một Công Án Về Sự Chết 70
Thiền Quán Về Sự Chết Bằng Chuỗi Hạt 71
Ngày Của Người Chết Ở Mexico. 72
Những Điều Bận Tâm Của Thế Gian. 74
3.... Đối Diện Với Cái Chết 76
Socrates (470-399 Trước Tây Lịch) 78
Duncan Phyfe (1895-1985) 84
Leah (1933-1987) 90
Thiền Sư Tăng Triệu (384-414) 94
Sri Ramana Maharshi (1879-1950) 95
Đức Phật Thích Ca (624-544 Trước Tây Lịch) 96
Phần hai: CHẾT. 99
4.... Người Hấp Hối Và Cái Chết 100
Tiến Trình Chết 100
CHẾT HẰNG NGÀY.. 103
Chúng Ta Chết Như Đã Sống. 107
SỐNG SÓT VÀ TIẾNG NÓI NỘI TÂM.. 109
Có Nên Cố Gắng Chống Lại Sự Chết Hay Không?. 112
Cái Chết Tốt Đẹp. 113
Hai Lối Chết 114
5.... VẤN ĐỀ ĐAU KHỔ.. 122
Đau Khổ Của Đời Sống. 123
Đau Đớn Của Thể Xác. 131
6.... TỰ TỬ VÀ CHẾT NHẸ NHÀNG.. 137
Tự Tử.. 137
Chết Nhẹ Nhàng. 142
7.... VỚI NGƯỜI BỆNH THỜI KỲ CUỐI 147
Giá Trị của Sám Hối 147
Giữ Tâm Trí Trong Sáng. 148
Thở Để Giải Trừ Lo Sợ. 149
Tâm Trí Vào Lúc Trút Hơi Thở Cuối Cùng. 149
Suy Ngẫm Về Sự Chết 157
Thiền Quán Dành Cho Người Hấp Hối 160
8.... DÀNH CHO GIA ĐÌNH VÀ BẠN BÈ CỦA NGƯỜI HẤP HỐI 164
Chết ở bệnh xá hay ở nhà. 164
Những Giờ Phút Cuối Cùng Của Người Hấp Hối 165
9.... THIÊU HAY CHÔN.. 170
Sáu Cách Giải Quyết Thi Hài Của Người Quá Cố. 170
Trả Trước Cho Tang Lễ Của Mình. 171
Giám Đốc Tang Lễ Có Cần Thiết Không?. 172
Canh Thức Bên Quan Tài 173
Sự Hiện Diện Của Thi Hài Ở Tang Lễ. 174
Hãy Đợi Cho Tới Khi Sinh Lực Rời Khỏi Thể Xác. 176
Những Phương Diện Tôn Giáo Của Việc Hỏa Táng 179
10.. TỔ CHỨC TANG LỄ.. 181
Tang Lễ. 183
Giá Trị Của Tụng Niệm.. 194
Tang Lễ Cho Trẻ Sơ Sinh. 197
Phần ba: NGHIỆP BÁO.. 199
11.. TÌM HIỂU VỀ NGHIỆP BÁO.. 201
Mặt Bất Bình Đẳng Của Cuộc Đời 201
Luân Hồi 203
Tại Sao Ta Nên Tin Vào Nghiệp Báo?. 204
Nghiệp Và Nguyên Nhân. 205
Nghiệp Và Ý Định. 206
Nghiệp Không Phải Là Số Phận. 208
Nguyên Nhân Chính Và Nguyên Nhân Phụ. 210
12.. CHUYỂN NGHIỆP.. 212
Ác Nghiệp Có Thể Ngăn Ngừa Được Không?. 212
Hiện Báo Và Hậu Báo. 213
Nghiệp Quả Biến Đổi Và Nghiệp Quả Cố Định. 214
Vượt Qua Nghiệp Báo. 217
Cộng Nghiệp. 220
Giảm Nhẹ Nghiệp Báo. 226
Khi Người Khác Sai Lầm, Mình cũng Sai Lầm.. 228
13.. SỰ LIÊN TƯƠNG CỦA ĐỜI SỐNG.. 231
Chúng Ta Là Anh Em.. 231
Nghiệp Và Sự Tự Tử.. 232
Nghiệp Và Sự Phá Thai 236
Nghiệp Và Sự Trợ Tử.. 237
Nghiệp Và Quả Báo. 238
Nghiệp Quả Xuất Hiện Trong Hiện Tại Và Tương Lai 238
Nghiệp Và Ý Muốn Học Những Điều Tốt 240
Nghiệp Báo Và Lòng Từ Bi 243
Nghiệp Và Sự Biến Đổi 247
Tạo Nghiệp Tốt 248
Phần bốn: TÁI SINH.. 251
14.. TÌM HIỂU SỰ TÁI SINH.. 253
Cái Gì Ở Bên Kia Cửa Tử?. 253
Sự Sống Sau Khi Chết 253
Cõi Trung Ấm.. 256
Tái Sanh Và Mục Đích Của Đời Sống. 264
Sự Khác Biệt Giữa Tái Sanh Và Luân Hồi 265
Cái Gì Chuyển Di?. 267
Sức Mạnh Của Ý Chí 269
Nỗi Sợ Hãi Có Thể Mang Từ Kiếp Này Đến Kiếp Khác Không? 273
Nhớ Lại Kiếp Trước. 274
15.. NÓI THÊM VỀ SỰ TÁI SINH.. 286
Hiệu Quả Của Đạo Đức. 286
Di Truyền, Môi Trường Hay Nghiệp. 287
Cha Mẹ, Con Cái Và Tái Sanh. 291
Tái Sanh, Sở Thích Và Năng Khiếu Đặc Biệt 294
Kinh Nghiệm Về Cận Tử.. 297
PHỤ LỤC: PHỤ LỤC A.. 303
Giấy Ủy Thác. 303
Sống Với Kỹ Thuật 304
Sự Tự Quyết Của Bệnh Nhân. 305
Làm Bản Chỉ Thị Trước. 306
Sự Trợ Tử Của Bác Sĩ (Y Tá) 312
PHỤ LỤC B.. 317
Việc Chăm Sóc Ở Bệnh Viện. 317
PHỤ LỤC C.. 324
Những Điều Cần Phải Làm Khi Có Người Qua Đời: BẢNG LIỆT KÊ 324
PHỤ LỤC D.. 328
An Ủi Người Có Tang: Những Điều Nên Làm Và Không Nên Làm 328
PHỤ LỤC E.. 330
Thiền Quán. 330
Thiền Quán Ở Nơi Vắng Lặng Và Trong Công Việc Hằng Ngày 331
GIẢI THÍCH VỀ TỪ NGỮ.. 337
LỜI KẾT. 345
PHILIP KAPLEAU Một Thiền Sư người Mỹ. 351
Sách cùng một Tác Giả, Dịch Giả HT Thích Như Điển 363
Sách cùng một Tác Giả, Dịch Giả TT Thích Nguyên Tạng 369
Phương Danh Phật tử phát tâm Ấn Tống. 373
Ghi Chú Của Người Biên Tập
“Thiền Quán về Sống & Chết, Cẩm Nang Hướng Dẫn Thực Hành”, là tập sách được sửa đổi và được biên tập lại từ sách “Vòng Luân Hồi” (The wheel of Life and Death) của Thiền Sư Philip Kapleau, được xuất bản năm 1989.
Lời Cảm Tạ của Tác Giả
Không bao giờ có một cuốn sách nào là công trạng của riêng một người. Ở phía sau mỗi cuốn sách được hoàn chỉnh mà ta nhìn thấy, đã được nhiều người giúp đỡ. Tôi rất biết ơn những người sau đây vì sự đóng góp của họ.
Sư Cô Sunyana Gracef đã cộng tác với tôi về hai đề mục “Nghiệp và tái sinh”. Nếu không có sự hỗ trợ của Sư Cô, những đề mục này đã không được viết một cách trọn vẹn như bây giờ tôi nghĩ đã trọn vẹn.
Sư Cô Mitra Bishop đã giúp tôi trong việc nghiên cứu, đánh máy bản thảo đầu tiên, và làm quy trình dữ kiện cả cuốn sách.
Geoff Lister, một nhà đánh giá bệnh viện có kinh nghiệm, đã cung cấp thông tin chi tiết về cấu trúc và hoạt động của các bệnh viện.
Tom Roberts, bạn lâu năm và học viên trưởng của tôi, đã trông coi nhiều phương diện của cuốn sách này, từ việc liên hệ xuất bản đến phê bình.
Luật sư Casey Frank, một người bạn tốt và học viên lâu năm, soạn thông tin về những đề tài hấp hối có sự giúp đỡ của y sĩ, ý nguyện lúc sống và những đề tài liên quan.
Thượng Tọa Bodhin Kjolhede, Trụ Trì Thiền đường Richester; Bác sĩ Peter Auhagen; Bác sĩ Christina Auhagen và tôi đã có nhiều cuộc thảo luận về sự hấp hối và chết, cung cấp ý tưởng cho cuốn sách này.
Chris Pulleyn, Ken Kraft, Tiến sĩ Mary Wolfe và Rafe Martin đọc bản thảo của cuốn sách này và đề nghị nhiều điều hữu ích.
Các Bác sĩ Leonard Wheeler, John Sheldon, Maike Otto và Robert Goldman, dù rất bận rộn, đã dành thời giờ để chia sẻ với tôi về những kinh nghiệm của các vị với những bệnh nhân hấp hối.
Các y tá Penny Townsend Quill, Carolyn Jaffe, Nathan Hanks, và Jeffrey Estes đã vui lòng trả lời vô số những câu hỏi của tôi về những người bị bệnh thời kỳ cuối.
Tôi cảm ơn Greg Mello vì bài báo của ông về cuộc đời của Socrates.
Sau cùng, tôi chịu ơn sâu xa Peter Turner, người biên tập của tôi ở nhà xuất bản Shambhala, đã biên tập một cách tuyệt vời cuốn “Vòng Luân Hồi” (The wheel of Life and Death) cho việc tái xuất bản.
Lời Dẫn Nhập
Có rất nhiều nghiên cứu loại văn học về sự chết và hấp hối cũng như một khối lượng lớn những cuốn sách và những bài báo viết về những điều này. Trong thập niên vừa qua, số lượng của chúng tăng vọt đều gồm cả những cuốn sách viết về tự tử vốn gây tranh luận, những lời kể về kinh nghiệm cận tử, và những bài báo viết về cách thi hành ý nguyện lúc sống của những người hấp hối. Khối lượng thông tin lớn lao này đáp ứng nhu cầu sâu xa của con người, nhu cầu có lời giải đáp cho những câu hỏi vĩnh cửu “Tôi đã từ đâu tới khi được sinh ra và sẽ đi đâu khi chết? Đời sống và cái chết của tôi có ý nghĩa gì?”
Là con người thì ai cũng có những điều thắc mắc này phản chiếu sự nghi ngờ lớn nhất của chúng ta, sự xa lạ sâu xa nhất của chúng ta với Tự Ngã. Không có những lời giải đáp thích đáng thỏa mãn, thì trong tâm vẫn còn mối thắc mắc day dứt làm hỏng cả những kinh nghiệm ngọt ngào nhất của đời sống. Vì đối với quảng đại quần chúng, vẫn có một niềm tin rằng sự chết là tai họa lớn nhất của con người, và sự hấp hối là cuộc chiến đấu cuối cùng đầy đau đớn chống lại sự diệt vong. Cùng lúc đó tính chất bí ẩn của sự chết vốn được coi là sự kết thúc của cuộc đời, làm cho loài người kinh sợ từ khi họ có ý thức về đời sống.
Tại sao lại có thêm một cuốn sách nữa về sự chết và hấp hối? Và cuốn sách này khác những cuốn khác ở chỗ nào? Giá trị của những cuốn sách nhiều vô số này là đã uốn nắn thái độ xây dựng và từ bi của xã hội đối với người bệnh sắp chết; đã rọi sáng cho lối nghĩ của chúng ta về cuộc đời và cái chết của chính mình, nhưng phần lớn những cuốn sách này thiếu phương diện tâm linh, tức thái độ có tính cách tôn giáo đối với sự sống và sự chết, cũng như sự hướng dẫn thực dụng về điều có thể được gọi là nghệ thuật và tôn giáo của sự chết.
Một sự định hướng tâm linh về sự chết bao gồm một số điều, trong đó có sự hiểu và thực tâm chấp nhận nguyên nhân và tính liên tục của sự sống. Điều này cũng hàm ý công nhận giá trị của nghi thức tang lễ mà khi được thi hành với sự thành tâm, sẽ giúp cho sự chuyển tiếp được thuận lợi từ kiếp này sang kiếp tới ở tương lai. Nhiều người cảm thấy tang lễ ngày nay là một sự kiện đơn sơ, vội vã, không có ý nghĩa tâm linh đích thực, kể cả khi được cử hành bởi tu sĩ, một nghi lễ bề ngoài mà người ta không nhận thấy sự thật của sự chết, sự mất mát và sự đau buồn.
Giáo sư xã hội học Robert Fulton và những người khác đã ghi nhận rằng, trong thế hệ vừa qua một sự thế tục hóa lớn lao cái chết đã diễn ra, bây giờ người ta chết một cách “khổ hạnh” trong những bệnh viện vô trùng thay vì chết một cách “mỹ thuật” ở tại nhà của họ. Y sĩ đã thay thế giáo sĩ, y sĩ là thầy pháp của thời nay với quyền lực kéo dài sự sống, y sĩ là người hộ tống mới của chúng ta đi khỏi cõi đầy nước mắt này. Chúng ta trả giá cao cho sự thay đổi giá trị này.
Trong cuốn sách của Bác Sĩ Tâm Thần và Tâm Lý, người Thụy Sĩ, Carl Jung “Người hiện đại đi tìm linh hồn” (“Modern Man in Search of a Soul”, Carl Jung 1875-1962), đã nói về cái giá trị đó: “Trong số tất cả những bệnh nhân của tôi ở nửa sau của cuộc đời, tức là trên 35 tuổi, không có một người nào có vấn đề trong phương cách cuối cùng không phải là tìm một nhãn quan tôn giáo về đời sống. Có thể nói rằng mỗi người trong số họ cảm thấy bệnh tật vì mình đã mất cái mà các tôn giáo của mọi thời đại đã ban cho các tín đồ, và không có người nào trong số họ đã thực sự khỏi bệnh mà không lấy lại nhân sinh quan tôn giáo của mình”.
Một lối tiếp cận tâm linh tới người hấp hối không cần phải có những giáo điều, tín điều hay những nguyên tắc đạo đức tuyệt đối, giống như không khí mà chúng ta thở, lối tiếp cận tâm linh này không phân cách với đời sống. “Tử Thư Ai Cập” (Egyptian Book of the Death) của thời xưa và “Tử Thư Tây Tạng” (Tibetan Book of the Death) có sau đó, và “Nghệ Thuật Chết” (The Art of Dying) của Thiên Chúa Giáo thời Trung Cổ cung cấp sự hướng dẫn thực tiễn đó. Nhưng những cuốn sách cổ này có điểm bất lợi là trình bày những dữ kiện bí ẩn với những từ ngữ quá khó hiểu hay kỳ lạ đối với người đọc ngày nay.
Một nghệ thuật chết được dùng trong thời đại chúng ta có thể tiến xa trong việc giải tỏa bầu không khí được phi phân hóa của cái chết bệnh viện vốn đã trở thành dấu hiệu bi thảm của thời đại này. Việc thực hành y khoa biểu tỏ tính chất thông cảm sâu xa vốn có của mình, nhưng sự thông cảm đó mỗi lúc mỗi đi lạc ra ngoài đường lối, khi nghệ thuật và tôn giáo của sự chết bị chìm đắm trong khoa học kéo dài sự sống với bất cứ giá nào.
Nói về sự tai hại của việc kéo dài sự sống của khoa học ngày nay, trong phần đề tựa của mình cho cuốn “Tử Thư Tây Tạng” (Tibetan Book of the Death) , W.Y. Evans-Wentz đã viết: “Chết trong bệnh viện, có thể khi đang chịu ảnh hưởng của nha phiến, hoặc đang chịu sự kích thích của một loại thuốc nào đó được chích vào cơ thể, để làm cho người hấp hối bám vào sự sống càng lâu càng tốt, thì như vậy chỉ là một cái chết không đáng mong ước, giống như cái chết vì bị chấn động bởi bom đạn của người lính trên chiến địa. Kết quả bình thường của việc sinh đẻ có thể hỏng vì sự sai lầm của người hộ sinh, cũng giống như vậy, kết quả bình thường của tiến trình chết có thể bị hỏng vì sự sai lầm của người cứu chữa”.
Những cuộc nghiên cứu cho thấy rằng khi trạng thái tâm trí của người bệnh hấp hối không bị can thiệp bởi thuốc an thần hay bởi một loại y dược nào khác, tức là khi họ hoàn toàn tỉnh táo và có thể đáp ứng môi trường với ý thức trọn vẹn, cảm xúc chính yếu của họ là an tĩnh, không lo sợ, và càng an tĩnh hơn nếu họ đã có niềm tin vững chắc rằng sự sống là liên tục chứ không chấm dứt vào lúc chết.
Nói cho công bằng với y khoa thì việc ngăn cản tiến trình chết bằng những chất hóa học mạnh và những phương tiện khác phản chiếu một mô thức văn hóa vốn không chỉ xem mọi sự đau đớn là không cần thiết, mà còn xem sự chết là kẻ địch lớn tối hậu để ngăn cản và chế ngự với bất cứ giá nào. Sự chết vốn phải được chào đón như một sự kiện tự nhiên không thể tránh được, trở thành Tử Thần Cầm Lưỡi Hái Khắc Nghiệt, và chết trở thành điều đáng sợ nhất. Nếu con người ngày nay muốn tự “làm chủ” sự qua đời của mình và không bị lừa bịp với cái chết của chính mình, họ phải dành lại quyền lực của mình như một cá nhân hành động một cách tự trị, và khi hành động cụ thể sáng suốt trong tâm trí, phải dàn dựng sự kiện qua đời của chính mình, chống lại sự khống chế của thế lực gia đình và những thế lực khác áp đặt lên họ. Nhận xét sự bất lực của cá nhân về việc này trong thế giới đương đại, Sử gia người Pháp Phillip Aries viết: “Cái chết trong bệnh viện không còn là dịp tang lễ mà người hấp hối đứng đầu giữa những thân nhân và bạn bè của mình. Cái chết là một hiện tượng kỹ thuật xuất hiện với sự ngừng cứu chữa được quyết định bởi y sĩ và nhân viên bệnh viện. Sự thật là trong đa số trường hợp người hấp hối đã bất tỉnh rồi. Cái chết đã được mổ xẻ, được cắt thành từng miếng nhỏ bởi một loạt những bước nhỏ, mà rốt cuộc người ta không thể biết bước nào là cái chết thực sự; là bước mà trong đó ý thức đã bị mất; hay là bước mà trong đó hơi thở đã ngừng”.Ngày nay cái chết trong bệnh viện trung bình ở Mỹ còn kém đàng hoàng hơn và kém chặt chẽ hơn hai mươi, ba mươi năm trước (1975) khi cuốn sách của Aries được xuất bản. Và chính sự chăm sóc của bệnh viện cũng trở nên phi nhân hơn. Một phần của điều này là do các bác sĩ, y tá và nhân viên bệnh viện phải làm việc trong những điều kiện nặng nề. Mới đây, một tạp chí quốc gia viết: “Lo ngại, trầm uất và cô đơn là những nhân tố chính trong đời sống của các bác sĩ, và bây giờ đây là một trong những bí mật được giữ lơi lỏng nhất của thế giới”. Nhưng còn có những nguyên nhân khác, một trong những nguyên nhân này là thái độ chung của Tây Phương cố gắng gây ảnh hưởng tới những sự kiện thay vì để cho chúng đi theo con đường tự nhiên của chúng. Thái độ này được thu tóm trong câu nói: “Đừng ngồi yên một chỗ, hãy làm một điều gì đi chứ!” (Don't just sit there, do something!).
Minh họa cho thái độ này là kinh nghiệm của một bác sĩ bạn của tôi. Một hôm khi ông ta đang làm việc trong một bệnh viện lớn, một bà cao tuổi trong tình trạng hôn mê được đưa vào phòng cấp cứu nơi ông đang trực. Bà ta đang hấp hối vì một căn bệnh hiểm nghèo. Khi bác sĩ đang khám cho bà ta, một bác sĩ trưởng xuất hiện, nhìn qua bà ta rồi ra lệnh cho bác sĩ đưa ngay bà ta tới phòng chuyên khoa. Ông bác sĩ bạn tôi nói: “Khoan. Chúng ta biết bà ta đang hấp hối. Hãy để tôi ngồi với bà ta, nắm tay và cố gắng an ủi cho tới khi bà ta chết, có thể không hơn một hay hai tiếng đồng hồ nữa”. Ngó bạn tôi với ánh mắt hung dữ, vị bác sĩ trưởng phản đối: “Tại sao lại lạnh lùng và vô tâm như vậy, Bác sĩ?”, rồi gọi một y tá đưa bà ta tới phòng chuyên khoa. Vị bác sĩ bạn tôi bình luận: “Tôi nghĩ ông ta là người không biết thông cảm, và ông ta cũng đã nghĩ tôi là người như vậy. Nhận thức của người ta rất khác nhau”.
Nhưng cũng có những tín hiệu tốt. Phong trào bệnh xá đang tăng trưởng, và đây là những nhà y tế chăm sóc những người bệnh thời kỳ cuối một cách riêng tư hơn và thông cảm hơn, và phong trào “ý nguyện lúc sống” là những dấu hiệu đầy hy vọng của sự thay đổi thái độ đối với sự chết và hấp hối. Thêm nữa, sự thay đổi trong những môn học của một số trường y khoa ở Hoa Kỳ và những nước khác đang tập trung không chỉ vào việc chăm sóc người hấp hối, mà còn vào việc dành cho họ sự hỗ trợ về tình cảm nữa. Việc tái xác định giá trị của thuyết nhân quả và thuyết luân hồi đã có những bước tiến lớn ở Tây Phương trong những năm gần đây, nhưng sự chấp nhận thành tâm của giới khoa học thì có vẻ vẫn còn xa. Tuy nhiên nhiều người tin vào luân hồi và nhân quả đã tìm kiếm những tài liệu của Đông Phương và Tây Phương để biết thêm về chu trình sống và chết. Những người này đã bắt đầu phá bỏ những hàng rào, những sự kiêng kỵ trí thức mà những người được coi là có đầu óc khoa học đã dựng lên vì họ cho rằng không có bằng chứng.
Có lẽ chướng ngại chính yếu cho sự chấp nhận rộng rãi thuyết sự sống sau khi thể xác đã chết, là sự khác biệt về quan điểm triết lý giữa văn hóa Đông Phương và văn hóa Tây Phương. Giáo sư P.J. Saher viết: “Thái độ của triết lý Tây Phương là điều gì không được chứng minh thì phải bị coi là sai lầm. Thái độ của triết lý Đông Phương là điều gì không được chứng minh thì có thể được chấp nhận là sự thật cho tới khi được chứng minh là sai lầm”. Và cũng có nhiều bằng chứng để thuyết phục bất cứ suy nghĩ hợp lý nào về giá trị của thuyết luân hồi.
Không giống như thần học Tây Phương, Phật Giáo và huyền học Đông Phương dạy rằng: Sống và chết là hai sự kiện liên tiếp trong một chu trình liên tục trong mọi phương diện của thiên nhiên. Phật Giáo nói rằng sự sống và sự chết của sinh vật chỉ là phương diện được trông thấy của một dòng bất tận những nguyên nhân và hệ quả, với đời sống thế gian và đời sống ngoài thế gian liên tiếp nhau.
Quan điểm Đông Phương xem thuyết “Một đời sống một cái chết” là vô lý. Thuyết Duy vật là một niềm tin cho rằng trong số tất cả mọi vật trong vũ trụ, sự sống vận hành trong hư không. Thuyết này muốn chúng ta tin rằng hiện tượng sự sống độc đáo này phát sinh không từ đâu cả, và biến đi không dấu vết. Đa số những người tin theo thuyết này tự xem mình là người “duy lý”, nhưng trong vấn đề sự sống và sự chết này họ lại chối bỏ nguyên lý sự bảo tồn của vật chất và năng lượng, một trong những luật chính yếu của vật lý học, khi nguyên lý này được ứng dụng cho năng lượng tâm linh của tâm thức hay thần thức.
Nói về luật nhân quả mà không biết về luân hồi thì như vậy là không trọn vẹn và thiếu sót giống như một cái kéo chỉ có một lưỡi kéo. Vì vậy nhiều tài liệu mới, đa số là của Tây Phương, về nhân quả cũng như luân hồi, đã được cho vào cuốn sách này để giúp người đọc hiểu rõ hơn về hai đề mục quan trọng mà tế nhị này.
Phần thứ hai, “Hấp Hối”, ngoài việc cung cấp sự hướng dẫn tâm linh cần yếu cho người hấp hối và gia đình, còn bao gồm những điều chỉ dẫn chi tiết về cách làm một tang lễ có ý nghĩa và cách làm giảm sự đau buồn của các thân nhân trong thời gian để tang. Thêm nữa, tôi đã cố gắng trình bày rõ ràng hơn về một pháp môn có thể được gọi là “Pháp hấp hối hàng ngày” và tôi cũng cung cấp những pháp thực hành đơn giản để đạt trạng thái này. Những “cái chết” hàng ngày này là sự hòa nhập trọn vẹn tới điểm vượt lên trên bản ngã và qua luyện tập có thể được làm cho hoàn hảo và trở thành chứng nghiệm tâm linh thực sự. Nhưng nếu không có sự tạm thời dẹp bỏ tự ngã thì những “cái chết” như vậy không thể diễn ra. Và vì vậy tôi thấy cần phải xét nhiều về tính chất và nguồn gốc của tự ngã, hay cái ta, và vai trò của nó trong sự hấp hối và sự chết, vì rốt cuộc, cũng giống như một đời sống hạnh phúc hay đau khổ, một cái chết an lạc hay sợ hãi tùy thuộc vào sự phụ tùng hoặc sự nổi trội của cái ta vị kỷ. Trong phần “Hấp Hối” tôi cũng nói về sự tự tử và sự gây chết cho người bị bệnh nặng, vốn là hai đề tài càng ngày càng nhận được nhiều sự chú ý của các nhà xã hội học, tâm lý học và các nhà lãnh đạo tôn giáo, do sự gia tăng nhiều của những cái chết tự ý trong những người già cũng như trong giới trẻ.
Tôi cũng nói về pháp Thiền quán sự chết, trong đó hành giả suy ngẫm về sự hiện diện khắp nơi của sự sống và sự chết. Người đọc cũng thấy có năm tiểu sử sơ lược của những người đã đối diện sự chết một cách vô úy và thanh thản.
Trong phần phụ lục tôi cung cấp thông tin về ý nguyện lúc sống và phong trào bệnh xá dành cho người hấp hối, những điều nên làm và không nên làm trong việc an ủi những thân nhân của người quá cố, một bản danh sách những điều cần phải làm khi có người qua đời và những điều hướng dẫn về căn bản Thiền quán.
Cuốn “Thiền quán về Sống và Chết” này được chia thành bốn phần chính là Sự Chết, Hấp Hối, Nghiệp Quả và Tái Sinh, nhưng sự thật là sinh lực không thể bị chia thành những phần khác nhau. Sự phân chia này thực sự trình bày những sự chuyển động hay những sự biểu lộ của cái được gọi là “Thần thức”. Đây là bốn thành phần của một toàn phần lớn và là chính toàn phần đó. Khi đời sống được sống một cách thực sự và không bị ý niệm hóa thì những ý tưởng như sống, chết, tái sinh sẽ tan biến.
Mục đích chính của cuốn sách này có thể được tóm tắt như sau: Giúp người đọc học cách sống một cách trọn vẹn với sự sống ở mọi thời điểm và chết một cách an lạc với sự chết. (The basic aim of this book can be summed up in these words: To help the reader learn to live fully with life at every moment and die serenely with death). Nhưng sự giao tiếp một cách khẳng định như vậy với sự sống và sự chết chỉ khả hữu khi người ta nhận thấy sự chết chấm dứt đời sống, cũng giống như sự sống sửa soạn con đường dẫn tới sự chết, và biết rằng do đó sự chết có giá trị và có lý do của nó. Sự chấp nhận này còn làm cho người ta sẵn sàng đối diện sự chết một cách can đảm và nhận những gì sự chết ban cho mình một cách khôn ngoan: Đó là cách thức thay thế cái thể xác cũ mòn, đau đớn với một thể xác mới, và hơn nữa đây là cơ hội độc nhất trong đời để chứng nghiệm tính chất thật của sự sống. Vì vậy mà Triết gia Hy Lạp Socrates phản đối ý kiến cho rằng sự chết là điều xấu nhất trong mọi điều xấu, và Pliny Earle (1809-1892) đã viết:
“Vậy, chết là cái gì,
Để được coi là cần thiết cho hạnh phúc của chúng ta?
Chết là liệng bỏ tất cả những gì trần tục,
Tất cả những cặn bã mà con người thừa hưởng,
Và lại tiến tới mặc bộ áo của sự sống bất tử”.
Người ta sống, rồi người ta chết nhưng ngọn lửa sự sống vốn là sinh lực trong vạn hữu và ẩn ở dưới toàn thể tạo vật thì không đến mà cũng không đi. Ngọn lửa này cháy sáng mãi mãi, không có lúc bắt đầu, không có lúc chấm dứt. Cháy sáng với tâm thức giác ngộ này, người ta có thể chết một cách an lạc hay như sắp bước vào một cuộc phiêu lưu hấp dẫn. Một cái chết như vậy có nguyên nhân là một đời sống dành cho việc thực hiện những tiềm năng về thể xác, tâm trí, đạo đức và tâm linh của một con người.
Tôi hy vọng rằng cuốn sách này nếu được đọc kỹ sẽ có thể giúp cho người hấp hối đạt được sự chết dễ dàng và còn giải thoát người đó khỏi sự trói buộc đau đớn vào luân hồi sinh tử. Và nó cũng có thể làm cho người sống hiểu rằng sự chết cũng phù du như đời sống vậy.
Tôn tượng Phật Thích Ca
tại Đại Tháp Giác Ngộ ở Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ
Phần một:
SỰ CHẾT
Hãy sống như thế nào để tới khi được gọi
Gia nhập đoàn người vô số
Đi đến cõi bí ẩn đó
Nơi mỗi người sẽ có phòng của mình
Trong những tòa nhà yên lặng của sự chết
Mình sẽ không đi như người nô lệ trong đêm
Bị lùa tới nhà ngục của mình
Mà hãy được sự bảo hộ và an ủi của niềm tin vững chắc
Tiến tới nấm mộ
Giống như người đắp tấm vải giường
Nằm ngủ với những giấc mộng đẹp.
William Cullen Bryant
1. Phương Diện Hiện Sinh Của Sự Chết
Sống Là Gì? Chết Là Gì?
Sự sống là gì? Sự chết là gì? Trong trường hợp thông thường thì câu trả lời có vẻ hiển nhiên: Khi tim đập, máu lưu thông, phổi thở, óc cảm nhận, thì đó là sự sống. Khi người ta ăn, ngủ, làm việc, cảm thấy, đau khổ hay sung sướng, thì khi đó người ta đang sống.
Sự chết thì tất nhiên tình trạng mà ở trong đó có sự ngừng lại vĩnh viễn tất cả những chức năng sinh tồn: Hơi thở không còn, tim ngừng đập, óc không phản ứng khi được kích thích và những bắp thịt suy yếu không thể hoạt động được nữa. Tóm lại người ta không còn làm một việc gì, không nghĩ hay cảm nhận gì nữa. Với sự chết, người ta trở nên bất động và là một cái xác; nếu được chôn thì chỉ làm mồi cho côn trùng, nếu được thiêu thì chỉ là một đám khói và một chút tro. Không có gì trước khi sinh ra và không còn gì sau khi chết.
Nhưng có một quan điểm khác về thân phận con người, một quan điểm liên quan tới cái mà nhà sinh học Lyall Watson gọi là “Lỗi lầm của Romeo” trong vở kịch “Romeo và Juliet” của Shakespeare:
“Bà vú: Cô ấy chết rồi, qua đời, cô ấy chết rồi!
Phu nhân Capulet: Con gái tôi chết rồi! Chết rồi! Chết rồi!
Capulet: Máu của nó đã đông đặc và những khớp xương đã cứng. Sự sống đã rời khỏi cặp môi này từ lâu”.
Romeo nghe lời họ và tự kết liễu mạng sống của mình, nhưng chàng đã sai lầm.
Hay đó là sự sai lầm của chúng ta? Lyall Watson nghĩ như vậy, và ông nói rằng quan điểm truyền thống của chúng ta về sự chết là một nhận thức sai lầm, giống như sự hiểu lầm bi thảm của Romeo về vẻ bên ngoài đã chết của Juliet. Watson viết về cái chết tạm thời do uống thuốc mê của Juliet và cái chết thực sự của Romeo như sau:
“Khi Romeo thấy Juliet tái xanh vì không có sinh khí trong hầm mộ và cho rằng nàng đã chết, thì khi đó nàng đã chết rồi. Sự kiện sau đó Juliet tỉnh lại và giống như đang sống lại. Khi Juliet thấy Romeo nằm, không còn sự sống với lọ thuốc độc trong tay, thật sự khi đó chàng cũng đã chết rồi, và cái chết của chàng sẽ vẫn là sự thật dù nếu có một y sĩ nhanh trí nào đó chạy vô xúc ruột cho chàng đúng lúc.
Sự “Sai lầm của Romeo” là sự lầm lẫn sự sống với sự chết, và là sự lầm lẫn rất thường có chỉ vì không có sự khác biệt tuyệt đối nào giữa hai sự này. Sống và chết là hai sự biểu hiện của cùng một tiến trình sinh học và chỉ khác nhau ở mức độ”.
Cái mà chúng ta gọi là sự chết chỉ là sự thay đổi trạng thái, thường là tạm thời, và như Watson viết: “Có khi ‘có thể chữa được’, vì tự thân sự chết không có sự thật về khám nghiệm, hợp lý hay sinh học nào, và chỉ hiện hữu như một ý tưởng có giá trị trong liên hệ giữa mọi người”. Bằng chứng về sinh học, tâm lý học và nhân loại học đưa tới kết luận cho rằng, sự sống và sự chết hiện hữu bên cạnh nhau trong một liên hệ năng động liên tục thay đổi hình thức và hướng đi của nó. Nói cách khác, cái chết không phải là dấu chấm hết mà là dấu phẩy trong câu chuyện cuộc đời.
Với sự cảm nhận tinh truyền các thi sĩ cũng đã nhận xét sự bất khả phân của sự sống và sự chết. Samuel Butler (1835-1902) viết:
“Người chết thường cũng sống đối với chúng ta giống như người sống vậy, chỉ có điều chúng ta không thể làm cho họ tin như vậy… chết là không thể hiểu rằng mình đang sống”.
Có một công án Thiền nói tới sự năng động này của sự sống và chết. Giống như mọi công án khác, công án này đề cập đến sự nhất tâm bất nhị của vạn vật, và được ghi lại trong cuốn “Bích Nham Lục” (ở thế kỷ mười hai), một kho tàng những lời nói và hành vi của một số Thiền sư nổi tiếng nhất. Trong các Thiền đường và tu viện, công án này được đưa ra cho các Thiền sinh tham quán khi họ thắc mắc về vấn đề sống và chết, và cho thấy sống và chết không phải là hai trạng thái riêng biệt, độc lập với nhau, mà chỉ là hai mặt của một quy trình tự nhiên và cả hai đều hiện diện bất cứ lúc nào.
“Một hôm Thiền sư Đạo Ngộ cùng với đệ tử tới thăm một gia đình đang có đám tang ở gần tu viện. Vỗ vào quan tài, đệ tử hỏi rằng “Còn sống hay đã chết?”
Thiền sư: “Ta không nói sống, ta không nói chết”.
Đệ tử: “Tại sao Thầy không nói”.
Thiền sư: “Ta không nói. Ta không nói”.
Trên đường trở về tu viện, lại có sự trao đổi tiếp:
Đệ tử: “Thưa Thầy, nếu Thầy không nói, con sẽ đánh Thầy”.
Thiền sư: “Cứ đánh nếu muốn, nhưng ta không nói”.
Đệ tử liền đánh vị Thầy.
Về sau, khi Đạo Ngộ viên tịch, người đệ tử tới gặp Thiền sư Thạch Sương, người kế tục Đạo Ngộ và kể lại việc trên.
Thạch Sương nói: “Ta không nói sống, ta không nói chết”.
Người đệ tử chợt hiểu ý nghĩa của sống và chết”.
Để hiểu ý nghĩa sâu xa của câu hỏi của người đệ tử “Còn sống hay đã chết”, chúng ta cần phải biết cái ẩn ở phía sau câu hỏi. Ở đây người đệ tử quá thắc mắc tới mức không thể nghĩ tới tang gia và cũng không đợi tới lúc mình và vị Thầy trở về tu viện, mà thúc vị Thầy trả lời một cách rõ ràng. Vấn đề sự sống và sự chết đã đè nặng lên người đệ tử. Tất nhiên vị này biết cái xác ở trước mặt mình đã chết về mặt y học, nhưng vì cũng tin rằng con người còn là một cái gì nhiều hơn cảm giác và trí tuệ nên vị ấy hỏi “Lực sự sống có còn tiếp tục sau khi chết hay không?”
Nếu muốn có sự an tâm đích thực, sẽ có lúc tất cả chúng ta đối diện và giải đáp điều thắc mắc này. Đây không phải là những câu hỏi có tính cách triết lý, mà là có tính cách hiện sinh hay thực tế: “Tại sao mình có mặt trên trái đất này? Mình đã từ đâu tới? Khi mình chết, điều gì sẽ xảy ra với cái sinh lực mà mình gọi là ‘tự ngã’ hay cái ‘ta’. Mình sẽ hoàn toàn không còn nữa hay vẫn tồn tại trong một hình thức này hay hình thức khác. Ngoài thể xác vật chất, có một thể khác thường được gọi là hồn vía sẽ nhập vào cái thể xác khác tương ứng với tư tưởng và hành vi của mình trong kiếp này hay không? Hay sẽ có một sự sống nào khác, hoặc vật chất hoặc không hình thể, trong một cõi nào đó? Tóm lại, mình sẽ không là gì cả hay sẽ là một cái gì mới?” Câu hỏi “Người này còn sống hay đã chết” thực sự đại diện cho những câu hỏi trên.
Nên biết rằng mấy năm đã trôi qua, giữa lúc vị Thầy thứ nhất qua đời và lúc người đệ tử hỏi vị Thầy thứ hai, một khoảng thời gian mà trong đó người đệ tử không ngừng quán niệm và suy gẫm về vấn đề dai dẵng này. Để làm gì? Để thoát khỏi sự trói buộc của sinh và tử, vì đối với con người, không có mục tiêu nào cao hơn hay nhu cầu nào lớn hơn điều này. Thoát khỏi sự sống và sự chết là thoát khỏi những giới hạn nhị nguyên của sự sống và chết. Tức là bây giờ người ta sống với sự tự tại dung thông tuyệt đối, vì sống và chết cùng lúc không sống và không chết.
Thiền sư Đạo Ngộ trả lời: “Ta không nói sống, ta không nói chết”. Ngài có thể nói gì khác? Ngài biết rằng cái mà chúng ta đang gọi là sinh chỉ là mặt trái của tử, như là một khung cửa được gọi là “lối vào” ở bên ngoài và “lối ra” ở bên trong. Ngài biết rằng sống và chết là hai điều tùy thuộc vào nhau, và người ta không thể muốn chỉ có một điều này mà không có điều kia. Như vậy, bám vào sự sống có nghĩa là chối bỏ một sự thật, đó là sự chết.
Người đệ tử đỏi hỏi: “Tại sao Thầy không nói? Đừng tránh né, Thầy ơi, hãy trả lời cho con một cách rõ ràng”. Anh ta kêu gào từ trong tim. Có lẽ đây là lần đầu tiên gặp một xác chết và có thể anh ta nghĩ “Mình trông thấy người chết, nhưng sự sống trong cái xác này đã đi đâu?”.
Vị Thầy nhất quyết: “Ta không nói, ta không nói! Con có điếc không? Không nghe thấy ta nói hay sao?”. Ngài cũng hét lên từ trong tim, vì mình không nói được gì hơn. Ngay cả Đức Phật cũng không thể làm gì khác. Nếu sự sinh là một điểm phù du giữa cái gì có trước và cái gì tiếp theo sau, và sự tử cũng vậy, thì vào mỗi giây đều có sinh, và vào mỗi giây đều có tử. Điều gì quy định sự sống và điều gì quy định sự chết?
Không kiềm chế được nữa, người đệ tử gào lên “Nếu Thầy không nói, con sẽ đánh Thầy”. Câu nói này cho thấy anh ta đã tuyệt vọng.
Vị Thầy nói: “Cứ đánh nếu muốn, nhưng ta không nói. Đánh hay không đánh, ta cũng không có cách nào khác”.
Sau đó, khi Đạo Ngộ mãn phần, và khi vị Thầy thứ nhì nói : “Ta không nói sống, ta không nói chết”, người đệ tử giác ngộ như vừa thức dậy từ một giấc ngủ sâu.
Phản Ứng Của Các Vị Thầy Về Sự Chết
Các Thiền sư và các vị Thầy khác thấy sự sống và chết là một dòng chảy liên tục không gián đoạn, và sự di chuyển qua lại của một quả lắc vĩnh cửu. Nhiều người trong các vị này đã biết trước “thời khắc không thể tránh được” ấy với tâm trạng an lạc và cả tiếng cười, chọn cái chết trong thế ngồi Thiền “chết là một sự giải thoát vô thượng”, hay cả trong thế đứng thẳng. Vì nhìn sự sống một cách vững chắc và toàn thể, các vị không bận tâm với một thành phần nào của sự sống, kể cả cái chết. Có thể nói rằng các vị đã vượt lên trên tự ngã vốn bám vào đời sống. Và vì các vị Thiền sư trong những hành vi của mỗi khoảnh khắc luôn dạy một cách vô ngôn các đệ tử của mình cách sống, nên trong giờ phút cuối cùng của mình các vị cũng dạy họ cách chết. Vậy nếu các vị thốt ra những lời nào thì đó không phải là để nói về cuộc đời của mình mà là ban cho đệ tử một lời hướng dẫn cuối cùng.
Thiền Sư Trạch Am
Khi Thiền Sư Trạch Am (1573-1645), người Nhật Bản, sắp viên tịch, các đệ tử thỉnh cầu Ngài viết một bài kệ, Ngài nói “Ta không có lời cuối nào cả”. Họ lại xin, vì vậy Ngài cầm bút viết chữ “Mộng” rồi qua đời. Với chữ này, Trạch Am thu tóm thực tại là vô thượng, hay chân lý tuyệt đối, vượt lên trên lý luận. Hiểu nghĩa “Mộng” là hiểu tự ngã và mọi vật khác đều giống như mộng huyễn, không có gì trong thế gian không phải là mộng, và như vậy vạn vật đều là phù du và huyền ảo. Thể xác của chúng ta giống như bóng ma, như hình phản chiếu trong nước. Hay như một triết gia viết: “Đời sống lúc thức là giấc mộng có sự điều khiển”.
Ngài Trạch Am thường nói tới “Thiền mộng”. Ngài đã viết “Một Trăm Bài Kệ Mộng”, và trong một bài Ngài viết rằng: “Phải là mộng, trái cũng là mộng”. Vậy đối với Ngài, sống là mộng và chết cũng là mộng. Trời và đất cũng như vạn vật đều là mộng. Như vậy cũng là nói không có mộng nào cả.
Đối với Thiền Sư Nhất Hưu (thế kỷ mười lăm, người Nhật Bản), sống và chết cũng là mộng, như trong bài kệ sau đây của Ngài:
“Sinh ra như một giấc mộng,
Trong thế gian mộng ảo này
Ta thấy tâm trí thảnh thơi
Dù ta sẽ tan biến
Giống như giọt sương buổi sáng.
Người ta cầu nguyện cho đời sau
Dù đời là phù du
Đây là thói quen của tâm trí
Vốn đã qua rồi ngày trước.
Chân tính
Là vô sinh, bất nhị
Vậy hãy biết rằng huyễn ảo
Là sinh, tử, tái sinh”.
Không phải chỉ có các Thiền sư mới có ý tưởng đời là mộng. Văn hào và triết gia xã hội người Nga, Leo Tolstoy (1828-1910) đã nói nhiều về mộng ảo và những kiếp trước trong một bức thư được xuất bản hai năm trước khi ông qua đời.
“Trọn cuộc đời của chúng ta, từ khi sinh ra cho tới khi chết, với tất cả những giấc mộng của nó, tới lượt chính nó cũng trở thành một giấc mộng, mà chúng ta coi là đời sống thực, và chúng ta không ngờ sự thật của nó chỉ vì chúng ta không biết tới một đời sống khác thực sự hơn. Những giấc mộng của cuộc đời hiện tại là khung cảnh mà ở trong đó chúng ta thực hiện những ấn tượng, những ý tưởng, những cảm giác của kiếp trước. Chúng ta sống qua hàng ngàn giấc mộng trong kiếp sống này, vậy kiếp hiện tại của chúng ta cũng chỉ là một trong hàng ngàn kiếp như vậy mà chúng ta bước vào từ đời sống khác thật hơn và rồi lại trở về sau khi chết. Đời sống của chúng ta chỉ là một trong những giấc mộng của đời sống thật hơn đó, và như vậy nó bất tận cho tới đời sống cuối cùng, đời sống rất thật, và đó là đời sống của Thượng Đế. Tôi muốn các bạn hiểu tôi, tôi không đùa giỡn, không bịa đặt điều này. Tôi tin nó, tôi thấy nó, và không nghi ngờ gì cả”.
Thiền Sư Taji (1889-1953)
Khi Thiền sư Taji sắp qua đời, các đệ tử tụ tập bên giường bệnh của Ngài. Một người nhớ là Thầy mình thích một loại bánh ngọt, liền bỏ ra nửa ngày để đi tìm món bánh đó ở những tiệm bánh ở Tokyo và mang về cho Ngài. Với một nụ cười yếu ớt, Taji nhận một miếng bánh và ăn. Thấy Ngài trở nên yếu hơn, các đệ tử hỏi Ngài có lời cuối nào dành cho họ không?
Ngài đáp: “Có”.
Các đệ tử hăm hở cúi tới trước để không bỏ sót một lời nào của Thầy. “Xin cho chúng con biết!”
Ngài nói: “Ôi cái bánh này ngon quá!” Rồi Ngài viên tịch.
Thiền Sư Động Sơn Lương Giới
Khi Thiền sư Động Sơn Lương Giới (807-869), vị Tổ thứ nhất của Thiền Phái Tào Động, hấp hối, có một vị Tăng nói: “Bạch Thầy, tứ đại của Thầy không hòa hợp nữa, nhưng có người nào không bao giờ bị bệnh?”
Động Sơn đáp: “Có”.
Vị Tăng hỏi: “Người đó có nhìn Thầy không?”
Động Sơn trả lời: “Việc của ta là nhìn người đó”.
Vị Tăng hỏi: “Lúc chính Thầy nhìn người đó thì sao?”
Động Sơn nói: “Lúc đó ta không thấy bệnh tật”. Rồi Ngài qua đời.
“Người đó” tất nhiên là Chân Tánh của chúng ta được nhân cách hóa. Chân tánh thì không sinh không chết, không phải có cũng không phải không, không phải là hư không cũng không phải là sắc tướng, không sướng không khổ. Chân tánh vượt lên trên mọi bệnh tật.
Thiền Sư Huệ Năng (638-713)
Ngày mùng Tám tháng Bảy, Thiền Sư Huệ Năng, Tổ thứ sáu của Thiền Tông Trung Hoa, nói với các đệ tử: “Hãy tụ tập xung quanh ta. Ta đã quyết định rời khỏi thế gian này trong tháng Tám”.
Khi Ngài nói như vậy, nhiều người òa khóc.
Thiền Sư hỏi: “Các người khóc ai? Có phải các người lo cho ta, vì nghĩ rằng ta không biết mình sẽ đi đâu? Nếu không biết, làm sao ta có thể ra đi với thái độ như vậy? Thật ra các người khóc vì các người không biết nơi ta sẽ đi tới. Nếu biết, các người sẽ không khóc, vì chân tánh là vô sanh bất tử, không đi không đến.”
Tại sao các vị Thầy có thể coi nhẹ cái chết như vậy? Chỉ vì các Ngài biết rằng dù người ta chết tự nhiên hay chết vì bị giết, cái chết cũng không thật hơn cái chết của những nhân vật trong phim, hay không thật hơn là cắt không khí bằng dao, hay như bọt nước vỡ rồi lại xuất hiện. Các vị Thầy biết rằng mình sẽ tái sinh qua nhân duyên với một người cha và một người mẹ.
Trang Tử
Khi một người tới thăm Trang Tử, nhà hiền triết Trung Hoa vào thế kỷ thứ tư trước Tây lịch, sau khi vợ của Ngài qua đời, ông ta thấy Trang Tử ngồi dạng chân dưới đất, vỗ nhịp vào một cái bồn bằng gỗ mà ca hát. Người bạn kêu lên: “Vợ chết còn nằm đó, không nhỏ một giọt nước mắt đã là tệ rồi, lại còn gõ bồn ca hát. Ông thật là quá quắt.”
Trang tử nói: “Không phải vậy, tôi là người bình thường, tôi cũng buồn khi bà ta chết, nhưng rồi tôi nhớ bà ta đã có trước khi sinh ra trong đời này. Lúc đó bà ta không có thân xác. Rồi vật chất được cho vào tinh thần, và bà ta có hình dung để sinh ra. Tôi thấy rõ chính sự thay đổi làm cho vợ tôi sinh ra đời sẽ đưa bà ta tới cái chết, cũng giống như sự thay đổi của bốn mùa. Đông tiếp nối Thu. Hạ tiếp nối Xuân. Than khóc trong khi vợ mình ngủ yên trong căn phòng lớn giữa trời và đất là chối bỏ quy luật tự nhiên đó, là quy luật mà tôi không thể nói rằng mình không biết. Vì vậy tôi không khóc”.
Satsujo
Satsujo là một nữ hành giả đã giác ngộ sâu và khi cháu gái của bà chết, bà đã than khóc nhiều. Một người hàng xóm tới nói với bà: “Tại sao bà kêu khóc dữ vậy? Nếu người ta nghe được, họ sẽ nói: ‘Tại sao bà già đã đạt giác ngộ với Thiền sư Hakuin danh tiếng lại khóc cháu gái nhiều như vậy?’ Bà hãy bình tĩnh lại một chút.” Satsujo ngó ông hàng xóm rồi đáp: “Lão ngu đầu hói kia, biết cái gì mà nói. Nước mắt còn tốt cho cháu gái tôi hơn là nhang, đèn với lại hoa”.
Hương và hoa là những món đồ cúng tượng trưng để tưởng niệm người qua đời, là hình thức bên ngoài của tình cảm bên trong. Cúng lễ là cách giao tiếp với người chết qua những món đồ cúng. Nhưng Satsujo là người đã đạt giác ngộ, đã thấy sự bất nhị của sống và chết, không cần dùng những món đồ cúng. Nước mắt của bà biểu lộ tình thương dành cho cháu gái và là lúc chiếc cầu nối giữa cõi người sống và cõi người chết.
Đạt giác ngộ không có nghĩa là không còn tình cảm, là lạnh lùng, vô cảm, mà ngược lại, có nghĩa là có khả năng biểu lộ cảm xúc một cách tự nhiên. Một truyện Thiền ngày xưa kể rằng có một chú tiểu chán Thiền khi nghe một vị Thầy nổi tiếng la lên đau đớn khi bị bọn cướp giết chết. Chú định không hành Thiền nữa, vì thấy nếu vị Thầy kia kêu lên khi đối diện với cái chết thì như vậy Thiền là giả dối. Nhưng lúc đó một vị Thầy khác dạy chú về ý nghĩa của Thiền và giải trừ sự hiểu lầm của chú.
Vị Thầy nói: “Tên ngu ngốc kia! Mục đích của Thiền không phải là tiêu diệt mọi cảm giác và tê liệt với sự đau đớn và sợ hãi, mà là tự nhiên la lớn và trọn vẹn khi tới lúc để la.”
Thiền Sư Soyen Shaku
Thiền sư Soyen Shaku (1859-1919), Trụ Trì một Thiền viện lớn ở Kamakura, Nhật Bản, có thói quen đi bách bộ qua thị trấn mỗi sáng sớm cùng với người thị giả của mình. Trong một dịp như vậy, Ngài nghe tiếng than khóc trong một ngôi nhà. Đi vô ngôi nhà đó, Ngài hỏi: “Tại sao mấy người khóc?” Họ nói: “Chúng con khóc vì một đứa con vừa qua đời.” Vị Thầy liền ngồi cùng với tang gia và than khóc với họ. Trên đường trở về Thiền viện, người thị giả hỏi: “Thầy có quen biết với mấy người đó không?” “Không,” Ngài trả lời. Đệ tử: “Vậy tại sao Thầy lại khóc với họ?”. “Ta khóc để chia sẻ nỗi buồn của họ,” Ngài đáp.
Thật vậy, một Thiền sư đích thực là người biết thông cảm với người khác. Vui với niềm vui của người khác và buồn với nỗi buồn của người khác là điều tự nhiên đối với một người như vậy, dù họ là những người xa lạ.
Thiền Sư Nam Tuyền
Khi Nam Tuyền qua đời, một đệ tử đứng trước Kim quan của Ngài cười lớn. Một tu sĩ cũng là đệ tử của vị Thầy mắng: “Đây không phải là Thầy của huynh hay sao? Tại sao huynh cười trong khi phải khóc Ngài?”
Người đệ tử đáp: “Nếu huynh nói được một lời thích hợp, hàm chứa giáo lý của Đức Phật thì tôi sẽ khóc”. Vị tu sĩ không nói được gì cả. Người đệ tử liền kêu: “Ôi, Thầy của chúng ta đã đi thật rồi,” và khóc lớn. Ý nghĩa của câu nói cuối cùng là điều quan trọng để hiểu phần trên.
Một lời nói hay là một phát ngôn sống động và tự nhiên có đầy sức mạnh của cả một con người. Lời nói hay là lời từ bụng (tâm huyết) chắc thật và sinh động với tình cảm. Lời chết là lời giải thích, khô khan và không sinh khí, phát ra từ đầu chứ không từ bụng. Lời hay thì hợp nhất, lời chết thì chia rẽ. Một điều quan trọng ở đây là không do dự mà trả lời ngay. Đây cũng là ý tưởng ở trong câu nói: “Người do dự thì thua”.
Người đệ tử muốn thử người tu sĩ bằng cách cười trước quan tài của Thầy để gây một phản ứng. Vị tu sĩ không biết như vậy nên đã mắng người đệ tử là cười thay vì khóc. Người đệ tử liền đặt một cái “bẫy” khác: “Nếu huynh có thể nói một lời thích hợp, tôi sẽ khóc”. Người tu sĩ không nói được. Tất nhiên, có khi sự im lặng, có ý nghĩa, nhưng trong trường hợp này thì không.
“Sinh” Và “Tử” Nghĩa Là Gì?
Trong tiếng Sanskrit, cõi có sự sinh ra và sự chết được gọi là “Samsara” (luân hồi). Đây là cõi lao lực và tranh đấu, không trường tồn, và có sự biến đổi, mà mọi hiện tượng, kể cả ý nghĩa và tình cảm, đều phải chịu theo luật nhân quả. Sự sinh ra và sự chết có thể được ví với những đợt sóng trên biển. Sóng vươn lên là sinh, sóng hạ xuống là chết. Đợt sóng lớn hay nhỏ được quy định một phần bởi lực của đợt sóng trước và chính lực đó được phát sinh bởi dòng nước, thế đất, mưa, mặt trăng, và có thể những nhân tố khác. Tiến trình được lập lại bất tận là sinh - tử - tái sinh, hay luân hồi sinh tử. Ở mặt kia là chân tánh của vạn vật, có tính chất không đến không đi, không sinh không biến đổi, không chết. Vậy vấn đề là làm sao vượt luân hồi sinh tử, tìm chỗ vô sinh bất tử. Theo Thiền sư Dogen (Nhật Bản, thế kỷ mười ba) thì chỗ đó chính là cõi sinh tử này.
Có thể nói là có hai loại sống chết: Khoảnh khắc và thông thường. Khoảnh khắc sống chết hay “sát na” sinh diệt, xảy ra trong một triệu của một giây hay một khoảng thời gian rất ngắn, như tế bào cũ chết và tế bào mới sinh ra. Vậy có thể nói rằng một tự ngã mới liên tục sinh ra, và một người sáu mươi tuổi không phải là một, nhưng không khác với người đó hồi ba mươi tuổi hay mười tuổi. Như vậy sống là chết và chết là sống. Với mỗi hơi thở vô, người ta tái sinh, và với mỗi hơi thở ra, người ta chết.
Có thể so sánh sự sinh với những đám mây xuất hiện trên bầu trời và sự chết với đám mây tan ra mọi hướng. Có thể coi bầu trời đầy mây và bầu trời quang đãng là hai tình trạng khác nhau, nhưng chính bầu trời thì không chịu ảnh hưởng gì cả. Hay ví chân tánh với một tấm gương phản chiếu những hiện tượng khác nhau. Hiện tượng chỉ hiện hữu giả tạm, nhưng tấm gương thì trường tồn và có thật vì nó phóng chiếu những hình ảnh khác nhau mà không bị in dấu bởi chúng. Cũng vậy, chân tâm phản chiếu mọi hiện tượng mà không bị ảnh hưởng bởi chúng.
Do tập sống trọn vẹn với sự sống và chết trọn vẹn với sự chết, chúng ta có khả năng siêu việt cả hai, và còn vượt lên trên cả sự phân biệt nhị nguyên thế gian và xuất thế gian, chủ quan và khách quan. Có người nói sự sống không phải là một bí mật để khám phá mà là một thực tại để sống.
Lúc chết điều gì xảy ra cho năng lực tạo ra để duy trì cơ thể và hoạt động của thể xác? Năng lượng này có phương diện khách quan của nó không? Chúng ta có thể hiểu gì về cõi mà ở đó tâm thức tự phân chia thành chủ thể và đối tượng? Không gì cả. Thế giới mà chúng ta trông thấy là một sự tái tạo được làm bởi những dụng cụ có giới hạn, đó là tâm trí và năm giác quan của chúng ta. Như vậy bất cứ điều gì chúng ta hiểu bằng lý trí thì đó chỉ là một phương diện của chân lý. Cái gì ở bên ngoài sự hiểu biết hay bất khả tri, thì đó là toàn thể chân lý. Vậy từ quan điểm tuyệt đối của chân tánh thì những từ ngữ “chủ quan” và “khách quan” hay tâm và vật không có giá trị gì cả. Đó là lý do chúng ta có thể nói rằng sống là không-sống và chết là không-chết.
Chúng ta không thể nói cái gì hiện hữu hay không hiện hữu, có hay không có, chỉ vì không có gì có đời sống vĩnh cửu của nó; mọi vật đều không có tự tánh, và không có gì không biến đổi trong từng khoảnh khắc, luôn luôn ở trong trạng thái thành, trụ, hoại, diệt và tái sinh, tùy theo những nguyên nhân và những điều kiện, những nhân duyên, giống như trong một cuốn phim, những nhân vật và những hành động có vẻ có thật nhưng kỳ thật chúng chỉ là những ảo ảnh.
Về những sự đối đãi, Trang Tử nói: “Người trí không phân biệt tâm và vật ở trong Đạo, tất cả vạn vật là một, người ta chỉ quen trông thấy sự đối nghịch, đa tạp, khác biệt; người trí thấy cái đa tạp tan biến trong cái một”.
Triết gia Hy Lạp Herachitus cũng nói: “Hãy nghe lý trí và chấp nhận rằng: ‘Mọi vật đều là một, tất cả là một,’ cái bị phân chia và cái không phân chia, cái sinh ra và cái không sinh ra, cái hữu tử và cái bất tử, lý trí và vĩnh cửu, cha và con, Thượng Đế và công lý, cái đầu tiên và cái cuối cùng đều là một. Sống và chết, ngủ và thức, trẻ và già đều là một.”
Do thấy sự không hành động trong hành động và hành động trong không hành động, bất động trong chuyển động và chuyển động trong bất động, chúng ta đạt tới trạng thái thật của vạn vật, đó là chân như hay cái vốn như vậy.
Năng Lực Của Vũ Trụ
Lực vũ trụ vận động vạn vật, không thể đặt tên cho nó, vì gọi tên là giới hạn nó, vì nó vượt lên trên sự phân loại và những giới hạn, nhưng phải đặt tên cho cái vô danh (và cần phải đặt tên nếu muốn nói về nó), chúng ta có thể tạm gọi nó là chân tánh. “Nó” cũng liên quan tới dòng nhân quả, tức là sự sinh và sự diệt của vạn vật, tùy theo những nguyên nhân và những điều kiện. Nói một cách đơn giản, vạn vật là những sự biến hóa của chân tánh; vạn vật có tính chất chuyển biến không ngừng, và đó là chân tánh của chúng. Chân tánh trụ ở đâu? Chân tánh trụ ở trong chân không (shunyata). Chân không không phải là hư vô mà là một năng lực sinh động, không có khối lượng, vượt lên trên cá thể hay cá nhân, và là thai bào của vạn vật.
Chân tánh này không thể bị tách rời khỏi thể xác vật chất của chúng ta. Một vị Thầy nói:
“Xác ở đây,
Người ở đâu?
Ta biết sự thật
Thần thức không ở trong cái túi da này?”
Nhưng Thiền sư Đại Huệ bác bỏ ý tưởng thần thức hiện hữu bên ngoài thể xác:
“Cái xác này là con người
Thần thức là túi da.
Túi da là thần thức.”
Những lời này có ý nghĩa sâu xa. Chúng ta không thể chối bỏ thế giới những sắc tướng vật chất vì một cõi tâm linh, hay ngược lại, mà không dựng lên một sự nhị nguyên, vốn không có thật. Nền móng của cõi vật chất là cõi tâm linh, và thế giới sắc tướng cũng có ảnh hưởng tới và bất khả phân với cõi tâm linh, nói cách khác, vì tâm linh là lực ở trong mọi sắc tướng vật chất nên tất cả những gì xảy ra trong thế giới vật chất đều tùy thuộc chính yếu vào tâm linh, hay tâm.
Trong cuốn “Người Hiện Đại Đi Tìm Linh Hồn.” Carl Jung nói về tinh thần và thể xác:
“Nếu có thể chấp nhận một sự thật bí ẩn rằng tinh thần là thể xác sống động nhìn từ bên trong và thể xác là sự biểu lộ bên ngoài của tinh thần sống động, vì hai cái này thực sự là một, thì chúng ta có thể hiểu tại sao nỗ lực vượt lên trên mức tâm thức hiện tại phải tính tới cả thể xác. Chúng ta cũng sẽ thấy rằng niềm tin vào thể xác không thể chấp nhận quan điểm chối bỏ thể xác nhân danh tinh thần”.
Chúng ta thấy sự quan trọng của thể xác trong thái độ của những gia đình người Mỹ mất con, anh, em, chồng hay cha trong chiến tranh Việt Nam, muốn tìm lại hài cốt của những người thân. Hài cốt của những binh sĩ Pháp chết ở Việt Nam sau năm 1939 cũng được đưa về quê hương. Có lẽ những gia đình Mỹ và Pháp này cảm thấy hài cốt chứa đựng một phần người thân đã mất của mình. Coi trọng di hài của người quá cố là sự tái khẳng định mối liên hệ thân yêu và sự ghi nhớ của người sống với người chết, và như vậy tinh thần và thể xác, không phải là hai vật hoàn toàn khác nhau.
Tại Sao Chúng Ta Sợ Chết?
Không phải là mọi nền văn hóa đều sợ chết và do đó chối bỏ sự chết. Lyall Watson nói rằng, tuyệt đối không có bằng chứng cho thấy sự lo sợ là một phần tự nhiên và tất yếu trong hành vi lúc sắp chết của chúng ta. Ông viết: “Ngược lại, trong các nền văn hóa mà sự chết được xét một cách thẳng thắn hơn và được coi là một phần của tiến trình sống thì không có sự sợ chết”. Ông cũng nói rằng, ông không biết một sinh vật nào biểu lộ sự sợ chết. Khi bệnh nhân thời kỳ cuối đã trải qua đủ thời gian hay đã được giúp đỡ đủ để khắc phục sự lo sợ của mình và chấp nhận cái chết không thể tránh được, họ thường có cảm giác an lạc”.
Triết gia Hy Lạp Socrates nói rằng, sự sợ chết là bất bình thường vì nó dựa vào ý tưởng vị kỷ cho rằng muốn biết những điều mà thực ra mình không biết: “Sợ chết không là gì khác hơn nghĩ rằng mình khôn ngoan trong khi mình không khôn ngoan, mình biết những gì mình không biết. Không ai biết rằng sợ chết có thể trở thành điều ơn phước lớn nhất cho con người, vậy mà người ta sợ chết cứ như là mình biết chắc sự chết là điều xấu lớn nhất”.
Vậy tại sao trong những quốc gia phát triển ở Tây Phương, sự sợ chết lại phổ biến như vậy? Nguyên nhân của sự sợ này là gì và làm sao để giải trừ nó? Có những nguyên nhân là sự bạo động khác thường trong thời đại của chúng ta và sự bùng phát của nó thành chiến tranh, và những nguyên nhân khác là sự đe dọa của vũ khí hạt nhân và sự hủy diệt mọi sự sống. Nói chung là sự sợ chết có thể được chia thành sự sợ đau, sợ cô đơn, sợ bị bỏ rơi, sợ bị mổ xẻ, sợ bị mất tự ngã, dù tự ngã là cái gì. Sự sợ chết cũng có phương diện không duy lý, như sợ bóng tối, và sợ cái mình không biết. Sợ chết cũng có gốc rễ tâm lý học mà nhà tâm lý trị liệu người Pháp Ignace Lepp đề ra trong cuốn “Sự Chết và Những Bí Mật Của Nó”. Vì nhận xét của ông có tính cảm nhận nên tôi sẽ cố gắng tóm tắt và cũng nói về những gì tôi tin là nguyên nhân chính của sự sợ chết theo quan điểm Phật Giáo.
Lepp cảm thấy rằng sự sợ chết mà ông phân biệt với sự lo nghĩ tới cái chết, là bình thường và thực sự làm gia tăng niềm vui sống của chúng ta. (Lepp cũng phân biệt sợ chết với sự sợ hãi lúc chết). Ông nhận thấy rằng nếu sự sống con người tuân theo những luật hợp lý thì chúng ta có thể thấy những người sống cuồng nhiệt nhất và yêu đời sống mãnh liệt nhất sẽ sợ chết nhiều nhất, còn những người thấy đời sống khó nhọc sẽ đón mừng cái chết. Nhưng cuộc nghiên cứu của ông cho thấy điều ngược lại thường là đúng. Ông đưa ra những ví dụ về những người ở nước Pháp trong thế chiến thứ hai “Sống giống như loài thực vật”. Họ là những người sợ nhiều nhất và là những người đầu tiên chạy tới hầm trú ẩn trong những cuộc oanh tạc của máy bay. Lại có những người không sợ cái chết của mình mà sợ cái chết của người khác, đặc biệt là những người thân yêu. Ông còn nhận thấy có khi chúng ta lo sợ về cái chết của người khác vì nó báo hiệu hay nhắc nhở chúng ta về cái chết của chính mình.
Lepp nói tới sự sợ chết có nguồn gốc tương đối gần đây, đó là sự sợ cái chết tập thể. Từ thập niên 1950, với sự chạy đua về vũ khí hạt nhân, sự sợ chết tập thể đã lan rộng. Lepp thấy một điều có ý nghĩa tâm lý học là sự sợ chết vì chiến tranh hạt nhân hay tai họa hạt nhân có nhiều nhất trong những nước có nhiều vũ khí hạt nhân nhất. Ngày nay các nước càng giàu càng mạnh thì càng kém an toàn. Lepp cảm thấy gần đây là cách giải thích một phần về sự rối loạn của thời đại chúng ta, biểu lộ trong tội phạm, phá hoại, tính dục và sự gia tăng nhịp độ đời sống. Cả âm nhạc và những điệu múa hiện đại cũng có vẻ biểu lộ sự tuyệt vọng của loài người không còn tin vào tương lai của mình.
Lepp cho rằng sự sợ chết đến loạn trí liên quan chặt chẽ tới ý thức về cá nhân, cùng có ý thức về chính mình như một cá nhân hơn là một người trong một tập thể, sự sợ chết càng lớn. Lepp nghĩ rằng nguyên nhân chính của sự sợ chết, ít nhất là ở Tây Phương, có vẻ là chủ nghĩa cá nhân thái quá của con người ngày nay. Trong những nền văn minh cổ xưa hơn ở Đông Phương, thân phận con người tương đối ít được coi trọng hơn. Trong những nước thịnh vượng ở Tây Phương, người ta sống cho bản thân nhiều hơn, và có nhiều ý thức về cá nhân hơn.
Lepp đề nghị điều gì để khắc phục sự sợ chết? Sau khi liệt kê những phương cách dẹp bỏ sự sợ chết như rượu, ma túy, và sự theo đuổi lạc thú một cách cuồng nhiệt, ông xét những lối tiếp cận có tính cách triết lý của Tây Phương và thấy chúng đều thiếu sót một cách đáng buồn. Sau cùng ông kết luận: “Tôi tin rằng tình yêu sâu đậm dành cho cuộc sống là phương thuốc tốt nhất và có lẽ độc nhất để chữa chứng sợ chết.”
Với sự chú trọng vào cá nhân, Lepp muốn nói tới nguyên nhân của sự sợ chết mà không chỉ thẳng vào gốc rễ của nó. Tôi thấy sự sợ chết này trụ trong ý thức về cái “ta”, sự chấp thủ tự ngã hữu hạn, và cảm giác cái chết là sự tiêu diệt cái “ta” đó. Người ta sợ chết vì họ coi cái chết là sự chấm dứt của sự hiện hữu của mình, cái chết đưa mình vào hư vô.
Làm sao sự yêu đời cuồng nhiệt có thể phát triển khi người ta dùng năng lực của mình để khẳng định cái "ta", một tư thế mà xã hội cá nhân chủ nghĩa của chúng ta khuyến khích? Trong những nền văn hóa xem những sự hoàn thiện hóa con người chính là sự buông bỏ tự ngã, cái chết không phải là một thảm kịch như trong những xã hội đề cao cái “ta” hữu hạn. Nếu xem Tâm chỉ là bộ óc và bộ óc chỉ là một phần của cơ thể thì người ta sẽ hoảng sợ khi nghĩ rằng một ngày nào đó mình sẽ tan rã thành hư vô.
Nói về sự sợ chết, triết gia Horace Kallen viết: “Có những người sống theo sự sợ chết của họ, và có những người sống theo niềm vui sống. Những người trước sống mà chết, những người sau chết mà sống. Khi tôi chết, tôi sẽ chết mà sống”. Lối sống của Kallen rất hay, nhưng giống như Lepp, ông không nói phải làm sao để giải trừ cái “ta vị kỷ” vốn là chướng ngại cho việc gây dựng niềm vui cuộc sống.
Lepp là nhà tâm lý trị liệu, vì vậy ông dùng phương pháp của ngành này để chữa chứng lo sợ cái chết mà ông xem là loạn trí (dù ông coi sự sợ chết là điều bình thường). Ông nói rằng “Sợ chết một cách loạn trí thường là sự biểu hiện của sự lo sợ tổng quát có nguyên nhân thật là vô thức và phát sinh với sự chấn động ở tuổi mới lớn, thời thơ ấu hay lúc sinh ra” Tuy nhiên, một cơn bệnh nặng hoặc cái chết của một người thân yêu có thể đưa sự sợ đó vào ý thức. Để đối phó với sự lo sợ này, phải phân lập những chấn động thời thơ ấu hay thời mới lớn vốn đã kết tinh thành những sự đè nén, ám ảnh, u trầm, lo sợ, hay những xung đột tâm lý khác, tất cả là những chướng ngại cho việc giao tiếp vui vẻ và lành mạnh với đời sống. Việc điều chỉnh tâm lý có thể kéo dài và mệt nhọc trong nhiều năm với kết quả không phải luôn luôn mỹ mãn, và việc này còn có thể đắt giá. Nếu gốc rễ của sự sợ chết hay lo về cái chết, tức là ý thức quá lớn về cái “ta” không bị giải trừ, thì sự lo sợ đó sẽ không hoàn toàn tiêu tan. Nhưng nếu sự sợ chết có thể trở thành ý nguyện tỉnh thức thì nó có thể đưa người ta tới giác ngộ.
Có thể xem mục tiêu của nhà tâm lý trị liệu là điều chỉnh bệnh nhân để họ có thể hoạt động bình thường trong xã hội. Nhưng chính những hoạt động bình thường trong xã hội phản chiếu một tình trạng loạn trí, tức là nhìn thực tại từ quan điểm sai lầm về tự thân và người khác thay vì như một toàn thể bất nhị, nên nhãn quan nội tâm của bệnh nhân vẫn còn nhỏ hẹp, dù để thoát khỏi sự loạn trí. Như vậy những người đã được điều chỉnh về tâm lý học có thể muốn gây dựng tinh yếu cuộc sống nồng nhiệt, nhưng họ không thể làm như vậy vì những lý do nói trên, rốt cuộc họ sẽ đuổi theo những cái bóng mong cầu cũng như lo sợ.
Theo Phật Giáo thì có thể giải trừ sự sợ chết người ta phải buông bỏ sự trói buộc của tự ngã, hay sự vị kỷ. Chúng ta buông bỏ sự trói buộc này mỗi khi không làm theo tâm ái dục của mình mà chỉ làm lợi ích cho người khác, cho gia đình, bạn bè, hàng xóm, đồng nghiệp, hay xứ sở của mình. Một điều cũng quan trọng là chúng ta phải thôi quý trọng cũng như thôi khinh thường bản thân, không chạy theo đời sống mà cũng không rút khỏi đời sống. Không đề cao cái ta thì sự sợ chết sẽ giảm dần.
Một phần của công trình này là gây dựng tính hiền hòa. Khi Đức Chúa nói: “Người hiền hòa sẽ thừa hưởng thế gian” (The meek shall inherit the earth), Ngài không muốn nói tính nhút nhát và tính nể sợ người khác, mà là tính chịu đựng và nhẫn nhục, những người không kiêu ngạo và không khẳng định bản thân. Hiền hòa không phải là nhu nhược mà là không quý trọng bản thân hơn người khác. Triết gia người Do Thái Moses Maimonides (1135-1204) nói: “Không gì cao quý hơn khiêm tốn và nhẫn nhục” (No crown carries such royalty with it as doeth humility). Nhưng khiêm tốn cũng có thể là hình thức tệ hại nhất của tính kiêu ngạo: “Khi nghĩ rằng mình là người khiêm tốn thì đó là dấu hiệu lớn nhất của sự kiêu ngạo”. (you can have no greater sign of a confirmed pride than when you think you are humble enough).
Để có sự chuyển hóa thực sự, chúng ta cần phải tránh sự khiêm tốn giả tạo cũng như tính quý trọng bản thân hơn người khác. Trong việc thanh lọc này chúng ta có thể biết mình thực sự là gì.
Tự Ngã
Khi nói về tự ngã, chúng ta nên biết là từ ngữ này có nhiều ý nghĩa hơi khác nhau. Tự ngã hay cái “ta” có thể là ý tưởng về bản thân như một cá nhân khác những người khác. Nhưng ý tưởng về bản thân như một cá nhân riêng biệt là một sự giả tạo phát sinh từ tâm nhị nguyên. Theo tôi hiểu thì tâm lý học hiện đại xem tự ngã là một cái gì hơi khác. Tâm lý học gắn sự quan trọng cho tự ngã vì thấy tự ngã liên quan tới hình ảnh tự thân của chúng ta, tức là liên quan tới sự hiểu mình như một sinh vật riêng biệt kinh nghiệm thế giới bên ngoài qua những giác quan của mình. Như vậy, không thể có tâm thức nếu không có tự ngã; không có ai để ý thức về một cái gì. Và như vậy tự ngã được xem là không thể thiếu cho tiến trình tâm thức vốn xác định nó.
Chúng ta đang nói ở đây cái có thể được gọi là tâm thức thực nghiệm cá nhân, mức tâm thức liên kết với năm giác quan và trí phân biện. Hình ảnh bản thân phát sinh từ tâm thức giới hạn trong thời gian và giác quan thì không thật. Thật vậy, mọi hoạt động vị kỷ phát xuất từ hình ảnh về bản thân giả tạo này. Hình ảnh giả tạo này làm cho chúng ta tin vào một thế giới nhị nguyên của bản thân và người khác, của những vật riêng biệt, của đau đớn và tranh chấp, sinh và tử, giết và bị giết. Hình ảnh này không thật vì nó chỉ là bề ngoài. Vì nếu có thể trông thấy xa hơn những hình thể luôn biến đổi, chúng ta sẽ hiểu rằng không có gì ngoài sự đơn nhất và hòa hợp, và sự hoàn hảo này không khác thế giới hiện tượng luôn biến đổi và chuyển hóa. Nhưng nhãn quan của chúng ta có giới hạn và trực giác của chúng ta yếu ớt.
Cái tự ngã giả tạo đang ngự trị với những tham vọng, sân hận và tà kiến và biện minh cho mình bằng lý lẽ phàm tục, làm cho chúng ta tin rằng mình có thể hưởng thụ những thú vui cảm giác mà không đau khổ.
Tự ngã khống chế chúng ta bằng ngôn ngữ với những đại danh từ như “tôi”, “ta”, “mình”, thật ra “tôi” chỉ là một lối nói quy ước. Chúng ta thường nghe “tôi nói rằng...”, “Tôi đã làm...”, “Tôi thích...”, “Tôi ghét...”. Đó là tự ngã đang nô lệ hóa chúng ta, đưa chúng ta tới đau khổ, vì càng nghĩ và nói “tôi”, “ta”, “mình”, chúng ta càng lệ thuộc sự đòi hỏi của tự ngã.
Tâm tự ngã tương đối, với sự hỗ trợ của ngôn ngữ, còn lừa dối chúng ta bằng những cách khác. Nó luôn luôn dụ dỗ chúng ta phân biệt, so bì, phê phán, xa rời sự cụ thể và chắc thật để đi vào cõi suy luận và trừu tượng. Thí dụ, một người đang đi trên đường bỗng nghe tiếng chuông. Tức khắc tâm phân biệt của người đó đánh giá tiếng chuông là “nghe hay” hoặc “nghe chói tai”, đó là chuông nhà thờ hay chuông nào khác. Người đó có thể liên tưởng tới một âm thanh tương tự mà mình đã nghe trong quá khứ, rồi người đó phân tích và so sánh. Với mỗi nhận xét và phê phán, kinh nghiệm nghe thuần túy trở nên mờ nhạt dần cho tới khi người đó không nghe thấy âm thanh mà chỉ nghe thấy những ý tưởng của mình về âm thanh đó.
Bây giờ chúng ta hãy xét về nguồn gốc của tự ngã theo quan điểm chính thức của tâm lý học Phật Giáo. Năm thức đầu là Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức và Thân thức. Thức thứ sáu là Ý thức, phân biệt và phân loại những dữ kiện của năm thức trước, tức năm giác quan. Thức thứ bảy là Mạt na thức, tạo ý niệm cái “ta”, là nguồn gốc của sự phê phán, đánh giá, ý kiến vị kỷ, và những tà kiến, tất cả đưa tới những hành động phù hợp với chúng. Thức thứ tám là A lại da thức, tức là Hàm tàng thức hay thức chứa đựng, chủng tử của tất cả những hoạt động tâm trí, tình cảm và những kinh nghiệm cảm giác được chứa đựng hay được ghi nhận trong mỗi khoảnh khắc. Hàm tàng thức hay chủng tử thức tương đối còn tồn tại sau cái chết và qua các kiếp sau, lưu giữ chủng tử ý thức của những kiếp trước và chủng tử của những nghiệp mới. Thức thứ tám này cũng chứa đựng ký ức của trạng thái trước khi sinh ra, như những cảm giác trôi nổi hay bay, cảm giác tự do, cảm giác hợp nhất với vạn vật. Những cảm giác này thường xảy ra trong những giấc mộng và thường được kèm theo một cảm giác rất dễ chịu. Đối với những người nhạy cảm và hợp với chúng, những ký ức của thời kỳ trước trước khi sinh ra có thể ám chỉ sự tự do mà chúng ta gọi là chết.
Thức thứ chín là Chân tánh không sắc tướng và thanh tịnh thường hằng của chúng ta. Thức này có liên hệ chặt chẽ với thức thứ tám tới mức hầu như không có sự khác biệt giữa hai thức. Thức thứ chín có thể được ví với biển vô tận mà trong đó mỗi kiếp là một đợt sóng nhô lên trên mặt nước. Thức này có thể được gọi là chủng tử thức tuyệt đối.
Trong biểu đồ sau đây mỗi đợt sóng là một kiếp với một cá nhân.Biểu đồ sau đây cho thấy chủng tử nghiệp có trước khi sinh ra những hành động thân, khẩu, ý hiện tại. Những hành động hiện tại lại trở thành chủng tử nghiệp được chứa đựng hay ghi nhận trong Hàm tàng thức.
Thức thứ tám, Hàm tàng thức, có thể được coi là nền móng của cá nhân và cá tính vì nó liên hệ sinh ra những hành động mới hay những sự tạo nghiệp về thân, khẩu, ý. Những ý nghĩ và những thói quen về hành vi này lại thay đổi phẩm chất của Hàm tàng thức, vì chúng được ghi nhận tức khắc trong thức này để trở thành những chủng tử nghiệp mới. Nghiệp được tạo khi những chủng tử nghiệp đã được tích lũy trước gặp nhân duyên phát ra những hành động mới, vốn vừa là nhân khi trở thành những chủng tử nghiệp mới. Đây là tiến trình nhân quả liên tục và bất tận.
Nói một cách chính xác thì tự ngã không thể được coi là vẫn còn tồn tại sau khi chết, nhưng thức thứ bảy tức Mạt na thức có ý niệm về cái “ta” vẫn tồn tại. Có thể ví nó như một tờ giấy trắng nằm chờ sự trở về của tự ngã. Nó là sự tham muốn một thể xác và tất cả những điều gì khác đi kèm với thể xác, vậy nó là động lực của sự tái sanh. Nói cách khác, tái sanh là hệ quả tất yếu của việc chúng ta đã không đạt giải thoát trọn vẹn trong kiếp trước. Như vậy, chúng ta lăn trôi trong luân hồi sinh tử không ngừng, được thúc đẩy bởi ý muốn trực giác và những thói quen tham, sân, si. Chúng ta bị thúc đẩy bởi cái “ta” vị kỷ. Thể xác vật chất là sự tổng hợp hay sự kết tinh của những ý tưởng sai lầm vị kỷ.
Bây giờ chúng ta hãy xét tự ngã theo quan điểm tri thức học. Kiến thức của chúng ta về thế giới hiện tượng được thủ đắc qua mối liên hệ chủ thể-đối tượng. Tức là chúng ta như những chủ thể nhìn những đối tượng, phân biệt chúng với bản thân và những đối tượng khác, áp đặp cho chúng những cái tên, những thuộc tính, những tính chất, và phán xét chúng. Thí dụ chúng ta ngầm đồng ý với nhau gọi một đối tượng là “cây”. Rồi chúng ta quên rằng “cây” là một ý niệm của chính mình và không nói lên sự thật nào của đối tượng này. Vậy cây là cái gì? Một triết gia có thể gọi nó là sự thật tối hậu, một nhà thực vật học gọi nó là một sinh vật, một nhà vật lý học gọi nó là một đám âm điện tử quay xung quanh hạt nhân, một họa sĩ gọi nó là một hình dạng đặc biệt với màu sắc đặc thù, một thợ mộc gọi nó là một cái bàn tiềm năng, đối với một con chó thì nó là chỗ để phóng uế. Tất cả những sự mô tả hay phân tích đều chỉ là một cái nhìn từ một mặt vào cái có vô số phương diện. Phân tích cốt tủy của cái cây ở bên ngoài bất cứ điều gì có thể được nói về nó.
Tương tự, chúng ta xét thời gian bằng cách chia nó thành quá khứ, hiện tại và tương lai, và cũng chia nó thành năm, tháng, ngày, giờ. Sự phân chia này có mục đích thuận lợi, nhưng nên nhớ nó có tính cách giả tạo và tự ý; nó là sản phẩm của tâm phân biệt vốn chỉ thấy bề mặt của vạn vật. Chúng ta không xét tới sự vô thời gian. Như vậy chúng ta quan niệm một thế giới ý niệm giới hạn và xa rời thế giới thật. Vì quan sát những đối tượng từ một khoảng cách, chúng ta không có ý thức bao quát, trực tiếp và trực giác về chúng. Và vì không thâm nhập chúng, kiến thức của chúng ta về chúng có giới hạn và chỉ có một mặt.
Ở trung tâm của sự việc là tự ngã. Vì đứng riêng biệt đối với những tự ngã khác, nó tự tại coi mình là tâm điểm của vạn vật. Sự thật nó chỉ là một tự ngã được đối tượng hóa và không phải là chân tánh vô sanh bất tử, ẩn ở bên trong và hợp nhất vạn vật. Chân tánh hay bản thể không thể được đối tượng hóa hay được biết bằng lý trí, hay sự tạo ý niệm vì có tính chất không thể quan niệm và không thể tưởng tượng. Đó là cái bí ẩn không thể gọi tên ở bên trong vạn vật.
Sự thật là không có tự ngã cá nhân, mà toàn thể vũ trụ là Chân Ngã. Không biết rằng mình chính là Chân Ngã này, chúng ta tự xem mình chỉ là cái thể xác nhỏ bé, một hạt bụi trong vũ trụ vô biên. Chúng ta lại phân biệt mình với người khác, tưởng tượng ra một khoảng cách giữa mình và người khác và chỉ nói hay làm vì lợi ích của riêng mình. Đó là sự vô minh căn bản của chúng sinh.
Sự phân cách của chúng ta với Chân Ngã được phản chiếu trong đời sống có tính chất không đáng thỏa mãn của chúng ta, với đầy đau khổ, lo nghĩ, thất vọng. Trong tình trạng này chúng ta muốn có một đời sống an lạc thực sự.
Chúng ta còn phân cách với Chân Ngã theo một cách khác. Chúng ta sống trong thời gian và không gian, trong một thế giới hữu hạn, vô thường và vật chất, nhưng cùng lúc đó chúng ta cũng sống trong một thế giới vô hạn, thường tồn và vô vật chất. Với tâm nhị nguyên phân biệt, chúng ta trở nên xa lạ với chân tâm của mình. Chúng ta không thể cảm nhận chân tâm trước khi đạt trạng thái giác ngộ. Như vậy chúng ta là những đứa con lầm lạc của Mẹ Đất và Cha Tinh Thần. Sống trong ngôi nhà tạm thời là thế gian này, chúng ta xa cách chỗ ở vĩnh cửu của mình, đó là cõi Chân không.
Điều này làm cho chúng ta suy ngẫm về trí thức và mối liên hệ của nó với tự ngã. Nên nhớ rằng ảo tưởng về tự ngã có sự hiện hữu thực sự và riêng biệt đối với mọi vật khác có thể được xem là nguyên nhân chính của những vấn đề về đời sống và sự chết; bám giữ vào đời sống và sợ chết vì nghĩ rằng chết là không được sống nữa. Có lẽ tâm trí phân biệt là dụng cụ tốt nhất của tự ngã để duy trì ảo tưởng này. Theo tôi hiểu thì trong tâm lý học Tây Phương, trí thức thường được xem là năng lực phát triển sau cùng trong một đứa trẻ. Thực ra trí thức đã hiện hữu trong trạng thái sơ khai ngay trong thai nhi. Khi trí thức phát triển thêm, nhận thức của chúng ta về thế giới trở nên lệch lạc. Tôi đã nói sơ lược về điều này. Bây giờ tôi sẽ nói thêm. Tất cả những nhận thức của chúng ta được lọc qua trí thức lại đưa chúng tới thức thứ bảy, Mạt na thức, có tính chất ngã chấp, vì vậy chúng ta tin rằng mình là một thực thể riêng biệt. Khi ý thức về cái “ta” phát triển và mạnh thêm qua thời gian, nó trở nên vững chắc hơn qua trí thức và có ảnh hưởng tới nhận thức của chúng ta về thế gian. Kết quả rõ ràng là chúng ta bắt đầu nghĩ và hành động cứ như mình là một thực thể riêng biệt đối với thế giới bên ngoài. Một cách vô thức, ý tưởng cái “ta”, hay tự thân, trở nên cố định và từ đó phát sinh những ý tưởng như “mình ghét cái này, mình thích cái kia; mình cần cái này, mình không muốn cái kia; cái này của mình, cái kia của họ”. Được nuôi dưỡng bởi những ý tưởng này, tự ngã sẽ ngự trị cá nhân, tấn công bất cứ cái gì đe dọa địa vị của nó và nắm vào bất cứ cái gì làm cho nó mạnh hơn. Tranh chấp, tham muốn và nhân cách, rồi rốt cuộc đau khổ, là những hệ quả không thể tránh được của tiến trình vòng quanh này. Cái tự ngã nhỏ này có thể ví như một cái khối u: Theo một nghĩa, nó không thuộc về cơ thể; theo một nghĩa khác, nó do cơ thể sinh ra. Hay như Huston Smith nói, “Tự ngã không phải là khung cửa dẫn tới đời sống thịnh vượng, mà là một phần thể xác bị bóp nghẹt. Nó càng lớn thì càng không nhận được dòng máu từ bi của đời sống mà sức khỏe của con người hoàn toàn tùy thuộc, và nó càng cảm thấy đau hơn”.
Tuy nhiên, chúng ta không nên xem thường cái tự ngã mưu mẹo này, vì khi những âm mưu của nó trở nên đau đớn không thể chịu nổi, chúng ta sẽ muốn thoát khỏi sự gò bó và đau đớn, muốn vượt qua những đau khổ này để đạt đến an lạc và trí tuệ.
Tự ngã còn làm một điều giá trị khác. Phía sau tất cả những nỗ lực sáng tạo, thí dụ như thiết kế một phi thuyền, làm một tác phẩm mỹ thuật hay khám phá một quy luật của thiên nhiên, là ý muốn được biết về chính mình, dù ý muốn này vô thức hay hữu thức. Và động lực của ý muốn này là tự ngã, vì tự ngã muốn làm những hoạt động sáng tạo này. Chúng ta cũng có thể nói giống như Ernest Becker rằng, tự ngã là sự thôi thúc tự nhiên của chính sinh lực về phía mở rộng kinh nghiệm đời sống, về phía có thêm đời sống.
Đối với những người đã đạt trình độ tâm linh cao nhất thì tự ngã được chuyển thành cái “ta” vô vị kỷ. Tuy nhiên vì thể xác vẫn còn hiện hữu nên sự lôi kéo về phía tái củng cố cái “ta” vẫn tiếp tục. Vì lý do này, ngay cả các vị Thầy tâm linh cũng phải cẩn thận chống lại sự rơi vào những thói quen thuận lợi cho việc tái khẳng định tự ngã. Chỉ có người nào hoàn toàn thoát khỏi mọi ý tưởng về bản thân mới có thể được xem là vô vị kỷ và do đó giống như một vị Phật. Một người như vậy không còn một ý nghĩ nào về thể xác của mình, và có thể đi tới cái chết của mình mà không có một chút đau buồn, tức giận hay lo sợ nào. Đối với người đó, chết không khác gì sống, sống cũng là một hình thức chết, và cả hai đều là phù du, không có thật.
Phật quả là địa vị tiềm ẩn trong mỗi chúng ta. Chính Đức Phật cũng không khác mỗi người chúng ta. Nhưng chúng ta cần phải cố gắng thoát ra khỏi bản thân, hay “vong thân”, để cho mình hòa nhập trọn vẹn vào bất cứ cái gì đối đầu với mình. Khi buông bỏ bản thân, chúng ta đạt được mối liên hệ với một cái gì lớn hơn bản thân:
“Can đảm buông tay
Trên bờ vực thẳm
Làm chết cái tự ngã nhỏ bé.
Rồi cái tự nhiên biểu lộ
Là Chân Tánh mà ở trong đó
Không có sống hay chết.”
Vực thẳm tượng trưng cho những hoàn cảnh khác nhau trong đời sống của chúng ta, với nhiều đau khổ hơn là sung sướng. Đa số chúng ta như đang treo trên bờ vực thẳm. Bất cứ lúc nào chúng ta cũng có thể rơi xuống những tảng đá ở bên dưới. Làm chết cái ta có nghĩa là thoát khỏi những sự chấp thủ vào người khác, vào những tham vọng, những mong cầu, những ảo ảnh, và cả những lý tưởng (giống như câu nói của D.H.Lawrence “Lý tưởng làm hại sự thật”), và trên hết là thoát khỏi sự chấp thủ vào những đau khổ của mình. Chúng ta phải thôi bám vào những phương diện phù du của đời sống và buông bỏ mọi tiên kiến về việc gì là tốt và việc gì không tốt. Chỉ lúc đó chúng ta mới tái thức tỉnh với một thế giới hoàn toàn mới, lớn hơn, tự do hơn, và đẹp hơn thế giới cũ do tự ngã ngự trị. Kierkegaard tóm tắt điều này rất hay:
“Buông ra là mất chỗ đứng tạm thời
Không buông ra là mất chỗ đứng mãi mãi”.
Có thể Kierkegaard nói hơi quá, nhưng ông đã nắm được một sự thật sâu xa. Tiến trình chết cũng quan trọng cho đời sống như tiến trình sinh ra. Chỉ vì xem sự chết là sự phân rã của thể xác nên chúng ta có ý niệm nghiêng lệch và tiêu cực về nó.
Cái chết đánh vào cái “ta” cũng cùng lúc là một hành động ban cho sự sống. Trong sự việc này được gọi là Cái Chết Lớn và Sự Tái Tạo Lớn. Chết Cái Chết Lớn là vượt qua sinh tử và đạt tự do hoàn toàn. Nó làm cho viễn ảnh về cái chết vật chất trở thành thứ yếu và không quan trọng. Thiền sư Bunan nói về điều này như sau:
“Chết khi đang sống
Và chết trọn vẹn.
Lúc đó việc gì mình làm,
Cũng đều tốt.”
Có lần, một người đến nói với một Thiền sư: “Tôi muốn học Thiền với Thầy”. Vị Thầy hỏi: “Anh có sẵn sàng chết không?” Người đó nói: “Tôi tới đây để học Thiền chứ không phải để chết”. Vị Thầy đáp: “Nếu không chết thì không thể học Thiền”.
Những đạo gia đích thực của tất cả các tôn giáo đều đã không lưỡng lự nhảy xuống vực lửa của chân tánh tự nhiên của mình. Với cú nhảy của niềm tin này, tất cả mọi ảo tưởng đều tan biến với gốc rễ tự ngã và người ta tái sinh trong một thế giới an nhiên tự tại. Chỉ có người nào đã tái sinh như vậy mới có thể cất tiếng hát:
“Người nào chết
Trước khi chết
Sẽ không chết
Khi chết.”
Ở đây chúng ta không lãng mạn hóa sự chết, mà là thực sự lột bỏ vẻ nghiêm trọng bi thảm của nó để khi tới lúc chúng ta sẽ không sợ nó. Chối bỏ sự chết là để bộc lộ sự sợ đời sống vốn in sâu trong chúng ta. Thật ra sự sống mới là điều quan tâm chính yếu của chúng ta chứ không phải sự chết. Đối với người đã thức tỉnh thì thế giới có đầy những điều kỳ diệu làm cho người ta cảm nhận một cách thích thú. Loài người và các loài sinh vật khác cùng với núi, rừng, suối đều tràn đầy sự sống. Mỗi vật đều tỏa ra ánh sáng của riêng mình và đều nói lên rằng sự sống là điều kỳ diệu. Thiền sư Soen Nakagawa viết:
“Chúng ta là những bông hoa
Mọc lên
Trong vũ trụ bừng nở”.
Đối Diện Cái Chết Một Cách Vô Úy
Không có một nền văn hóa hay văn minh nào trong lịch sử, dù của Thổ Dân Úc Châu hay của Hy Lạp thời cực thịnh, mà không ca tụng những người đã đối diện cái chết với sự can đảm và uy nghi. Khi biết mình sẽ phải chết, những người đó vẫn bình thản. Họ chinh phục cái chết bằng sự lãnh đạm đối với nó hay có thể nói là đi cùng với nó, lột bỏ oai lực của nó, và do đó đạt sự bất tử đích thực. Hãy nghĩ tới Đức Christ, Triết gia Hy Lạp Socrates, Thomas More của Anh, Jeanne d’Are của Pháp, các vị Thiền sư và Đức Phật, đời sống và cái chết của các vị gây biết bao cảm hứng cho chúng ta. Cũng vậy, còn vô số những người bình thường khác bình tĩnh đối diện sự chết. Điều cống hiến cuối cùng của chúng ta cho đời sống là cái chết uy nghi.
Cái chết uy nghi, hay “tốt” là một cái chết mà ở trong đó không có sự kêu la hay vùng vẫy chống lại sự chết vốn không thể tránh được, và trên hết là một cái chết không buồn thảm, không ân hận, không lo sợ, không cay đắng, không khủng hoảng. Đó là chết một cách tự tại, tự nhiên, giống như đang ngủ, không bám giữ vào sự sống, mà “trôi theo dòng”, chấp nhận và tuân theo một lực bí mật ở bên trong nay đã nắm quyền quyết định khi mọi sự tự tranh đấu đã chấm dứt. Một thí dụ về điều này:
“Khi Thiền sư Động Sơn cảm thấy đã tới lúc ra đi, Ngài cạo đầu, tắm rửa, mặc áo, đánh chuông để chào từ biệt mọi người rồi ngồi Thiền cho tới khi không thở nữa. Thấy Ngài có vẻ đã viên tịch, mọi người kêu khóc giống như những đứa trẻ khóc mẹ. Bỗng vị Thầy mở mắt và nói: “Người tu hành phải xả ly tất cả những gì phù du. Sống là làm việc, chết là nghỉ ngơi. Kêu khóc thì ích lợi gì?” Ngài bảo làm một bữa ăn “tẩy ngu” (stupidity-purifying meal) cho mọi người. Sau bữa ăn Ngài nói: “Đừng bối rối vì ta, mà hãy giữ an tĩnh nơi cửa Thiền. Khi chết không ai muốn ầm ĩ cả”. Rồi Ngài trở về phòng, ngồi Thiền cho đến khi viên tịch.
Ngoài các Thiền Sư, những người thường lúc sắp chết dù rất đau đớn cũng có thể “trôi theo dòng”. Sau đây là một thí dụ. Trong khi hấp hối, một vị Thiền Sư kêu lên vì đau đớn. Một đệ tử hỏi: “Tại sao Thầy kêu lên như vậy?” Vị Thầy trả lời: “Ta kêu khi đau đớn không khác gì ta cười khi vui vẻ” (My crying in pain is no different from my laughing in joy). Giống như những vị Thầy này, nếu tập luyện để hòa nhập vào đời sống hằng ngày của mình, chúng ta cũng có thể “trôi theo dòng” hay đi cùng với bất cứ hoàn cảnh nào của sự chết cũng như của đời sống.
2.Quán Niệm Về Sự Chết
“Một cái chết uy nghi,
làm danh dự cho cả cuộc đời”.
(Petrarch, người Ý, Thế kỷ 14)
Quán niệm sự chết là một phương tiện thanh lọc tâm trí để đạt sự hiểu biết về ý nghĩa và sự quan trọng của sự sống và sự chết. Như vậy các pháp quán niệm hay Thiền quán sự chết đã được coi là những thành tố không thể thiếu trong những nền văn hóa khác nhau. Ai Cập và Ấn Độ, Trung Hoa và Nhật Bản, Hy Lạp và La Mã, Do Thái và Hồi Giáo, trong hình thức cổ cũng như hình thức hiện tại. Sự chết thường có vẻ bí ẩn và làm cho người ta sợ, vì vậy việc chinh phục sự chết, hay sự bất tử, có một vị trí trung ương trong giáo lý của tất cả các tôn giáo. Chỉ khi nào sự sợ chết được thay thế bằng sự bình tĩnh và niềm hy vọng thì người ta mới đạt được trạng thái tâm an lạc. Việc không chịu suy ngẫm về sự chết chính là một loại chết, vì sự kích thích của đời sống không phân cách với sự biết rằng cuộc đời sẽ chấm dứt.
Việc quán niệm sự chết có thể trở thành một mối bận tâm kỳ cục đối với một số người, một sự yêu sự chết hơn là sự sống. Nhưng việc chấp nhận sự chết như vị Thầy của đời sống sẽ làm cho người ta tránh được những ý nghĩ quái đản về sự chết. Mục đích của quán niệm sự chết là giúp cho hành giả bình tĩnh với viễn ảnh cái chết vốn luôn luôn có mặt, vì người ta không bao giờ biết cái chết sẽ tới lúc nào để mang mình đi. Chối bỏ sự chết là điều thông thường trong nền văn hóa Tây Phương, và điều này làm gia tăng sự sợ chết. Hãy nghĩ về câu nói của Socrates: “Đời sống không có sự tìm hiểu sự vật thì không đáng sống”. Thật vậy, việc suy ngẫm và quán niệm về sự chết là một phần của việc thực hành trong tất cả các tôn giáo lớn. Thí dụ, các tu sĩ nam nữ của một dòng tu Thiên Chúa Giáo sống với cái quan tài đơn sơ của mình, luôn luôn ở trong tầm mắt và còn đào một thuổng đất mỗi ngày ở chỗ sẽ được dành làm huyệt mộ cho mình. Ngược lại, nhiều người cho rằng nghĩ về cái chết của mình chỉ làm cho nó tới mau hơn, và đây cũng là một loại chối bỏ sự chết.
Những người nào không thích ý tưởng đối diện với cái chết của mình, dù theo cách tượng trưng, cũng như những người bị bệnh tâm trí, đặc biệt là chứng u uất và những người yếu ớt về tâm lý, nên thận trọng tránh những pháp Thiền quán mạnh về sự chết được đề ra ở đây, vì việc thực hành có thể đưa tới sự gia tăng lo sợ thay vì làm giảm. Trẻ em cũng không nên làm những pháp này.
Trong cuốn “Sáng Tạo Lối Chết Mỹ” (Inventing the American Way of Death) của ông James Farrell (1830-1920) nói tới một điểm quan trọng về việc chối bỏ sự chết trong xã hội Mỹ:
“Khi tránh nghĩ về sự chết, người ta không biết tới một sự thật quan trọng của đời sống vật chất, tri thức và tâm linh của mình. Nếu biết mình sẽ chết là một phần của đời sống loài người, thì quên mình sẽ chết là mối đe dọa cho loài người chúng ta. Cũng vậy việc chối bỏ sự chết trong xã hội Mỹ sẽ làm cho người ta xa rời loài người nói chung, làm cho họ xa cách với cái chết của người khác tới mức không thể khóc hay để tang, trừ khi làm theo nghi thức bên ngoài”.
Triết gia Hy Lạp, Plato nói: “Những người không thực hành điều gì khác hơn cách chết hay đối diện cái chết chính là những người thực sự ái mộ tri thức” (There are the true votaries of knowledge who practice nothing else but how to die or meet death).
Masao Abe nói thêm về điều này: “Đối với Plato, triết lý không gì khác hơn là thực hành sự chết trong khi đang sống, và đó là sống qua sự chết. Đối với Plato, đây là đường lối của triết gia, mà ở trong đó người ta vượt qua sự chết”.
Đức Phật cũng nhấn mạnh giá trị của pháp Thiền quán sự chết: “Trong những dấu chân thì dấu chân voi là lớn nhất. Tương tự, trong những pháp Thiền quán, pháp Thiền quán sự chết là vô thượng” (Off all footprints that of the elephant is supreme. Similarly, of all mindfulness meditations, that on death is supreme).
Hoàng đế La Mã kiêm triết gia phái Khắc kỷ, Marcus Aurelius (121-180, TL) cũng viết: “Suy ngẫm liên tục về sự chết là tập luyện hạnh kiểm con người về hành thiền với cả thể xác và tâm trí sẽ đưa chúng ta vượt lên trên những giác quan, những ý nghĩa, những cảm giác, nhập vào trạng thái siêu việt.”
Nhưng thiền quán về sự chết không chỉ vì giá trị đó. Khi được thúc đẩy bởi sự chết, pháp này có thể xuyên phá áo giáp tâm lý của chúng ta và kích thích “tâm thắc mắc” vốn là điều kiện tiên quyết của sự chuyển hóa đích thực.
Các tôn giáo khác nhau có những lối quán niệm sự chết phù hợp với mục tiêu tâm linh căn bản của mình. Phương pháp của những tôn giáo này đã được bảo tồn trong kinh sách cũng như giáo lý khẩu truyền của những nền văn hóa khác nhau. “Tử Thư Ai Cập”, “Tử Thư Tây Tạng” và “Nghệ Thuật Chết”, có lẽ là những cuốn sách tốt nhất. Tài liệu sau đây được trích một phần từ căn bản này, nhưng cũng từ những truyền thống Phật Giáo khác nhau mà tôi quen thuộc nhất. Những pháp Thiền về sự chết này sẽ giúp người nghiên cứu đối diện sự hữu hạn của mình một cách cụ thể và do đó có ý thức mạnh mẽ về cái chết tối hậu của mình, và như vậy biết nhiều hơn về giá trị của đời sống.
Việc quán niệm sự chết có thể được chia thành suy ngẫm triết lý và phương diện chứng nghiệm. Phần suy ngẫm triết lý bao gồm những văn bản cổ của những vị Thầy nổi tiếng, vẫn được dạy trong nhiều Tu viện và những trung tâm tôn giáo ở Tây Phương cũng như Đông Phương, như là lý thuyết căn bản cho các pháp thực hành. Về phần thực hành chứng nghiệm, tôi đã rút tỉa từ những giáo lý khẩu truyền của các vị Thầy thuộc những truyền thống khác nhau, cũng có những pháp Thiền đặc biệt mà các vị Thầy của tôi đã truyền cho tôi trong mười lăm năm tu tập ở Á Châu, mười ba năm trong đó là ở những Tu viện và Thiền viện Nhật Bản. Tôi cũng thêm vào những pháp thực hành thích hợp với hành giả Tây Phương. Đối với những pháp nào có nhiều tính chất văn hóa bản xứ của chúng, tôi đã sửa đổi cho phù hợp với văn hóa Tây Phương.
Suy Ngẫm Về Sự Chết: Tám Quan Điểm
Những điều suy ngẫm về sự chết này được lấy từ cuốn “Thanh Tịnh Đạo” của Luận Sư Buddhaghosa (Phật Âm, thế kỷ thứ năm). Để hành giả có thể biết rõ về sự chết của mình, cuốn này dạy suy ngẫm về sự chết theo tám quan điểm sau đây:
1/ Sự chết có hình dạng như một đao phủ, tức là như có một kẻ sát nhân đứng ở trước mặt sẵn sàng giết mình.
2/ Sự chết là sự hủy diệt của mọi thành tựu.
3/ Sự chết là sự chấm dứt không thể tránh của tất cả mọi người, người nổi tiếng cũng như người bình thường.
4/ Sự chết là kết quả của sự chia sẻ thể xác với nhiều thứ. Suy ngẫm về vô số nhân tố, nội tại cũng như ngoại tại, có thể gây ra cái chết.
5/ Sự chết đang ở gần bên.
6/ Sự chết vô hình, tức là không thể biết trước về nó.
7/ Sự chết là sự kết thúc tất yếu của một cuộc đời vốn ngắn ngủi.
8/ Sự chết là một hiện tượng thường trực, xảy ra bất cứ lúc nào.
Tôi sẽ nói thêm nhiều về điểm thứ ba và nói sơ lược về một số điểm khác. Việc suy ngẫm về những điểm này là sự chuẩn bị không thể thiếu cho việc thiền quán về từ ngữ “chết”, vốn là phần cốt tủy của pháp thực hành. Chúng ta đều biết là không thể thoát khỏi sự chết, nhưng biết bằng lý trí là một chuyện, biết bằng chứng nghiệm là một chuyện khác. Đây là giá trị lớn của việc đối diện sự chết một cách tượng trưng qua những pháp Thiền này.
Quán niệm về sự không thể tránh của cái chết
Điểm thứ ba xem sự chết là sự chấm dứt cho mọi người. Trong pháp này, hành giả suy ngẫm về cái chết của khoảng bảy cá nhân thành tựu đã có thành công thế gian, danh tiếng và quyền lực nhưng cũng không tránh được sự chết. Họ có thể là những nhân vật quá khứ hay đương thời. Thí dụ, hành giả có thể suy ngẫm về Julius Caesar trong câu sau đây của vở kịch Hamlet:
“Caesar uy quyền, chết và trở thành đất sét
đủ để trám một lỗ hổng trên tường để cản gió.”
Hành giả có thể nghĩ: “Caesar là người mạnh nhất trong thời của ông ta. Quân đội của ông ta bách chiến bách thắng. Tài sản của ông ta nhiều vô kể. Vậy mà rốt cuộc sự chết làm cho ông ta ngã gục, trở về cát bụi. Làm sao mình có thể thoát được kết cuộc như vậy?” Hành giả nên tự nhủ rằng người mạnh cũng như người yếu, người khôn cũng như người ngu, người rộng rãi cũng như keo kiệt, người được tôn vinh nhiều nhất (thí dụ như nhà bác học Einstein) cũng như người ăn mày khốn khổ nhất, tất cả đều có cùng một định mạng, đó là cái chết. Trong huyệt mộ chúng ta đều bình đẳng. Tương tự, hành giả có thể suy ngẫm về cái chết bạo động của những bạo chúa như Hitler và Muscolini. Hai nhà độc tài này đã có quyền lực tuyệt đối trên hàng triệu sinh mạng, nhưng số phận cuối cùng của họ cũng là cái chết.
Suy ngẫm về tám quan điểm
Hành giả có thể suy ngẫm về tám điểm này trong khi đi, đứng, hay ngồi; khi đi xe hơi, máy bay hay xe lửa. Nên ghi nhớ chúng hoặc viết chúng trên một mảnh giấy để tham khảo. Có thể mở rộng hay sửa đổi những điều này nếu cần. Tức là hành giả có thể cung cấp những tỉ dụ có ý nghĩa riêng tư nhiều hơn hay có thể so sánh tám điểm này với những kinh nghiệm của bản thân. Tuy nhiên giá trị của chúng là ở trong việc giữ ý nghĩa cốt tủy của chúng làm những điểm tham chiếu và suy ngẫm về chúng.
Một việc liên quan đến những điều suy ngẫm này, và như phần bổ túc cho chúng là hành giả cần phải tự nhủ thường xuyên rằng, mình rất may mắn có nghiệp quả tốt sinh ra làm người trong kiếp này, và mục đích sâu xa nhất của kiếp làm người là hiểu ý nghĩa của sinh và tử.
Không nên làm các pháp tập luyện này một cách lẻ tẻ mà hãy bắt đầu với một pháp tập luyện và tiếp tục thiền quán về nó cho tới khi nó thấm sâu vào tâm thức mình, sau đó hành giả có thể đi tới pháp kế tiếp và cũng thực hành như vậy.
Thiền Quán Về Từ Ngữ “Chết”
Cuốn “Thanh Tịnh Đạo” định nghĩa chết là “đoạn lìa sinh lực của một kiếp”. Hành giả trụ ở nơi vắng vẻ, yên tĩnh và chú tâm vào ý tưởng “sự chết sẽ xảy ra, sinh lực sẽ bị cắt đứt”, hoặc chỉ đơn giản quán niệm từ ngữ “chết”. Pháp hành có vẻ đơn giản nhưng thật ra gây dựng sự chánh niệm lâu bền về sự chết là rất khó. Trong tiểu luận về sự chết của mình, Freud gọi điều này là “thái độ của chúng ta đối với sự chết”, nhưng trong khi nói một cách dễ dàng rằng “cái chết là định mệnh của tất cả mọi người”, mà thật ra chúng ta hành xử như mình là một ngoại lệ. Luận Sư Buddhaghosa nói rằng, chỉ có sự chánh niệm liên tục về sự chết và thường xuyên thiền quán về sự chết mới có thể giải trừ niềm tin ăn sâu “mình là ngoại lệ” này.
Nếu sớm cố gắng giải trừ niềm tin vô thức “có lẽ cái chết sẽ bỏ qua mình” và suy gẫm về khả năng chết luôn luôn hiện diện, đời sống sẽ có ý nghĩa mới và sẽ đi theo hướng mới. Sự bất ngờ của cái chết làm cho chúng ta biết quý trọng mỗi khoảnh khắc và thoát khỏi ảo tưởng mình có nhiều thời gian để thành tựu mọi việc, có thể chú tâm vào những gì có ý nghĩa và buông bỏ những gì “vớ vẩn” mà chúng ta đã dành nhiều thời giờ quý báu cho chúng. Khi biết nấm mộ là định mệnh chung của mọi người, chúng ta sẽ phát tâm từ bi đối với tất cả, điều này giống kinh nghiệm của những người ở trong hầm trú ẩn tránh bom ở Âu Châu trong thế chiến thứ hai (1939-1945), nơi những người xa lạ trở nên thân mật do cùng sống gần kề cái chết và giúp đỡ lẫn nhau một cách hiếm thấy trong những lúc bình thường. Hơn nữa, điều này khuyến khích chúng ta sống mỗi ngày cứ như đó là ngày cuối cùng trong đời.
Nhiều người đã có những ý tưởng như vậy, trong số họ là nhà tâm lý học nổi tiếng Abraham Maslow, vốn đã bị bệnh tim gần chết và sau đó đã viết một bức thư về việc này cho một người bạn: “Việc đối diện với sự chết và cái chết được hoãn lại, làm cho mọi vật có vẻ quá quý báu, quá thiêng liêng, quá đẹp, tới mức tôi cảm thấy mạnh hơn bao giờ sự thôi thúc yêu chúng, ôm chúng và để cho mình được tràn ngập bởi chúng. Dòng sông của tôi đã chưa bao giờ đẹp như vậy”.
Bây giờ chúng ta hãy tập trung vào chính pháp Thiền quán. Các vị Thầy ngày xưa khuyên: “Cứ chú tâm vào chữ ‘chết’ ở trên trán của mình và giữ nó ở đó”. Lúc đầu nên hòa hợp hơi thở vô và hơi thở ra với lời phát âm nhẹ chữ “chết”. Sau đó chỉ phát âm chữ “chết” với hơi thở ra. Hành giả không cần phải quán tưởng (hình dung, tưởng tượng) chữ “chết” này, trừ khi việc này giúp giữ nó ở trong tâm trí. Tâm trí nên tập trung trọn vẹn vào ý nghĩa của chữ “chết”, nên cẩn thận tránh niệm chữ này một cách máy móc giống như niệm thần chú.
Tham Quán Một Công Án Về Sự Chết
Thiền Sư Haknim (1686-1764) nói:
“Nếu muốn quan sát chân tánh của mình trước hết phải tham quán chữ “chết”. Nếu muốn biết cách tham quán chữ “chết” thì bất cứ khi nào đi, đứng, nằm, hay ngồi không khinh thường hoạt động, không kẹt trong sự yên tĩnh, chỉ tham quán công án: “Sau khi mình chết và đã được thiêu rồi, con người thật không đẳng cấp đã đi đâu?” (hay nói cách khác “sau khi chết, mình ở đâu?”
Trong tất cả những giáo lý và lời dạy, chữ “chết” có ý nghĩa xấu và khó ưa nhất, nhưng nếu bất ngờ trực ngộ công án “chết” này, người ta sẽ thấy là không có giáo lý nào tốt hơn lời dạy này, vốn là chìa khóa mở cõi siêu việt sinh tử, nơi mà mình đứng là Kim Cương bất hoại, và nơi mà mình đã trở thành một vị bất tử, không già và không chết. Chữ “chết” là quan yếu để mình phải quyết định cho chính mình.
Quán niệm tính chất phù du của đời sống
Hành giả thành tâm tự nhủ: “Việc làm quan trọng nhất của mình, của đời người là thoát luân hồi sinh tử và tái sinh, giác ngộ ý nghĩa thật của sự sống và sự chết của mình”. Để gây dựng sự quyết tâm này, hành giả phải biết rõ tính chất phù du của đời sống: Chúng ta sinh ra trong buổi sáng và chết vào buổi tối; người bạn mà chúng ta gặp hôm qua, hôm nay không còn nữa. Đa số chúng ta thấy sự vô thường trong đời sống của người khác nhưng không nghĩ tới sự vô thường trong đời sống của chính mình. Hãy nghiêm chỉnh tự nhủ: “Dù mình sống đến bảy mươi hay tám mươi năm tuổi, cái chết chắc chắn sẽ tới với mình”. Nhưng như vậy vẫn quá nhẹ nhàng. Hãy nghĩ về điều gì có thể xảy ra với mình đêm nay hay ngày mai. Chúng ta có thể chết trong một chiếc máy bay hay một tai nạn xe hơi, hoặc bị kẹt trong một vụ đất lở, bão lụt, động đất. Hoặc có thể bị bọn khủng bố tra tấn, bị bắn chết. Hay chúng ta có thể thấy mình mắc phải một căn bệnh nguy hiểm.
Thiền Quán Về Sự Chết Bằng Chuỗi Hạt
Nhiều năm trước ở Miến Điện tôi lưu trú ở nhà một thương gia có cái nhìn tâm linh về đời sống. Ông ta tham thiền mỗi ngày, và dựa vào nét mặt thanh thản, rạng rỡ và sự an lạc (lúc đó ông ta ở tuổi sáu mươi lăm) chứng tỏ việc hành thiền của ông ta, dù không chính thức, đã có kết quả cao nhất. Đây là lối hành thiền của ông ta: Mỗi buổi sáng ông thức dậy lúc năm giờ để tham thiền, với hai bàn chân đặt vững trên đất, trên một cái ghế dài trong vườn bên một dòng suối chảy qua khu đất của ông ta. Ông ta nói với tôi rằng ông không ngồi nghiêng về phía trước hay phía sau, mà ngồi thẳng. Tay phải ông ta cầm một chuỗi hạt dài, và ông lần một hạt mỗi khi quán tưởng một người trong gia đình của mình, rồi những người bạn của mình, và sau cùng những người mà ông đã có ác cảm với họ. Khi pháp Thiền này chấm dứt, ông bắt đầu quán niệm chữ “chết”, cũng giống như kiểu tham thiền trước, lần mỗi hạt khi chú tâm vào chữ này. Lối hành thiền này thích hợp với hành giả sơ cơ cũng như hành giả cao cấp hơn.
Ngày Của Người Chết Ở Mexico
Cái sọ vốn vẫn tồn tại sau khi thịt và gân tan rã là biểu tượng sự vô thường của thể xác cũng như sự bất hoại của chân tánh. Điều có vẻ mâu thuẫn này có ý nghĩa tôn giáo song song với ý nghĩa xã hội, và có thể được thấy một cách sinh động nhất vào “Ngày Của Người Chết” ở Mexico. Trên khắp quốc gia Mexico vào ngày 2 tháng 11, những “Calaveras” (những bộ xương “sống”) đứng dậy từ những huyệt mộ, được sống lại trong một ngày ngắn ngủi trong biểu tượng của sự sống lẫn sự chết. Trong ngày lễ “ghi nhớ sự chết” này, người ta vui vẻ chơi những nhạc cụ, làm những công việc của đời sống trần tục này, hay tham dự những hoạt động xã hội như đám cưới và khiêu vũ. Đó là những điều nhắc nhở về tính chất phù du của đời sống thế tục và sự phù phiếm của dục vọng con người. Hình ảnh những bộ xương “sống” thực sự là một hình thức khác của pháp quán niệm sự chết và như vậy có tính cách riêng tư và thật hơn vì chúng là những đối tượng hóa của các ông bà, cha mẹ hay con cháu quá cố. Chúng tạo sự kết nối giữa sự sống sinh động và sự bất động, và do đó giúp bảo tồn sự kế tục của những người trong gia đình.
Vào những ngày trước Ngày Của Người Chết, các gia đình chào đón người quá cố trở về với những món ăn, đồ uống, ca nhạc và những trò vui. Nếu ông Nội Jose đã thích món bánh cuốn “tamales” lúc còn sống, thì bây giờ một đĩa “tamales” được đặt trước tấm hình của ông trên bàn thờ để bày biện cho dịp lễ này ở trong nhà. Và trong nhà những người khác, trên bàn thờ người nhà cũng bày những cái bánh đặc biệt được đề tên của người quá cố như Cha, Mẹ, con, cháu hay anh, chị, em, với tinh thần thiên về vật chất và họ chính là những người được chào mừng.
Tử thần bị chế giễu và làm cho nhảy múa vui vẻ trong những calaveras tức những người mặc hóa trang bộ xương. Sau đó tử thần được lột mặt nạ, để lộ ra người thật dưới lớp hóa trang quái đản. Như vậy sự chết được thấy chỉ là một điểm ngắn ngủi giữa cõi người sống và cõi bên kia, và không phải là hố đen hư vô (black hole of obilivion). Người Mexico có khúc hát cổ như sau:
“Hãy làm quen với sự chết
Trước khi cái chết tới
Vì người chết chỉ có thể sống
Và người sống chỉ có thể chết”.
Người Mexico thuộc mọi tầng lớp đều tham dự lễ hội “Ngày Của Người Chết” tới một mức độ nào đó, nhưng ở những thành phố và làng nhỏ, lễ hội này có vẻ phổ biến hơn. Không nên nghĩ người Mexico ưa thích sự chết hay vui với sự chết, thí dụ như cái chết của người thân yêu, chỉ vì trong những ngày đó họ bày xung quanh mình những biểu tượng của sự chết trong những điều nhảy múa, trang phục, âm nhạc và mỹ thuật dân gian. Ngược lại người chết được đối xử đúng như ở những quốc gia khác, cái chết của một người thân yêu là một sự kiện đau buồn, đẫm nước mắt, nhưng sự chết không bị chối bỏ, che đậy hay giấu giếm. Sự thật nghi lễ cầu kỳ này là bằng chứng cho thấy người sống vẫn thương yêu người chết vốn luôn luôn hiện diện.
Những nền văn hóa khác cũng có những nghi lễ tương tự, dù có lẽ không sinh động như Ngày Của Người Chết ở Mexico. Thí dụ, ở Nhật Bản vào ngày lễ Vu Lan của Phật Giáo, khi người chết được xem là trở về nhà ông cha của mình, những nghi thức tương tự diễn ra, thường là trong những ngôi làng ở nông thôn. Ở Âu Châu trong thời trung cổ, Vũ Điệu Tử Thần cũng có mục đích như vậy, và có lẽ vẫn còn có ở một số quốc gia khác. Nhưng ở Hoa Kỳ và Canada, lễ hội Halloween của trẻ em với những ma quỷ yêu tinh và không còn ý nghĩa tôn giáo nào, đã thay đổi nhiều trong Ngày Của Các Linh Hồn hay Lễ hội Các Thánh của Thiên Chúa tương đương với Ngày Của Người Chết. Tuy nhiên, nhiều nhà thờ vẫn làm lễ và cầu nguyện cho người chết và nhiều người đăng những bài tưởng niệm trên báo chí.
Những Điều Bận Tâm Của Thế Gian
Sau cùng, lời khuyên dưới đây của Thiền sư Đại Huệ đáng cho chúng ta suy ngẫm:
“Những điều bận tâm của người thế gian như được mất, sướng khổ, khen chê, vinh nhục, giống như những mắt xích nối tiếp nhau liên tục không gián đoạn. Nếu không cố gắng chống lại chúng thì qua thời gian, khi mình không biết và vô tâm, chúng sẽ ăn sâu vào mình. Rốt cuộc, vào ngày cuối cùng cuộc đời, mình sẽ không thể làm gì được về chúng. Nếu muốn tránh sai lầm lúc cuối đời, từ nay trở đi khi làm bất cứ một điều gì cũng không để cho mình sơ suất, không cẩn trọng. Nếu sai lầm trong những việc hiện tại thì sẽ không thể không sai lầm khi đối diện với cái chết”.
3. Đối Diện Với Cái Chết
“Cái chết không bao giờ bất ngờ
đến với con người khôn ngoan,
vì người đó luôn luôn sẵn sàng ra đi”.
(Nhà Văn Jean De La Fontaine, người Pháp)
Đa số những câu chuyện sau đây kể sơ lược cuộc đời và cái chết của những nhân vật lịch sử, đã đối diện với cái chết một cách bình thản. Những người này là triết gia Hy Lạp Socrates, Thiền sư Tăng Triệu, Hiền sĩ Ấn Độ Ramana Maharshi và Đức Phật Thích Ca. Ngoài ra có hai người đương đại chết vì ung thư, một người thản nhiên, người kia hoảng sợ. Trừ trường hợp cuối cùng này, những cái chết của các vị nói trên phù hợp với đề tài của cuốn sách này: Một cái chết được thanh thản chấp nhận, rất đúng với mong ước mà lại rất hiếm; là kết quả của một cuộc đời được sống một cách nghệ thuật, một đời sống có ý thức giác ngộ với sự chấp nhận cái chết, dù là cái chết tự nhiên hay cái chết có nguyên nhân bên ngoài.
Chúng ta biết rằng trong mỗi nền văn hóa và văn minh trong suốt chiều dài lịch sử, có những người bình thường mà anh hùng, đã đối diện với cái chết của mình một cách không sợ hãi, dù nhiều người trong số đó không có sự định hướng tâm linh, như tin vào Thượng đế, luân hồi, nhân quả hay đời sống linh hồn. Một số người chết một cách can đảm như những vị thánh tử đạo, bị xử tử vì lý tưởng của mình, vì những hoạt động bảo vệ tự do, vì thuộc một nhóm sắc tộc nào đó. Vô số binh sĩ trong chiến tranh đã đối diện cái chết một cách dũng cảm, và những người dân thường cũng vậy. Và tất nhiên có những người bị bệnh nặng hay bị thương nặng, đã không sợ đối diện với cái chết.
Trong lịch sử Hoa Kỳ người ta nghĩ tới Nathan Hale và những lời ông nói khi sắp bị người Anh treo cổ như một gián điệp của quân Mỹ: “Tôi chỉ ân hận là mình chỉ có một kiếp sống để dâng hiến cho tổ quốc” (I only regret that I have but one life to give for my country). Nếu Nathan Hale thực sự đã nói những lời này, chúng ta có thể nói ông đã đối diện cái chết với tâm bình thản được không? Trong thế chiến thứ hai, những phi công Nhật Bản cảm tử trong đoàn Thần Phong đã viết cho những người thân của mình: “Khi đi vào trận cuối cùng, tôi sung sướng vì mình có thể hy sinh tới kiếp thứ bảy cho vinh quang của Nhật Hoàng và danh dự của Nhật Bản” (As I go into my last battle, how happy am I to be able to sacrifice myself until my seventh lifetime for the sentiments inspired by a heroic honor of Japan). Những lời cao cả này phát xuất từ lòng ái quốc anh hùng hay chúng che giấu một sự lo sợ hay loạn trí?
Tất cả những người can đảm này cố gắng đè nén nỗi sợ của mình hay họ thực sự không sợ? Nếu không sợ phải chăng đó là vì họ không có khả năng hình dung cái chết của mình? Họ có hoàn toàn chấp nhận cái chết hay không? Chúng ta không thể biết chắc, vì chúng ta biết rất ít về cuộc đời của họ. Nhưng chúng ta biết nhiều về cuộc đời và thái độ đối với sự chết của những người có tiểu sử sơ lược sau đây:
Socrates (470-399 Trước Tây Lịch)
Socrates, triết gia Hy Lạp của thành Athens, là một trong những gương mẫu được biết nhiều nhất ở Tây Phương, như một anh hùng cô độc đi vào cái chết một cách thong dong tự tại như đi qua cuộc đời, với sự thanh thản và vô úy cùng cực. Từ những cuốn sách của Plato, chúng ta được biết rằng “người khôn ngoan nhất trong loài người” này hoàn toàn không sợ sự đe dọa của cái chết, và trong khi người khác tuyệt vọng và lo sợ trước cái chết, ông vẫn thản nhiên và đầy trí tuệ. Ông chỉ nghĩ tới việc an ủi những người đến để an ủi mình, và nêu một tấm gương về cách chết, một cái chết đáng ca tụng. Trí tuệ gây dựng sự thanh thản đó ở đâu ra? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta hãy xét sơ lược những cái mốc quan trọng trong cuộc đời của Socrates: Binh sĩ và triết gia; vụ xử án, kết án và giam vào ngục; cảnh trong ngục trước khi ông uống thuốc độc.
Chúng ta biết được rất ít về phần đầu cuộc đời của Socrates, vì Plato, vốn là nguồn thông tin chính yếu, chỉ theo học với ông trong mười năm cuối của cuộc đời ông. Chúng ta biết Socrates vốn là một binh sĩ xuất sắc của thành Athens với lòng can đảm, bền bỉ và tỉnh táo trên chiến trường. Khi được khen thưởng trong quân đội, ông không nhận mà dành vinh dự cho cấp trên của mình, là người mà ông đã cứu mạng trước đó. Có lần trong một cuộc hành quân, Socrates làm cho các đồng đội ngạc nhiên khi ông đứng xuất thần trong một ngày liền. Plato nói rằng những cuộc xuất thần như vậy không phải là sự kiện hiếm có. Về sau Socrates biểu lộ sự can đảm khác thường khi bênh vực quyền hợp hiến của một nhóm người bị buộc tội, chống lại một hội đồng khiến họ nổi giận và bối rối; một lần khác ông thách thức một người tàn bạo dù việc này gây nguy hiểm cho mạng sống của mình.
Socrates tự luyện tập để tất cả những nhu cầu của mình được thỏa mãn với những phương tiện nhỏ nhất, nhưng thời tuổi trẻ, ông không phải là người khổ hạnh. Plato nói rằng Socrates “biết cách sống thiếu thốn và biết cách sống dư thừa” (knew how to want and how to abound). Ông là người vui vẻ, hiền hòa, dịu dàng đối với người đối thoại, có khối óc khôi hài, châm biếm vốn nổi tiếng ngay trong thời của ông. Trong khi đó ông không để cho ai thoát sự nhận xét thẳng thắn và những lời lý luận sắc sảo của mình, và tính chất này cùng với sự xa rời của ông làm cho nhiều người ở Athens bối rối và thù ghét.
Socrates cảm thấy mình có sứ mạng thiêng liêng là tìm chân lý và lột trần mọi sự giả dối về trí tuệ, một sứ mạng mà vị tiên nữ ở Delphi đã giao cho ông. Dù là một người thường theo nghĩa ông không bao giờ tìm một chức vụ nào trong chính quyền, ông xem mình là người có liên hệ mật thiết với những người dân Athens khác và hết sức chăm lo cho lợi ích tâm linh của họ. Ông thúc dục mọi người khám phá và sống với những giá trị căn bản, và ông tự ví mình là một con ruồi làm phiền chính quyền, một chính khách đích thực vì ông chỉ làm những gì thực sự tốt nhất cho người dân thay vì những gì chỉ làm cho họ hài lòng.
Bản cáo trạng chính thức dành cho Socrates được dựa trên những lời tố cáo về tội dị giáo và làm hư hỏng thanh niên Athens, và ông bị kết án tử hình. Khi bào chữa cho mình, Socrates đảo ngược tình thế đối với những người tố cáo mình và không tấn công họ mà đặt tất cả thành Athens lên sự thử thách. Ông bị buộc tội báng bổ các thần linh và được đề nghị một án phạt khác, thí dụ như lưu đày. Nhưng ông nói rằng ông phải được chính quyền hỗ trợ trong công việc của mình. Các vị ở tòa án vốn quá quen với những lời kêu xin khiêm tốn đã nổi giận tuyên án tử hình, một sự cách biệt quá xa so với những cáo buộc trước đó.
Trong khoảng thời gian giữa lúc tuyên án và lúc thi hành bản án, một trong những người bạn lâu đời nhất của Socrates là Crito giục ông chạy trốn và cung cấp phương tiện cho ông. Socrates từ chối, nói rằng một trong những lý do là dù bản án sai lầm, nhưng tòa án là một cơ quan hợp hiến và phải được tôn trọng. Trong việc này, cũng như ở phiên xử, ông cho thấy mình là một công dân chân chính, thẳng thắn và tinh tế hơn những người buộc tội mình, tòa án hay những người bạn của mình. Phiên xử, cảnh trong phòng giam với Crito và thái độ của Socrates lúc chết, đã khuấy động tâm trí của mọi người trong hai mươi bốn thế kỷ với sự uy nghi, thanh thản và sáng suốt của ông.
Tại sao Socrates có thể đối diện cái chết một cách can đảm như vậy? Câu trả lời đơn giản nhất là ông đã quen chết. Ông đã chết đối với quyền lợi cá nhân của mình ở chiến trường, như ông đã nói trong cuốn “Apology” của Plato, ông đã chết trong lần xuất thần, khi ông quên thể xác của mình trong khi chiêm nghiệm, ông đã chết đối với những lạc thú, và thường là trong khi tìm trí tuệ, một cuộc tìm kiếm với cảnh nghèo và đơn sơ; và ông đã chết về mặt cảm xúc và mặt trí thức đối với bản thân nhiều lần trong tiến trình phát triển tâm linh của mình, trong những cuộc thảo luận hay trong khi im lặng. Vậy, theo một nghĩa rất thật, ông đã quen chết mỗi ngày, và cách chết của ông là bằng chứng của sự thành thực trong tất cả những gì xảy ra trước lúc đó. Trong cuốn “Plato”, Socrates nói: “Những người yêu mến sự minh triết một cách đúng đắn là những người đang thực hành sự chết, và sự chết đối với họ là điều ít khủng khiếp nhất thế gian”.
Vậy, rõ ràng Socrates cảm nhận sâu xa sự chết không phải là một sự trừng phạt hay một điều xấu. Ông nói rằng một người tốt có thể không bao giờ bị làm hại bởi một người xấu; đạo đức hoàn toàn vượt lên trên quyền lực thế gian (A good man can never be harmed by a bad, virtue transcened temporal power completely). Socrates tin rằng sau khi chết sự sống vẫn tiếp tục và lúc đó sự phán xét đích thực sẽ diễn ra với những vị phán xét không bị che mặt bởi một tấm màn thế tục nào và như vậy có thể hiểu thấu và biết rõ linh hồn của người mới qua đời. Phần thưởng của người đức hạnh và yêu sự minh triết hay ham học hỏi là đi tới chỗ mà người đó có thể đàm thoại với các vị thần, các vị anh hùng ngày xưa và những người nổi tiếng cũng như tìm hiểu về các vị này. Đó là niềm tin không lay chuyển của Socrates.
Cùng lúc đó, lý trí nói với ông rằng sự chết là một điều bí ẩn, và vì bí ẩn nên có lẽ sự chết là một điều tốt. Tự hạ mình trước khi chết mới là một điều xấu, và có thể làm hại sự tiến bộ tâm linh của mình sau khi chết. Ông không thấy có lý do gì để thích một điều xấu rõ rệt như vậy, và đây có thể là một điều xấu lớn chứ không phải một điều tốt hơn. Đối với những người khác thì lối nghĩ như vậy không ăn sâu vào tim óc của họ, nhưng đối với Socrates thì đời sống tri thức, tình cảm và tâm linh là một, không có sự phân cách nào. Ông đã tập luyện để sống với lý tưởng cao nhất mà ông được biết, và như vậy ông thu hẹp khoảng cách giữa sự biết, sự thực hành và sự sống.
Socrates đã không thể ngăn cản được sự suy thoái của quốc gia Athens, nhưng lời nói và hành động của ông đã có ảnh hưởng lớn tới những giá trị trong nền văn minh Tây Phương, và do đó có thể nói là Socrates vẫn đang sống trong hiện tại. Ông vẫn đang luôn luôn thử thách chúng ta, trong khi chúng ta chọn giữa điều tốt, theo những gì mình có thể biết, và những điều lợi có tính chất vị kỷ, tức là giữa sự tìm kiếm giá trị đích thực và những điều quy ước thấp kém vốn đang ở xung quanh chúng ta.
Những giờ phút cuối cùng của Socrates
Theo lời kể của Plato, đệ tử của Socrates, lúc đó Crito ra hiệu cho một người hầu, người này đi ra khỏi phòng giam rồi trở về với người cai ngục. Người cai ngục cầm theo một chén thuốc độc. Socrates nói: “Anh bạn tốt, anh là người có kinh nghiệm trong những việc này, vậy hãy nói cho tôi biết tôi phải làm thế nào?”.
Người cai ngục đáp: “Ông chỉ cần đi quanh, cho tới khi nào hai chân nặng thì nằm xuống, lúc đó thuốc độc sẽ phát tác”. Nói xong người đó đưa chén thuốc cho Socrates. Với cử chỉ bình thản và hiền hòa nhất, Socrates nhìn thẳng vào người cai ngục, cầm lấy chén và nói “Anh nghĩ sao về việc làm một nghi thức dâng cúng chén thuốc này cho một vị thần nào đó? Tôi có được làm như vậy không?”
Người cai ngục trả lời: “Thưa ông, chúng tôi chỉ sửa soạn những gì mà chúng tôi xem là đủ”.
Socrates nói: “Tôi hiểu, nhưng tôi có thể xin và phải xin các vị thần phù hộ chuyến đi của tôi từ thế gian này đến cõi bên kia và mong lời cầu nguyện của tôi được như vậy”.
Rồi đưa chén thuốc lên môi, sẵn sàng và vui vẻ, Socrates uống liều thuốc độc. Trước đó mọi người đã có thể kiềm chế sự đau buồn, nhưng bây giờ, khi thấy ông uống cạn chén thuốc độc, họ không thể chịu đựng được nữa, và Plato cũng phải rơi nước mắt, che mặt mà khóc, không phải là khóc cho Socrates mà là khóc cho mình phải xa lìa một vị thầy như vậy. Crito khi thấy không thể cầm được nước mắt cũng đứng dậy rồi đi ra, Plato cũng đi theo, và lúc đó Apollodarus đang khóc bỗng kêu khóc lớn hơn làm cho tất cả như là một bọn yếu hèn.
Một mình Socrates vẫn bình tĩnh. Ông hỏi: “Tại sao lại kêu khóc như vậy?” Tôi đã cho mấy người đàn bà ra ngoài để họ không kêu khóc. Vì tôi nghe nói là người ta nên chết trong sự yên tĩnh. Vậy hãy im đi, và hãy kiên nhẫn.
Nghe ông nói như vậy, mọi người mắc cỡ, cố nín khóc. Socrates đi quanh cho đến lúc hai chân của ông bắt đầu yếu, ông nằm xuống, theo lời chỉ dẫn của người cai ngục. Thỉnh thoảng người đó lại nhìn vào chân và bàn chân của ông. Sau đó ngươi cai ngục bóp mạnh một bàn chân và hỏi ông có cảm thấy gì không, Socrates nói: “Không”. Người đó lại bóp dần dần cao hơn lên chân của ông và cho chúng tôi biết là hai chân đã lạnh và cứng. Socrates cũng bóp chân của mình rồi nói: “Khi nào thuốc độc lên đến tim thì đó là lúc chấm dứt”.
Lúc đó ông đang trùm kín người và khi bắt đầu cảm thấy lạnh ở bụng ông để hở mặt ra và nói lời cuối cùng: “Crito, tôi thiếu Asclepino một con gà, anh nhớ trả món nợ đó cho tôi được không?” Crito nói: “Con sẽ trả. Còn gì nữa không ạ?”
Không có tiếng trả lời nhưng trong một hay hai phút, người ta nghe thấy tiếng chuyển động, và mọi người dỡ tấm mền của ông ra. Hai mắt của ông đã đứng tròng, Crito vuốt mắt và miệng của ông.
Duncan Phyfe (1895-1985)
Socrates là một nhân vật được mọi người cảm phục, một người hiên ngang thách thức những định kiến chính trị, xã hội và tôn giáo trong thời của ông và đã chịu án tử hình của chính quyền. Khác với Socrates, Duncan Phyfe không phải là một người gây rung chuyển xã hội, mà là một người bình thường. Ông được đưa vào cuốn sách này vì ông đã sống đời sống bình thường một cách tốt đẹp khác thường và do đó đã sửa soạn cho một cái chết đẹp đẽ, không có một điều ân hận nào cả. Vào lúc đó có quá nhiều người sợ một cái chết đau đớn, muốn chết bởi chính tay của mình hơn là bởi tay của số mạng, thì cái chết của Duncan Phyfe là một sự kiện nổi bật. Sự chết cũng như sự sống không thể làm cho ông sợ, vì ông yêu sự sống và chấp nhận sự chết. Cho đến khi chết trên giường vào năm chín mươi tuổi, ông không bao giờ lung lay với niềm tin rằng cái chết không phải là sự chấm dứt của sự sống, mà chỉ là một sự chuyển tiếp đưa tới một đời sống khác. Cuộc đời bên ngoài của Duncan Phyfe không cho thấy gì nhiều về tính chất tâm linh phong phú vốn đã phát triển trong ông vào những năm cuối đời. Sinh năm 1895 ở Cold Spring, New York, và là cháu của nhà làm đồ gỗ gia dụng Phyfe, ông là tài xế xe cứu thương ở Pháp trong thế chiến thứ nhất và đã được chính phủ Pháp tặng thưởng huy chương. Sau đó ông trở thành kỹ sư âm thanh. Sau khi làm việc ở Nam Phi, ông trở về Hoa Kỳ làm cho hãng RCA, nơi ông sáng chế kiểu loa gắn vào xe hơi trong những bãi chiếu phim dành cho những người lái xe hơi.
Ông kết hôn hai lần và có 2 con, một gái, một trai. Sau khi về hưu, ông và vợ đi du lịch khắp Hoa Kỳ trong một xe kéo “nhà lưu động”, và sau cùng định cư ở San Diego, California. Là người theo Thiên Chúa Giáo nhưng không đi lễ nhà thờ, ở San Diego ông chú ý tới một giáo phái Thiên Chúa Giáo, tin rằng Vương Quốc của Thượng Đế ở ngay trên trái đất này. Ông đã sinh ra và được làm lễ rửa tội trong Giáo hội Methodist, nhưng khi trưởng thành ông rời khỏi Giáo hội này vì không thấy trong Giáo hội có những chân lý căn bản mà mình đang tìm kiếm.
Khi vợ ông qua đời, ông sống trong một nhà lưu động ở Santa Fe, New Mexico. Ý thích phiêu lưu và vui sống nên ông mua một chiếc scooter chạy quanh thành phố Santa Fe ở tuổi tám mươi. Trong khoảng thời gian này, ông được “khám phá” bởi một nhóm nghệ sĩ và văn sĩ “New Age” đầy lý tưởng, vốn đã được thu hút tới miền Tây Nam này bởi sự hứa hẹn về tự do cá nhân lớn hơn và cơ hội trở nên nổi tiếng trong những ngành nghệ thuật. Nhưng thành công về nghệ thuật và cá nhân không tới nhanh, và họ phải chịu khó nhọc để kiếm sống. Họ là đàn cừu cần có người chăn dắt, và họ tìm thấy Duncan Phyfe là người chăn dắt đó. Ông trở thành người làm ơn cho họ, người giáo sĩ nghe họ xưng tội, và vị Thầy tâm linh của họ. Trong khi đó ông được nuôi dưỡng bằng tinh thần phóng khoáng và sự nhiệt thành tuổi trẻ của họ, ông đã luôn luôn được thu hút về phía giới trẻ hơn là về phía những người cùng thế hệ với mình, vì ông có nhãn quan trẻ trung về đời sống. Ông nói: “Tôi không bao giờ cảm thấy mình già. Tôi yêu mọi người và niềm vui lớn nhất của tôi là mang lại cho họ niềm vui”.
Với năng lực và tính chu toàn của mình, Duncan hết sức giúp đỡ những người bạn mới của mình làm quen với bầu không khí loãng của Santa Fe. Nhưng ông không lầm lẫn về những khả năng của mình. Khi họ thiếu thực phẩm, ông không cho họ những lời nói về một cõi trời nào đó mà ông cho họ đồ ăn, vì ông biết rằng khi bụng đói, người ta không nghe thấy những lời hùng biện về đạo lý. Khi mái nhà của họ bị dột và đường dây điện trong khu nhà xập xệ của họ bị hỏng, ông không cầu nguyện Chúa Trời phù hộ họ qua cơn khó khăn, mà ông tự tay sửa chữa cho họ với tiền bạc của mình. Là người có tài năng về cơ khí, ông luôn luôn sẵn lòng giúp đỡ họ với khả năng của mình. Dù tuổi đã cao, ông sẵn sàng lái xe chở một người bạn trẻ đi trong thành phố hay trông trẻ giúp cho những người có con nhỏ.
Tôi đã gặp con người đáng chú ý này lần đầu tiên ở nhà con trai và con dâu của ông. Ông nằm ở trên giường với bệnh ung thư túi mật và gan. Trước đó ông đã được giải phẫu và được cho biết là bệnh của ông đã ở thời kỳ cuối. Sự vui vẻ và sự minh mẫn của ông, dù ông đã chín mươi tuổi, không cho thấy tính chất nguy hiểm của căn bệnh của ông.
Khi chúng tôi nói chuyện, ông ngồi tựa lưng trên giường trong một căn phòng tiện nghi với một bộ máy nghe nhạc lớn mà ông đã ráp. Cùng ở trong phòng là người bạn văn sĩ của ông, người đã giới thiệu tôi với ông, và người phụ tá của tôi làm công việc ghi âm cuộc nói chuyện của chúng tôi. Duncan có vẻ dễ chịu, không cố nói một lời sâu xa hay thánh thiện nào.
“Duncan, theo ông thì mục đích cuộc đời của ông là gì?”
“Sửa soạn cho mình để qua cõi bên kia”.
Người bạn của ông ngắt lời: “Nhưng một phần mục đích của ông ở đây là ban ánh sáng và niềm vui cho người khác, phải vậy không?”.
“Đúng như vậy. Một ước vọng lớn của tôi là ban ánh sáng cho những người nào tìm kiếm, với tất cả khả năng và tri thức của tôi, tức là cho họ những chân lý căn bản. Có nhiều chiều tâm thức ngoài thời gian ba chiều mà chúng ta bị nhốt ở trong đó”.
Tôi hỏi: “Tôi biết là cái chết có thể tới với ông bất cứ lúc nào. Ông nghĩ sao về điều này?”. Câu trả lời của ông làm tôi giật mình:
“Tôi nghĩ điều đó tuyệt diệu”.
Tôi dồn ông ta: “Ông thực sự không sợ ?”
“Tôi không sợ gì cả. Tôi hòa hiếu với thế gian và với Đấng Sáng Tạo của tôi. Tôi còn muốn gì hơn nữa?”.
Để xác định nguồn gốc của sự thanh thản và sự tự tin của ông, tôi hỏi ông nghĩ điều gì sẽ xảy ra cho ông sau khi chết. Không ngập ngừng ông trả lời: “Tất cả những điều tuyệt diệu nhất mà người ta có thể nghĩ tới. Sự chết không là gì hơn sự mở rộng liên tục đời sống, mà sự sống thì không có giới hạn”.
Tôi lại hỏi: “Không có điều nghi ngờ nào trong tâm trí của ông là mình sẽ tái sinh trong một hình thức này hay hình thức khác tùy theo nghiệp của mình?”.
“Không một chút nghi ngờ”.
“Niềm tin hay sự biết này có làm cho tâm trí của ông thanh thản không ?”.
“Có, nó làm cho tôi an lạc”. Không có sự lầm lẫn nào về sự thành thật trong lời nói của ông hay sự an lạc trong tâm hồn của ông tỏa ra.
Sau đó tôi hỏi ông có sự đau đớn về thể xác hay tâm trí nào không. “Không, không hẳn. Chỉ có điều tôi ghét phải chia ly với những người bạn thân. Nhưng tôi biết là mình sẽ đi ra khỏi cái người ta có thể gọi là ‘thung lũng nước mắt’ hiện tại này.”
Khi được hỏi là đối với ông cuộc đời có thực sự là thung lũng nước mắt hay không, ông đáp rằng ông chỉ dùng từ ngữ đó như một lối nói, nhưng dù sao cũng có quá nhiều đau khổ trong thế giới ngày nay, thí dụ như chiến tranh và những sự bạo động khác. Ông nói thêm: “Nhưng nếu nhìn xung quanh người ta cũng có thể thấy những điểm tốt đẹp trong thế gian này”. Trước đó, ông đã xác quyết rằng mọi thứ rút lại trong một chữ: Tình yêu. “Tình yêu giữ thế gian lại với nhau và là nguồn gốc của tâm thiêng liêng”. Câu này nghe có vẻ nhàm chán nếu không có nét mặt tỏa sáng của ông khi ông nói “tình yêu”. Ông có vẻ mặt hoan hỷ rõ ràng.
Một lúc khác tôi hỏi tại sao ông nghĩ là đa số người ta sợ chết?
“Tôi nghĩ đây là sự vùng vẫy chống lại cái mà họ cho là hư vô bất tận. Đa số người ta muốn tiếp tục, không nhất thiết là trong đời này, mà cứ tiếp tục và không cảm thấy rằng đây là tất cả, và nếu đây là tất cả thì tại sao nó đã bắt đầu? Phần lớn những người sợ chết cảm thấy cái chết là sự chấm dứt, một sự đóng lại”.
“Duncan, ông có thể thành thật nói rằng ông đối diện với cái chết sắp tới không sợ hãi gì cả một cách sẵn lòng?”
Ngồi cao thêm trên giường, ông nhìn thẳng vào mắt tôi và trả lời: “Một cách sẵn lòng”. Không ai có thể nghi ngờ niềm tin trong lời nói của ông.
Duncan Phyfe qua đời ngày 12 tháng 8 năm 1985, khoảng nửa tháng sau khi chúng tôi nói chuyện với nhau. Con trai và con dâu của ông nói rằng, trong mấy ngày cuối cùng ông đã nửa tỉnh nửa mê, hầu như chỉ đáp lại người khác bằng ánh mắt tươi cười. Bằng chứng mạnh mẽ là tình yêu của ông dành cho mọi người và sự háo hức của ông đối với cái bí ẩn ở phía trước. Con trai của ông nói: “Điều đó gần như là một sự say mê. Ông chỉ muốn ra đi”. Khoảng một tuần trước khi mãn phần, ông đã hỏi với một chút nóng nảy. “Tại sao Thượng đế không tới mang tôi đi ?”.
Trong sáu giờ cuối cùng ông đã an tĩnh và bất tỉnh. Ông chết nằm co trong thế nằm của bào thai.
Ông đã được nhiều người yêu mến.
Leah (1933-1987)
Phần sau đây là lời kể của một nhà tâm lý trị liệu về cái chết của người bạn và đồng nghiệp của ông, Leah (không phải tên thật), được bao gồm ở đây để minh họa một cái chết đau đớn với sự hốt hoảng, một thí dụ kinh điển về một người, mà theo lời thú nhận của chính người đó, đã không sửa soạn cho sự chết.
Leah được định bệnh là ung thư buồng trứng ở tuổi năm mươi hai. Phản ứng ngắn đầu tiên đối với báo cáo của bác sĩ: “Tôi thấy không yên tâm về điều này”. Bà mau chóng quyết định chiến đấu với căn bệnh ung thư của mình ở mọi mức độ. Nhưng dù bà được chữa bằng hóa trị và xạ trị, khối ung thư vẫn lan rộng và bà thường đau đớn hơn. Các bác sĩ không còn cách chữa nào khác.
Chúng tôi đã nói chuyện về cách hoạt động của tâm trí để chối bỏ những sự việc nào đó. Bà nói: “Khi tôi thấy đau, tất cả những gì tôi muốn làm là chấp nhận rằng mình sắp chết và sửa soạn cho cái chết… nhưng rồi cơn đau chấm dứt và tôi lại dỡ mấy tờ nhật báo để xem có những món thời trang nào mới hay không”.
Một tháng trước khi chết, Leah vô bệnh viện lần cuối cùng. Bà đã suy sụp khá nhanh, và cái chết có thể tới bất cứ ngày nào. Bà mất chức năng cơ thể mỗi lúc mỗi nhiều hơn, và mỗi lúc mỗi có ít hơn những việc mà bà có thể chọn làm với thời gian của mình. Khi làm một việc đơn giản nhất bà cũng cần phải có sự chú tâm trọn vẹn, nếu không cần sự giúp đỡ của người khác.
Vào buổi tối cuối cùng, tôi và con gái của bà là Gail ở bên giường của bà cùng với một người bạn của Gail. Tôi chỉ gặp Gail một lần trước đó, vào tối hôm trước, và cô nói với tôi rằng bác sĩ đã nói đêm nay có thể là đêm cuối cùng. Leah đang đeo ống thở. Bà rất yếu và chỉ có thể nói một cách khó khăn.
Trước đó Leah đã nói rằng bà thích nghe người khác nói chuyện, dù bà không thể cùng nói trực tiếp. Vì vậy Gail và người bạn nói về thời thơ ấu của họ. Gail nói rằng mẹ mình đã luôn thích tiếng cười của người bạn, và người bạn hỏi Leah: “Bác có muốn nghe một chuyện giễu không?” Trong động tác rõ rệt và mạnh nhất buổi tối đó, Leah gỡ ống thở ra và nói: “Chuyện gì?”.
Người bạn của Gail kể câu chuyện và tất cả chúng tôi đều cười, Leah cười với nụ cười của một cô bé. Bà trở nên linh hoạt hơn, than phiền về những y tá thiếu năng lực, khen những người tốt và nói đùa về một “y tá khùng chỉ chú ý tới những chuyển động trong bụng của bà”. Bà biết là mình đang được mọi người giúp vui, và chúng tôi cười rất nhiều.
Một lát sau bạn của Gail ra về. Rồi Leah nói bà muốn có một giáo sĩ tới làm lễ lần cuối cho mình. Leah là người Do Thái ở Âu Châu trong thế chiến thứ hai, và mẹ của bà vì không thể nuôi được đã cho bà vào ở trong một nữ tu viện khi bà được năm tuổi. Bà thường nói rằng các nữ tu sĩ là những bà mẹ thật của mình.
Tôi đi gọi một giáo sĩ. Khi tôi trở về thì đã có một sự thay đổi đáng chú ý. Leah đã yên tĩnh hơn. Tôi cầm tay bà và cũng yên lặng với bà. Gail ngồi ở bên kia giường cũng nắm bàn tay kia của bà. Vị giáo sĩ tới. Leah nhắm mắt lại và không có vẻ nhận thấy ông ta. Con gái của bà hỏi: “Mẹ có muốn gặp vị giáo sĩ không?”. Bà nói: “Chưa”, và hết sức thu người lại. Bà bắt đầu có vẻ xao động. Vị giáo sĩ hỏi bà có phải là tín hữu Thiên Chúa không? Bà nói một chút về thân thế của mình và muốn có sự ban phước của cả Thiên Chúa lẫn Do Thái Giáo. Bà nói với vị giáo sĩ rằng trong những lúc đau đớn và tuyệt vọng nhất, bà đã trông thấy Chúa Jesus và đã kêu xin Ngài giúp đỡ.
Vị giáo sĩ bắt đầu làm nghi thức cuối cùng. Ông cầu nguyện với giọng quá thấp nên chúng tôi không nghe rõ. Gail và tôi đi ra đại sảnh trong khi vị giáo sĩ nghe Leah xưng tội. Chúng tôi đều bất mãn vì trong lúc này mà khả năng truyền một loại cảm hứng tâm linh nào đó của ông có vẻ không có gì cả. Ông ta gọi chúng tôi trở lại, ông làm xong nghi thức và ra về. Gail hỏi mẹ là bà có cảm thấy tốt hơn sau khi gặp vị giáo sĩ hay không, nhưng bà không trả lời.
Bây giờ Leah an tĩnh trong một lúc lâu, nhưng với cảm giác xao động trong tâm trí gia tăng. Tôi có thể cảm thấy điều này rất rõ ràng. Không biết phải nói gì hay làm gì, tôi cầm tay bà và tập trung tâm trí như tôi đã học được khi hành thiền. Tôi có thể cảm thấy tâm trí của bà một cách rõ ràng, cảm thấy nỗi sợ bắt đầu xuất hiện. Càng có thể buông bỏ những gì xuất hiện trong tâm trí của mình, tôi càng có thể “tiếp xúc” với bà nhiều hơn, và sự xao động của bà lắng xuống.
Giai đoạn tương đối an tĩnh này bị làm rộn sau ba mươi hay bốn mươi phút bởi một cảm giác hoảng sợ nổi dậy mạnh mẽ. Leah bắt đầu hốt hoảng. Bà nói: “Tôi sợ” và bắt đầu run rẩy. Tôi tập trung tâm trí mạnh hơn và tôi cảm thấy nó có hiệu quả, nhưng sự xao động của bà gia tăng. Rồi bà lớn tiếng kêu Thượng Đế nhiều lần. Trong mấy ngày giọng nói của bà đã yếu ớt, bây giờ bà kêu Trời và van xin chúng tôi: “Giúp tôi! Giúp tôi! Tôi muốn trở lại với cảm giác bình an”. Sự khủng hoảng kéo tới từng đợt với bà và toàn thân bà run rẩy. Bà bắt đầu hỗn loạn, nói một cách rời rạc về những hình ảnh mà chỉ có bà trông thấy. Bà nói một lúc lâu bằng tiếng Pháp, tiếng mẹ đẻ của bà và kêu “Peur! Peur!” (Sợ! Sợ!).
Bà bảo chúng tôi giúp bà ngồi dậy, nhưng chúng tôi mới bắt đầu làm theo lời thì bà đã tự ngồi dậy lần đầu tiên trong một tuần. Tôi đã chưa bao giờ chứng kiến một sự hoảng sợ như vậy.
Ở bên kia giường Gail nói với tôi: “Mẹ thực sự muốn chết một mình… bà đã sống một đời khó khăn và bà cũng đang chết khó khăn”.
Chúng ta thường có ảo tưởng là mình có thể tránh được hậu quả của những hành động của mình. Chúng ta tin như vậy cho đến lúc sắp lìa đời, khi không thể thoát được hậu quả của những gì mình đã gieo trồng trong cuộc đời. Tôi nhìn Leah một cách bất lực trong khi bà bị cuốn đi bởi tất cả những gì đã chưa được giải quyết trong cuộc đời của bà. Bà tháo ống thở ra rồi nói với tôi: “Ông đã chịu nhiều ấn tượng với tôi. Ông đã nghĩ là tôi đã sửa soạn cho cái chết của mình, nhưng tôi đã không làm gì cả!”. Bà đeo ống thở trở lại, vẫn rất xao động và thu rút vào chính mình. Bỗng gần như bạo động, bà lại tháo ống thở ra và nói trong sự tuyệt vọng: “Tôi muốn chết nhưng sao tôi không thể thoát ra được”. Bà chỉ vào ngực của mình và làm một động tác với hai tay giống xé ngực ra. Gail và tôi thay phiên nhau quạt để bà không nóng. Bà trở nên yếu hơn và yên lặng hơn, và những gì bà nói thì không còn minh mẫn nữa.
Leah đã yên tĩnh và có vẻ xa xôi trong ít nhất nửa tiếng đồng hồ, tôi quyết định đi về nhà lúc hai giờ sáng. Gail cũng tới nhà khách để nằm nghỉ và cô nhờ một y tá trực đánh thức nếu có điều gì xảy ra. Trước đó, Leah đã nói là bà muốn ở một mình lúc chết, vì bà thấy như vậy sẽ dễ cho mình hơn và bà thấy ít đau khổ hơn để ra đi lúc người khác không có mặt.
Leah chết một mình trong vòng một giờ sau đó.
Thiền Sư Tăng Triệu (384-414)
Một người đã rất bình thản đối diện với cái chết là tu sĩ Phật Giáo, Thiền Sư Tăng Triệu. Là một nhà văn và nhà tôn giáo có tài năng, Ngài đã viết nhiều bài luận về giáo lý. Nghe nói về năng lực của Ngài, Hoàng đế nhà Đông Tấn xuống chiếu chỉ cho Ngài phải hoàn tục để làm thư ký trong triều đình. Ngài Tăng Triệu từ chối và do đó bị xử tội chém đầu. Lúc đó Ngài mới ba mươi tuổi. Ngài xin được hoãn lại một tuần để viết xong một luận bản. Sau khi hoàn thành tác phẩm này, Ngài bình thản nộp mình thọ án. Trước khi chết Ngài viết:
“Bốn đại không có chủ
Năm uẩn đều là không
Khi gươm trần chém đầu ta
Thì cũng giống như chém gió xuân”.
(The four elements essentially have no masters
The five skandhas are fundamentally void
When the naked sword cuts off my head
It will be like cutting a spring breeze)
Người ta thán phục sự bình thản của Thiền Sư Tăng Triệu trước cái chết, nhưng cũng không phải không nghĩ rằng trong một kiếp trước Ngài đã giết một người nào đó và do vậy đã nhận quả báo xấu trong kiếp này theo luật nhân quả. Là tu sĩ Phật Giáo, Tăng Triệu phải biết như thế.
Sri Ramana Maharshi (1879-1950)
Thái độ lúc chết của Sri Ramana Maharshi, một trong những vị Đại Sư đáng kính nhất của Ấn Độ Giáo, gợi nhớ thái độ của các vị Thiền Sư và giáo lý của Ngài cũng giống như giáo lý của các vị này. Ngài được kính trọng vì sự minh triết cũng như đức hạnh trong đời sống của Ngài. Khi người ta hỏi Ngài đi về đâu sau khi chết, Ngài nói: “Người ta nói tôi sắp chết, nhưng tôi không đi đâu cả. Tôi có thể đi đâu? Tôi ở đây”.
Sau đây là lời kể về cái chết của nhà hiền triết Ấn Giáo này.
“Vào ngày thứ Năm, 13 tháng Tư, một bác sĩ mang tới cho Ngài Sri Ramana Maharshi thuốc chữa căn bệnh ung thư của Ngài, nhưng Ngài từ chối dùng thuốc và nói “Không cần thiết. Mọi sự sẽ tới đúng trong hai ngày nữa”.
Khi trời tối, Sri Ramana Maharshi bảo mấy người đệ tử giúp Ngài ngồi dậy. Họ đã biết rằng mỗi cử động, mỗi sự đụng chạm đều gây đau đớn, nhưng Ngài bảo họ đừng lo về điều đó. Ngài ngồi với người đệ tử nâng đầu của Ngài. Một bác sĩ tới để cho Ngài thở oxygen, nhưng với bàn tay phải, Ngài xua ông ta đi.
Bỗng một nhóm tín đồ ngồi ở ngoài hiên cất tiếng hát bài “Arunachala - Siva”. Nghe tiếng hát, mắt của Ngài Sri Ramana Maharshi mở ra và sáng lên. Ngài nở một nụ cười thật dịu dàng. Từ khóe mắt của Ngài những giọt nước mắt hoan hỷ rơi xuống. Thêm một hơi thở sâu nữa rồi không có hơi thở nào khác. Không có sự giãy giụa, không có co giật, không có dấu hiệu khác của sự chết, chỉ có hơi thở chấm dứt”.
Đức Phật Thích Ca (624-544 Trước Tây Lịch)
Trong những thí dụ về thái độ của các vị Thầy trước cái chết, sau cùng chúng ta xét sự kiện Đức Phật Thích Ca vào Niết Bàn (Parinirvana). Niết Bàn (Nirvana) có nghĩa là tịch diệt hay trạng thái vô ưu, vô sinh bất tử mà người ta đạt được sau khi đã giải trừ mọi phiền não như tham, sân, si, ganh tỵ, kiêu ngạo và đã không tạo nghiệp, do đó không kẹt trong luân hồi nữa. Từ ngữ “Parinirvana” chỉ được dùng để nói về Đức Phật, chỉ trạng thái giải thoát trọn vẹn khi Ngài qua đời.
Chúng ta hãy tìm lại những sự kiện quan trọng trong những ngày cuối cùng của Đức Phật và trước hết là chuyến đi hoằng pháp cuối cùng của Ngài. Khi tới thị trấn Pava ở miền Bắc Ấn Độ, Ngài nghỉ đêm ở vườn xoài của Chunda (Thuần Đà), một thợ rèn và là một Phật tử thuần thành. Thuần Đà thỉnh Đức Phật và các đệ tử của Ngài dùng bữa ở nhà ông vào ngày hôm sau. Bữa ăn gồm cơm, bánh ngọt và nấm. Bị đau bụng vì ăn nấm, Đức Phật vẫn bình thản và khi cơn đau dịu đi, Ngài nói với Ngài Anan: “Chúng ta hãy đi tới Kushinagar”. Chưa đi được bao xa thì Ngài ngồi xuống một gốc cây và nói: “Này Anan, gấp y của ta làm bốn rồi trải dưới đất cho ta. Ta mệt và phải nghỉ một lát”.
Sau đó Ngài nói với Tôn giả Anan rằng, không nên đổ lỗi cho Thuần Đà về việc Đức Thế Tôn nhập diệt sau khi ăn bữa cuối cùng do người thợ rèn cúng dường. Ngài nói: “Có hai loại cúng dường thực phẩm quý báu vô thượng, đó là cúng dường trước khi Như Lai chứng đạt Chánh Đẳng Giác, và cúng dường trước khi Ngài tịch diệt. Nghiệp thiện này đã được dành cho Thuần Đà, vậy đừng làm cho ông ấy ân hận. Anan, chúng ta hãy đi tiếp tới rừng cây Sala của bộ tộc người Malla”.
Khi đến nơi Ngài nói: “Hãy trải nệm, đầu quay về hướng Bắc, giữa hai cây Sala. Ta mệt và muốn nằm xuống”. Ngài nằm nghiêng bên phải, với một chân đặt lên chân kia. Rồi Ngài nói với Tôn giả Anan rằng Ngài sẽ tịch diệt vào canh ba đêm hôm đó.
Đức Phật trải qua tứ thiền rồi đi qua bốn cõi của vô sắc giới, Tôn giả Anan nghĩ rằng Ngài đã qua đời, nhưng Ngài nhập trở lại mỗi cõi theo thứ tự ngược lại cho tới cấp thiền thứ nhì, rồi Ngài nhập cấp thiền thứ ba và thứ tư. Và ra khỏi cấp thiền cuối cùng, Ngài tức khắc tịch diệt.
Trước đó, khi nhiều đệ tử khóc vì Đức Phật cho biết Ngài sắp qua đời, Ngài khuyến giáo họ rằng sao lại khóc trong khi phải nên vui mừng:
“Trong lúc vui vẻ này không nên than khóc. Như vậy là không đúng, và hãy bình tĩnh lại, Mục đích khó đạt mà qua nhiều kiếp ta đã mong ước nay không còn xa. Khi đó không còn đất, nước, gió, lửa và hư không, an lạc vô thượng siêu việt mọi sắc tướng. Sự an lạc không ai có thể lấy mất, điều cao quý nhất, và khi nghe nói biết rằng không gì có thể thay đổi nó và không có gì ở đó có thể chấm dứt, thì có lý do gì để than khóc? Ở Bodgaya, khi đạt giác ngộ, ta đã giải trừ được nguyên nhân của luân hồi vốn chỉ là một bầy rắn độc; bây giờ đã tới lúc ta bỏ xác thân này vốn là chỗ trụ của nghiệp quá khứ. Bây giờ xác thân chứa đựng nhiều điều xấu này sắp tiêu tan, luân hồi sắp chấm dứt, ta sắp thoát khổ, vậy bây giờ đâu có phải là lúc để các người than khóc”.
Phần hai:
CHẾT
Người ta phải học đủ thứ, kể cả học cách chết
(Gertryde Stein)
Học cách chết thì sẽ sống
Vì sẽ không có ai học cách sống
mà không học cách chết.
(Sách về nghệ thuật chết)
Vì chết đã trở thành thời thượng
Không có đời sống của ai được an toàn nữa.
(Tục ngữ Do Thái)
4. Người Hấp Hối Và Cái Chết
Tiến Trình Chết
Trong một góc tối của tâm trí của mỗi người chúng ta, phát ra một tiếng nói “Mình sẽ chết. Một ngày nào đó mình sẽ chết” (I am going to die. One day I am going to die).
Chúng ta thường không muốn đi tới góc tối đó. Chúng ta hiếm khi chịu nghe tiếng nói đó. Có những khi nó nói rất rõ và mạnh mẽ rằng chúng ta phải nghe nó. Khi có bệnh, khi vừa thoát một cơn nguy hiểm, khi có một người quen bị chết, chúng ta nghe thấy nó nói với mình. Chúng ta thường nghe thấy nó hơn khi lớn tuổi, khi cơ thể suy yếu, khi có thêm kinh nghiệm về sự chết. Có khi tiếng nói đó kêu lớn, lay động chúng ta không thương xót. Khi chúng ta có người thân qua đời, tiếng nói đó nói với chúng ta rằng cuộc đời biến đổi và không có sự trở lại.
Tiếng nói đó nhắc nhở chúng ta rằng, chúng ta có sống, có chết. Chúng ta có phản ứng gì với tiếng nói này, hay chúng ta cố cản trở nó, những điều này sẽ quyết định lối sống của chúng ta.
Nếu muốn mình sẽ chết với một mức độ an lạc nào đó, chúng ta sẽ phải hiểu một chút là ai chết hay cái gì chết. Đa số người ta tin rằng mình là thể xác và tâm trí, một cái ta, tự ngã, linh hồn, có tên là Tom hay là Mary. Nhưng thể xác chỉ là một tên gọi của một tập hợp những thành phần luôn biến đổi, và “tâm trí” là một tên gọi của một loạt những ý nghĩ, tình cảm. Không suy nghĩ gì nhiều, chúng ta tin rằng cái tập hợp tâm lý thể xác được gọi là Tom hay Mary là con người thật. Nhưng điều này chỉ đúng theo nghĩa quy ước, hay lý thường tình. Thật ra thì:
“Không có người tạo tác, mà chỉ có sự tạo tác
Không có sự kinh nghiệm, mà chỉ có người trải nghiệm
Chỉ có những thành phần của nhân duyên vận hành”.
Mọi thứ thuộc tâm trí hay vật chất đều ở trong trạng thái biến đổi, không có gì lâu bền hay bất động. Nếu suy nghĩ kỹ, chúng ta sẽ thấy rằng không có người chết, chỉ có tiến trình chết. Giống như chuyển động là một tiến trình, đi bộ là một tiến trình, chết cũng là một tiến trình. Bằng cách không đồng hóa chơn ngã (true-self) với hành động của mình, chúng ta có thể nắm được sự thật là tất cả đời sống chỉ là một tiến trình.
Nhiều người biết câu nói của Woody Allen: “Tôi không phiền lòng với sự chết. Tôi chỉ không muốn có ở đó khi nó xảy ra mà thôi” (I don't mind dying. I just don't want to be there when it happen). Những lời này không chỉ khôi hài mà ở bên trong còn chứa đựng một sự thật sâu xa. Nếu “không muốn ở đó” khi chết, chúng ta hãy học cách hòa nhập với sự chết, để chúng ta “biến mất” hay “mất”, vượt lên trên thể xác và tâm trí. Hãy bỏ ý tưởng phân biệt sự chết với cái chết, phân biệt tự ngã với người khác, và phân biệt những cặp đối nghịch tương tự. Như vậy thì còn lại ai để nói hay nghĩ: “Mình đang chết”. Và như vậy không có sự bám giữ vào đời sống, không có sự kêu ca chống lại sự chết.
Sự hòa nhập với cái chết là một trạng thái Thiền, và có thể có hàng ngày. Ví dụ chúng ta ở trong một phòng triển lãm hội họa, nơi có một số bức tranh giá trị. Chúng ta nhìn quanh và bỗng bị thu hút bởi một bức tranh. Chúng ta ngắm trọn bức tranh và bị nó lôi cuốn. Tâm trí của chúng ta bắt đầu phân tích bức tranh: “Màu sắc phong phú, đường nét hấp dẫn, bố cục vững chắc”, đó là hoạt động của trí phân tích của chúng ta. Nhưng chúng ta chưa hòa nhập với bức tranh. Chúng ta ngắm bức tranh sâu thêm, và quên mình ở trong đó. Bức tranh nuốt chúng ta. Thời gian và không gian biến mất. Trước đó chúng ta là chủ đề phân cách với bức tranh đối tượng, bây giờ chúng ta là chủ thể phân cách với bức tranh đối tượng, bây giờ chúng ta không còn là mình nữa, mà tâm trí và thể xác đã hòa nhập với bức tranh, đã đi vào tâm của bức tranh, và đây là một trạng thái không thể mô tả được. Nước mắt trào ra mà chúng ta không biết. Chúng ta và bức tranh là một.
Trạng thái hoàn toàn hòa nhập này, hay trạng thái “nhập định” (Samadhi) trong ngôn ngữ Phật Giáo, là một trạng thái hiện hữu mà ở trong đó người ta không còn ý thức mình là chủ thể phân cách với những đối tượng như người khác, vật khác hay những hoạt động. Đây là trạng thái chú tâm sâu xa mà vô công, không có sự ra sức, một trạng thái ý thức được nâng cao và mở rộng. Trạng thái định có giới hạn, hay định tích cực, là sự hợp nhất một phần với một đối tượng hay một hành động nào đó.
Có những mức độ nhập định khác nhau. Khi chúng ta hòa nhập vào hành động ngắm một cảnh hoàng hôn đẹp tuyệt thì đó là định tích cực. Chúng ta bắt đầu với một đối tượng và rồi vượt lên trên nó. Định tuyệt đối thì không có đối tượng. Vì không có ý thức chủ thể đối tượng để bắt đầu nên trạng thái không có trong liên hệ với một vật nào cả. Lực chú tâm được gây dựng qua những pháp Thiền không đối tượng hay không đề mục, làm cho hành giả có đạt được trạng thái định tuyệt đối (đại định). Nhưng khi nhập vào trạng thái này, hành giả không có sự tự ý thức là mình đang ở trong trạng thái định. Những trạng thái định tuyệt đối thì kéo dài hơn và sâu hơn những trạng thái định tích cực. Trong định tích cực, hành giả thường chứng nghiệm cảm giác hỷ lạc, còn trong định tuyệt đối thì không có ý nghĩ hay cảm giác nào xuất hiện. Sự “không có ý nghĩ” này không phải là trạng thái vô cảm hay xuất thần theo nghĩa không tốt. Ý nghĩ của con người là ý thức trong chuyển động, còn đại định thì là ý thức trong trạng thái tĩnh lặng. Nhìn từ quan điểm tâm trí tuệ thì đại định và giác ngộ có thể được xem là một. Nhưng khi nhìn từ những giai đoạn tu tập phát triển đưa đến tỉnh thức thì đại định và giác ngộ là hai điều khác nhau.
Tất cả những cảm giác và cả tri thức nữa đều có thể là phương tiện đạt trạng thái định tích cực. Nghe nhạc, ngắm tranh, chơi thể thao, suy ngẫm về một đề mục, và cả tính dục, tất cả những hoạt động này đều có thể là phương tiện đạt trạng thái định tích cực tạm thời. “Tạm thời” ở đây là một điều quan trọng, vì hành giả có thể nhập định và xuất định tương đối dễ dàng. Chúng ta càng tập chú tâm trong đời sống thì càng dễ đạt đến định tích cực.
CHẾT HẰNG NGÀY
Sự thật là chúng ta thực sự chứng nghiệm sự chết trong đời sống hàng ngày của mình. Có khi nào bạn bị chối từ bởi một người mà mình rất yêu? Lúc đó phải chăng bạn cảm thấy như một phần của mình đã chết? Và bạn cảm thấy thế nào khi một người rất thân với mình đã qua đời? Phải chăng một phần của bạn chết với người đó? Phải chăng có rất nhiều những cái chết nhỏ mỗi ngày? Những cái chết hàng ngày này là cái giá mà chúng ta phải trả cho việc gây dựng những mối liên hệ giữa mình và người khác.
Những mối liên hệ giữa mỗi người thường bị gián đoạn trong một đời sống, thí dụ như cha mẹ qua đời, cái chết của một người bạn, ly dị, người nhà hay bạn thân chết. Vì chúng ta tự ràng buộc mình vào những sắc tướng nên sự buông bỏ không phải là dễ. Càng bám giữ vào những người hay vật khác, chúng ta càng chứng nghiệm sự đau khổ khi mất họ. Chúng ta sợ và tìm cách tránh những sự biến đổi. Sự biến đổi sanh ra sự lo sợ lớn nhất của mọi người. Người ta nhận thấy rằng gần như tất cả sự trầm cảm chính yếu phát sanh từ những sự biến dịch mới xảy ra, thí dụ như bệnh tật, di chuyển chỗ ở, ly dị, thay đổi việc làm, biến đổi trong sức khỏe, biến đổi về kinh tế. Nhưng trên tất cả vẫn là cái chết. Cái chết là sự biến đổi duy nhất mà chúng ta không thể kiểm soát. Bất cứ lúc nào trong cuộc đời từ khi mới sinh ra cho tới một trăm tuổi, chúng ta cũng có liên quan tới sự mất mát về con người. Nhưng những cái “chết” này cũng đưa tới một đời sống mới, vì nếu chúng ta hòa nhập với sự đau buồn chứ không đứng ở bên ngoài nó, sự đau khổ sẽ bỗng nhiên biến mất, và xuất hiện một ý thức cao, một niềm vui có tính cách giải thoát. Từ những cái chết như vậy xuất hiện sự biết chắc rằng những điều như được và mất, tốt và xấu, không thể xâm nhập vào con người bên trong của chúng ta. Vậy, những cái chết hàng ngày này là những sự tái sinh. Không ai cần phải thắc mắc chết nghĩa là gì, vì mọi người vào lúc này hay lúc khác đã biết về sự chết của mình. Vì đã quen nghĩ tới sự chết với những ý tưởng bi thảm nên chúng ta thường tránh nói tới nó, sợ nó, và coi như nó không xảy ra với mình.
Để tái sinh hàng giờ và hàng ngày trong cuộc đời này, chúng ta cần phải chết, tức là cống hiến bản thân cho sự đòi hỏi của mỗi khoảnh khắc, để mình hoàn toàn “biến mất”. Những ý nghĩ về quá khứ, hiện tại hay tương lai, về sự sống và sự chết, về thế giới này và cõi sau, đều được vượt qua trong sự phong phú của giây phút hiện tại. Thời gian và vô thời gian hòa vào nhau: Đây là khoảnh khắc vĩnh cửu (Time and timelessness coalesce: This is the moment of eternity). Như vậy mỗi hành động của chúng ta là một việc cho sự sống hoặc lấy nó đi. Nếu làm mỗi hành động với sự hòa nhập trọn vẹn, chúng ta sẽ ban sự sống cho đời sống của mình, còn nếu làm không thành tâm thì sẽ giết chết đời sống.
Jacques Lusseyran, một Thủ Lãnh Kháng Chiến Pháp bị mù và sống sót sau khi ở trong trại tập trung của Đức Quốc Xã, nói về cách đạt được mối liên hệ siêu việt như vậy cho sự sống và cái chết:
“Những ký ức quá mong manh, quá gần sự sợ hãi, Chúng làm hao mòn sức lực. Chúng tôi phải sống trong hiện tại, mỗi khoảnh khắc phải được hòa nhập cho tất cả những gì ở trong đó để thỏa mãn niềm khao khát đời sống... Đừng tích trữ. Hãy ăn đồ ăn ngay, một cách ham muốn, từng miếng một, cứ như mỗi miếng bánh vụn là tất cả thực phẩm trên thế giới. Khi một tia nắng xuất hiện, hãy mở cửa, hòa nhập với nó tới tận đáy lòng. Đừng bao giờ nghĩ một giờ trước mình đã lạnh và một giờ sau mình sẽ lại lạnh. Cứ thưởng thức nắng ấm.
Hãy bám vào giây phút đang đi qua. Ngừng những hoạt động của ký ức và mong cầu. Điều đáng ngạc nhiên là không có sự khổ não nào được đưa ra đối kháng với thái độ này rất lâu. Hãy lấy khỏi sự đau khổ những thứ của nó như ký ức và lo sợ. Đau khổ có thể vẫn còn nhưng nó đã giảm một nửa. Hãy hòa vào mỗi khoảnh khắc cứ như nó là khoảnh khắc độc nhất thực sự hiện hữu. Làm việc và làm việc hết sức.”
Chúng ta chết vì chúng ta đang sống (we die because we are alive). Sống có nghĩa là sinh và tử. Sáng tạo và hủy diệt, đó là đời sống. Bằng chứng của việc chúng ta đã sống là sự kiện chúng ta đã chết. Chết vào công việc hiện tại (tức là hoàn toàn chìm vào trong đó) dù đang làm việc ở một xưởng máy, chơi thể thao, khiêu vũ, đánh cờ, leo núi hay ca hát, thì một cách mâu thuẫn, điều này đưa tới một cảm giác ý thức cao độ, một trạng thái tột đỉnh mà ở trong đó có cảm giác mạnh mẽ thêm và ý thức thoải mái cộng với một niềm vui sướng.
Tất nhiên ở đây chúng ta không nói tới những người đang chịu một căn bệnh đau đớn, kéo dài, với sự sợ hãi và gánh nặng tài chánh lớn mà nó sẽ đặt lên gia đình của họ. Nhưng vấn đề chính yếu vẫn là một cho tất cả mọi người, đó là làm sao để sống trọn vẹn với đời sống khi còn sống và chết một cách thanh thản với cái chết vào lúc chết, không có sự lo sợ hay những cảm xúc khác. Tính chất của cái chết cũng như của sự sống của chúng ta được quy định bởi sự kiện tự ngã có được kiềm chế hay không, nó sản sinh an lạc hay sản sinh đau khổ.
Để có một cái chết an lạc, chúng ta phải bắt đầu ngay bây giờ. Bước thứ nhất là bắt đầu thực hành tâm linh. Đừng lầm lẫn lý thuyết với thực hành. Việc tu tập khác với văn chương, tâm lý học, triết học và những thứ tương tự. Việc đọc sách có thể cung cấp một cái địa bàn và một tấm bản đồ, nhưng không thể thay thế cho kinh nghiệm bản thân. Sách tốt là cuốn sách đưa chúng ta tới tọa cụ của hành giả. (The good book is the one that gets you onto the meditation mat or chair).
Những ký ức đau đớn, những cảm nghĩ rắc rối và những “việc chưa xong” khác đã trú trong vô thức của chúng ta, sẽ nổi lên hữu thức khi tâm trí trở nên an tĩnh và đã đạt được những mức sâu hơn. Khi tiếp tục hành thiền đều đặn biết tới và có cảnh giác trong những việc làm hàng ngày của mình, những điều phiền phức trong đời sống của chúng ta sẽ tuột đi và rốt cuộc biến mất. Chúng ta cũng sẽ chứng nghiệm sự trong sáng trong đời sống của mình nói chung, và kết quả là vào lúc chết chúng ta sẽ an lạc hơn. Về điều này, một bà ở tuổi trung tuần đã viết cho tôi: “Nếu trong giờ phút cuối cùng tôi có thể nhìn lại cuộc đời của mình và biết rằng mình đã tu tập một cách khó khăn mà chưa đạt giác ngộ trọn vẹn, tôi sẽ vẫn có sự an lạc tâm trí nhiều hơn là khi không cố gắng gì cả”.
Chúng Ta Chết Như Đã Sống
Vì cách chết phản chiếu cách chúng ta đã sống, một cái chết tốt đẹp là dấu hiệu của một đời sống tốt đẹp. Nhà danh họa người Ý, Leonardo Da Vinci (1452-1519) viết: “Cũng giống một ngày sống tốt mang lại giấc ngủ ngon, một đời sống tốt mang lại cái chết an lạc” (Just as a well spent day brings happy sleep, so a life well used brings happy death). Nhưng nếu sống một đời sống đầy những cảm xúc xấu, hay ích kỷ và ngu xuẩn, cái chết của chúng ta sẽ phiền não và đau đớn. Thay vì tìm cách kéo dài đời sống bằng kỹ thuật y khoa, chúng ta nên phục vụ bản thân và xã hội bằng cách cống hiến cho việc phát triển phẩm tính tâm linh và đạo đức của đời sống nào mình có.
Sự đau khổ về tâm trí khi đối diện sự chết đối với một người đã sống một đời sống phiền não và cô lập đã được Tolstoy mô tả một cách sinh động trong cuốn tiểu thuyết cảm động của ông “Cái Chết của Ivan Ilyich” (The Death of Ivan Ilyich). Trong truyện này, Tolstoy diễn tả sự đau khổ về tinh thần không thể chịu nổi của Ilyich trong khi hấp hối, và trong lúc đó Ilyich hiểu rằng chính cái chết thì không đáng sợ, mà cái gây đau đớn lớn nhất chính là lối sống của mình, một đời sống đầy tội lỗi, không phải theo ý nghĩa đạo đức thường được chấp nhận, mà theo tiếng nói nội tâm, cái mà chúng ta có thể gọi là lương tâm. Nói một cách đơn giản, ông ta cảm thấy cuộc đời của mình vô dụng và sai lầm. Và khi gần chết, sự giúp đỡ thực sự độc nhất tới với ông ta trong những khoảnh khắc hiếm hoi đó, khi ông ta nghe theo sự nhắc nhở của tiếng nói nội tâm mình, chứ không nghe theo những ý kiến và những tập quán vốn thường được người đời chấp nhận.
Một cách đầy ý nghĩa, nhiều người đã sống sót qua cuộc đàn áp tàn nhẫn và sự mất tự do cùng cực trong những trại lao động khổ sai và những trại tập trung khẳng định rằng, không phải sự tù đày và những khổ cực kia là đáng sợ, mà đó là sự nhớ lại đời sống của mình trước khi bị bắt. Trong cuốn sách nổi tiếng của mình “Quần Đảo Gulag” (The Gulag Archipelago), Solzhenitsyn đã hơn một lần xác nhận rằng sự đau khổ tâm trí lớn nhất khi ông và các bạn tù hồi tưởng những phương diện không lành mạnh của đời sống mình trước khi bị bắt vào trại tập trung, “về những việc làm tội lỗi đối với linh hồn của mình, cũng có nghĩa là tội lỗi đối với người khác nữa” (about sinning with respect to one's own sould, which meant sinning with respect to other people as well).
SỐNG SÓT VÀ TIẾNG NÓI NỘI TÂM
Có thể cho thêm vào những trường hợp này một nhóm người khác đã không chết một cách thụ động, mà đã sống sót qua những hoàn cảnh đe dọa mạng sống, vì họ nghe và làm theo tiếng nói nội tâm bí ẩn. Trong số họ là Jacques Lusseyran đã được nói đến ở trên. Khi mới mười chín tuổi ông bị Gestapo, một cảnh sát mật vụ Đức Quốc Xã, bắt đi cùng với năm người khác trong phong trào kháng chiến và bị kết án tử hình “vì những hoạt động âm mưu lật đổ chống lại chính quyền Đức chiếm đóng”. Trong 180 ngày bị giam, ông bị thẩm vấn không ngừng. Sau đó, thay vì thi hành án tử hình, một cách không thể giải thích được, Gestapo đưa ông và các bạn tới trại tử thần Buchenwald khét tiếng ở miền Trung nước Đức. Trong cuốn “Và Rồi Có Ánh Sáng” (And There Was Light), Lusseyran viết rằng trong hai ngàn người Pháp bị đưa tới Buchenwald bằng những toa xe lửa chở gia súc vào cuối tháng Giêng năm 1944, chỉ có ba mươi người sống sót, trong đó có ông.
Hình 2: Hình ảnh trại tù Buchenwald
Điều gì đã làm cho Lusseyran bị mù và không phương tự vệ, sống sót? Điều chính yếu là ông đã không khuất phục sự lo sợ và tuyệt vọng, một sự bất khuất được hỗ trợ bởi niềm tin vào Thượng Đế mà đói lạnh, lao động cưỡng bách hay bệnh tật không thể làm suy giảm:
“Phải chăng tôi đã nói rằng sự chết đã có ở đó? Bệnh tật và đau đớn thì có, nhưng sự chết thì không. Ngược lại, ở đó có sự sống và đó là điều không thể tưởng tượng đã chiếm ngự tôi. Trước đó tôi đã chưa bao giờ sống một cách trọn vẹn như vậy. Có những cái tên mà tôi đã lẩm nhẩm từ đáy sâu của sự ngạc nhiên của mình. Tôi không nói ra thành lời, nhưng đó là những cái tên có âm điệu: Đấng Phú Ban, Thiên Thần Bảo Hộ, Jesus Christ, Thượng Đế. Có một cái còn lại mà tôi có thể làm và không từ chối sự giúp đỡ của Thượng Đế, đó là hơi thở mà Ngài thổi lên tôi. Có một trận chiến mà tôi có thể đánh, mạnh mẽ và tuyệt vời cùng một lúc, đó là không để cho thân xác của mình bị lo sợ chiếm ngự. Vì sự lo sợ thì giết chết, còn niềm vui thì duy trì sự sống. Tôi cũng có thể cố gắng cho người khác thấy cách bám giữ vào sự sống. Tôi có thể chuyển cho họ làn sóng ánh sáng và niềm vui vốn đã phát sinh đầy trong tôi. Từ lúc đó, họ không ăn cắp bánh mì hay súp của tôi nữa. Hàng trăm người tin tưởng, và họ quyết định nói chuyện. Họ nói với tôi bằng tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Đức, tiếng Ba Lan. Tôi cố hết sức để hiểu tất cả họ. Đó là cách tôi sống, cách tôi tồn tại.”
Phản ứng của Lusseyran đối với sự tù đày trùng hợp với phản ứng của Solzhenitsyn và các nhà văn Nga nhạy cảm khác, những người đã bị giam trong những trại lao động ở Liên Xô và đã viết những cuốn sách về những gì họ đã trải qua. Một số những cuốn này đã được Mihajlo Mihajlov phân tích và bình luận trong bài báo của ông “Kinh Nghiệm Huyền Bí Trong Trại Lao Động”:
“Tất cả các tác giả đều nói rằng bắt bớ, tù đày, và trại tập trung, nói ngắn gọn là sự mất tự do, đã tạo ra những kinh nghiệm có ý nghĩa và sâu xa nhất trong cuộc đời họ. Dù trải qua sự đau khổ cùng cực về tinh thần và thể xác trong tù đày, họ cũng kinh nghiệm một niềm hạnh phúc thỏa mãn mà những người bên ngoài bức tường của nhà tù không mơ tới. Những người đã trải qua những nghịch cảnh lớn nhất, đe dọa cả linh hồn lẫn thể xác, đều khẳng định rằng người nào hy sinh linh hồn để cứu thể xác thì sẽ mất cả hai; trong khi đó người nào sẵn sàng hy sinh thể xác để cứu linh hồn thì một thứ quy luật kỳ lạ và bí ẩn sẽ bảo tồn cả linh hồn lẫn thể xác của họ. Kinh nghiệm đời sống đã cho chúng ta thấy rằng, ở bên trong linh hồn con người là một lực dị thường, mạnh hơn tất cả những lực bên ngoài của sự nô lệ hóa và sự chết.”
Có Nên Cố Gắng Chống Lại Sự Chết Hay Không?
Một câu hỏi thường xuất hiện với mọi người đang “vật lộn” với một căn bệnh thời kỳ cuối là: “Mình nên chiến đấu chống lại sự chết hay nên đầu hàng nó?” (Should I fight against death or surrender to it?). Theo những gì tôi được biết thì rốt cuộc vấn đề sẽ được chính các bệnh nhân giải đáp theo một cách tự nhiên. Đúng là vào lúc đầu, người bệnh hoang mang và thường quá lo sợ. Tâm trí của họ đầy những ý nghĩ và cảm xúc đối nghịch nhau. Một mặt là những cảm giác chối bỏ, có lỗi, sợ hãi, u uất, cô đơn, lãnh đạm và thất vọng; mặt khác, đó là sự mong ước vô vọng kéo dài sự sống của mình. Và luôn có sự đau đớn về thể xác cũng như tâm trí. Một số bệnh nhân thời kỳ cuối mà tôi quen biết cảm thấy mình bỏ rơi gia đình của mình, nếu mình không cố gắng chống lại căn bệnh. Những người khác với sự đau đớn kéo dài thường lưỡng lự giữa tranh đấu và chạy trốn, đặc biệt khi sự đau đớn được coi là có liên hệ với những triệu chứng suy thoái, như ăn không ngon, xuống cân, và gia tăng sự tùy thuộc thể xác. Thông điệp của thể xác là rõ ràng: “Nếu không có một phép lạ, sẽ không còn sống bao lâu”. Bệnh nhân biết rằng mình sẽ đang đối đầu với sự chết. Nhưng nếu tin rằng cái mà chúng ta gọi lầm là chết, không phải là hố đen của sự tiêu diệt mà chỉ là giai đoạn chuyển tiếp, thì rất có thể người đó sẽ không bám giữ vào sự sống hay đầu hàng sự chết do tuyệt vọng.
Cái Chết Tốt Đẹp
Lối phản ứng với một căn bệnh gây chết người, hay lối chết tùy thuộc vào tánh nết của mỗi người và những giá trị của họ, nhưng phần lớn tùy thuộc vào niềm tin và ý thức tâm linh của họ. Những phẩm tính này có thể gầy dựng qua tu tập như Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ bảy đã nói: “Để chết một cách an lạc với sự tự tin mình ở trong hào quang trắng của đạo tâm, cần phải sửa soạn bản thân ngay bây giờ. Hãy ghi nhớ những giáo lý sâu xa của kinh sách” (In order to die well, with the joy and confidence of being within the white rays of spiritual awareness, it is essential to begin readying yourself now. Familiarize yourself with the profundities of the scriptures).
Ít có người nào trong nền văn hóa Tây Phương, dù là giáo sĩ hay khoa học gia, tin rằng người ta có thể đạt được cái chết tốt đẹp. Nhiều người viết về cách sống đúng, nhưng ít ai viết về cách chết đúng. Đa số chỉ nói về sự mất mát, sự bi thảm, sự đau đớn.
Chết một cách đầy nghệ thuật là chết không suy nghĩ gì cả, không ước muốn gì cả, không muốn hiểu gì cả, không bám víu vào cái gì cả - chỉ tan biến đi giống như đám mây trên bầu trời. Để có cái chết đầy nghệ thuật như vậy, chúng ta phải đạt khá nhiều tri thức tâm linh. Chết không nghĩ gì cả có nghĩa là qua các pháp thực hành tu tập, chúng ta đã kiểm soát được những ý nghĩ tán loạn và làm chủ được những cảm xúc của mình. Chết không ước muốn gì cả là đã hiểu rằng, về căn bản mình là một toàn thể trọn vẹn và do đó không thiếu thứ gì cả. Chết không muốn hiểu gì cả, có nghĩa là chúng ta nhận thấy rằng tất cả mọi vật, kể cả những ý nghĩ, cảm giác và nhận thức của chúng ta đều vô thường, phát sinh tùy thuộc nhân duyên và biến mất cũng tùy theo nhân duyên. Chết không bám víu vào cái gì cả, có nghĩa là đã hiểu rằng không có gì là thực sự của mình, dù là thể xác, tâm trí, hay chính sự sống, và vì vậy sự chết là một sự buông bỏ cái mà chúng ta đã không bao giờ thực sự sở hữu. Khi sắp chết, triết gia huyền học Plotinus (205-270 trước Tây lịch) nói một cách bí ẩn về “cái đó”:
“Tôi cố gắng lần cuối cùng để đưa trở về
Cái đó vốn thiêng liêng trong tôi
Với cái đó vốn thiêng liêng trong vũ trụ”.
Hai Lối Chết
Tôi xin kể về hai người mà tôi quen biết đã chết theo hai lối hoàn toàn khác nhau. Bạn có thể tự rút ra kết luận và đánh giá hai lối chết.
Peter (không phải tên thật) là một người gần bốn mươi tuổi với một người vợ đẹp và hai đứa con nhỏ. Anh ta có một đời sống hoạt động, đã đi nhiều nơi, chơi nhiều môn thể thao, và có bạn bè thuộc mọi ngành nghề. Rồi bất ngờ anh ngả bệnh, ung thư xương, đặc biệt tệ hại. Anh được chữa trị bằng phương pháp hóa trị. Lúc đầu anh đáp ứng tốt, nhưng rồi anh lại suy sụp vì vi trùng ung thư ăn sâu vào xương của anh. Anh chỉ nằm ở trên giường, xuống cân nhanh chóng và ăn uống không còn thấy ngon miệng nữa. Vào lúc này người ta dùng một loại thuốc thí nghiệm mới cho anh. Bác sĩ của Peter nói nếu nó hiệu nghiệm và bệnh thuyên giảm, anh có thể cộng thêm sáu tháng hay hơn nữa vào cuộc đời của mình. Lúc đầu loại thuốc mới này có vẻ tốt, vì Peter có thể tập ra khỏi giường đi tới phòng vệ sinh. Nhưng không bao lâu sau đó, sự đau đớn lại xuất hiện và nghiêm trọng tới mức anh phải dùng những loại thuốc giảm đau mỗi lúc mỗi mạnh hơn.
Peter quyết định đánh lại căn bệnh của mình với cả hai nắm đấm. Anh không chấp nhận lời phán quyết căn bệnh sẽ làm cho anh chết sớm. Anh đã có nhiều thứ để sống: Hai đứa con nhỏ mà anh yêu thương và chúng cũng cần anh nhiều như anh cần chúng. Nhưng loại thuốc mới không làm giảm sự đau đớn mà cũng không làm cho anh khỏe hơn, và một số chuyên gia về ung thư đã được tham khảo ý kiến. Họ đề nghị một loại thuốc thí nghiệm khác. Khi loại thuốc này không mang lại sự giảm bệnh lâu dài, Peter rơi vào sự trầm cảm sâu. Anh thường than thở: "Tôi có làm gì độc ác đâu để phải chịu sự đau khổ kinh khủng như vậy" (Have I led such an evil life that I deserve this terible pain and suffering?). Nhưng Peter vẫn tranh đấu. Anh được dùng thêm thuốc, và với mỗi phương thuốc mới, hy vọng của anh lại vươn cao. Nhưng vợ và các bạn của anh thương cảm vì sự đau khổ đó đã an ủi và khuyên nhủ anh "Hãy buông xuống! Không sao đâu! Tại sao phải kéo dài sự đau khổ của mình?". Hình như họ hiểu điều mà Peter không hiểu, đó là "phải biết chết với ít bối rối cho người khác nhất và ít đau khổ cho mình nhất, và những phương thuốc đó chỉ là kéo dài thêm vài tháng đau khổ".
Nhưng Peter không chịu thua. Anh nói: "Nếu có thể có thêm sáu tháng bằng những thứ thuốc này tôi sẽ có thêm sáu tháng nữa với các con của tôi". Vì vậy anh chiến đấu với căn bệnh dù nó đã thực sự giết anh. Tình trạng của anh mỗi lúc mỗi tệ hại hơn. Một giáo sĩ được thỉnh đến làm nghi thức cuối cùng cho anh. Thật kỳ diệu, anh lại gắng sức đưa mình ra khỏi nắm tay của sự thần chết trước sự ngạc nhiên của mọi người.
Trong lúc này, theo lời kể của vợ anh khi tôi tới thăm Peter, tôi đã nói với anh về điều gì có thể xảy ra với anh trong trạng thái Trung Ấm Thân sau khi chết, và nói cho anh biết về mấy câu thần chú đơn giản, để dùng về sau. Vì Peter vẫn tỉnh táo, tôi niệm chậm chậm mấy câu thần chú cho anh và anh niệm theo tôi. Nhưng tôi cảm thấy anh không thành tâm với việc này, không phải vì anh không tin sự sống là liên tục - anh đã đọc nhiều sách về điều này, mà vì anh không muốn chết. Một tuần sau anh chết trong vòng tay của vợ mình, với nhiều thuốc an thần và một nửa ý thức. Anh đã phải chịu đựng căn bệnh này trong tám tháng.
Peter đã được đạt được điều gì khi anh chiến đấu dữ dội với căn bệnh của mình. Có thể anh đã kéo dài cuộc đời của mình được thêm vài tháng. Nếu vậy anh đã phải trả giá cao cho điều này. Anh đã thiếu sức khỏe và chịu nhiều đau đớn tới mức không thể tiếp xúc với các con của mình khi chúng đến thăm. Thêm nữa, sự đau đớn và sự chiến đấu chống lại căn bệnh làm cho vợ và cha mẹ của anh mệt mỏi và chán nản. Cái giá cao như vậy có xứng đáng hay không? Các bác sĩ có nên làm cho Peter hy vọng là mình sẽ sống thêm vài tháng với mỗi loại thuốc mới hay không? Bác sĩ Robert J. Temple nói: “Nhiều phương pháp trị liệu mới có hiệu ứng phụ nghiêm trọng, có một số thuốc còn làm cho bệnh nhân chết mau hơn” (Many new therapies have severe side effects, some even shorten life). Khi không có phương thuốc nào cho thấy là “thần dược” mà Peter đã hy vọng, anh suy sụp và đau khổ hơn nữa. Có lẽ điều tệ hại nhất là vì hy vọng kéo dài sự sống và không phải chết, anh đã không sửa soạn nhiều về mặt tâm lý. Khi tới lúc thoát khỏi “thung lũng nước mắt” của mình và gia đình, anh đã không thể làm như vậy với với một tâm thức lành mạnh.
Bây giờ tôi xin kể về một lối chết khác.
Grace (không phải tên thật) là một người đàn bà ở tuổi trung tuần với các con đã lớn. Bà được chẩn bệnh và được biết là mình có một khối u cần phải được giải phẫu. Trong bệnh viện, bà nhận thấy các bệnh nhân rất sợ chết. Bà nghĩ “Mình phải làm sao để giúp những người sợ chết này, mình đã đối diện với cái chết trong một tai nạn xe hơi và từ đó mình không sợ chết nữa. Mình biết rằng giúp người khác là tự giúp mình”.
Khối u của bà đã được cắt bỏ, nhưng nó lại mọc trở lại. Tám tháng sau bà đã phải giải phẫu một lần nữa. Sau đó ít lâu, tôi được biết về bà qua một cuốn băng video trong đó bà được phỏng vấn tại nhà của mình bởi vị giám đốc của Trung Tâm Đời Sống Về Thái Độ Điều Trị (The Life Center for Attitudinal Healing) ở Santa Fe, New Mexico, và bà là một thành viên của Trung Tâm. Được hỏi là có đau đớn gì không, bà nói rằng khi có sự đau đớn, và chỉ thỉnh thoảng dùng thuốc giảm đau; bà nhận thấy rằng thực hành Hatha yoga (pháp môn về Thiền, những tư thế và quán hơi thở) làm cho tâm trí an tĩnh và làm cho bà không cần dùng nhiều thuốc giảm đau.
Được biết là căn bệnh ung thư đặc biệt của mình chống lại xạ trị và hóa trị, bà chọn những phương pháp trị liệu khác, một trong số đó là ăn kiêng, một phương pháp khác là châm cứu mà bà nói rằng: “Giúp chống lại hay làm giảm đau đớn và nâng cao mức năng lượng”. Dù được châm cứu, bà vẫn cảm nhận rất thật sự đau đớn và bà nói trong bài vè sau đây:
“Một người nói rằng
Dù sự đau đớn là không có thật
Như khi tôi ngồi lên cái kim và nó đâm vào da thịt,
Tôi không thích cái mình cảm thấy".
Để đối phó với căn bệnh ung thư và sự đau đớn, Grace cũng dùng Thiền quán. Những pháp quán tưởng được mô tả chi tiết trong loạt băng ghi hình của Trung Tâm Tư Vấn và Nghiên Cứu Ung Thư (Cancer Counseling and Research Center) của bác sĩ O. Carl Simonton ở Texas. Khi làm pháp Thiền quán này, bệnh nhân quán tưởng hệ miễn nhiễm rồi tưởng tượng những tế bào bạch cầu đi tìm khắp cơ thể và tấn công những tế bào ung thư. Bà cũng dùng một phương pháp được đề nghị trong loạt băng ghi hình, đó là quán tưởng những con chó trắng ăn những tế bào ung thư. Có khi bà làm phương pháp thứ nhất, có khi bà làm phương pháp thứ hai. Bà cảm thấy rằng với những pháp này, khối u có phần giảm bớt. Và bằng cách dùng sự tưởng tượng, thí dụ như tưởng tượng một cảm giác nóng cháy là “ngứa ngứa” của một cơn mưa rào trong một ngày nóng, là có thể làm cho mình quên cơn đau.
Nhưng vào lúc này mẹ của bà qua đời, và Grace bắt đầu suy sụp, bà giải thích rằng đó không phải chỉ vì cái chết của mẹ bà mà còn là vì bà biết rằng mình đang có một căn bệnh chết người, “khi được biết mình có một căn bệnh nguy hiểm, người ta thường chấn động và nổi giận. Có những người nổi giận nhiều hơn người khác và hỏi: Tại sao điều này lại xảy ra với tôi?”
Bà nói rằng bà không bao giờ cảm thấy tức giận như vậy. Nhưng bà cũng nói rằng có một điều bí ẩn là tại sao có người bị bệnh nguy hiểm, có người không bị; hay tại sao trong một tai nạn có người bị chết, có người bị thương và có người không bị gì cả. Bà nói với người phỏng vấn: “Chúng ta không biết tại sao có những điều xảy ra, vì vậy tôi đã tự hỏi: Tại sao lại là mình?”. Tuy nhiên, đó là một sự thử thách để người ta tập đối phó với nghịch cảnh. Do đã làm trong ngành y khoa nhiều năm, tôi chú ý tới căn bệnh của mình cứ như nó là một trường hợp được mô tả ở trong sách".
Bà Grace cảm thấy rằng một sự tiếp xúc nồng nhiệt với mọi phương diện của đời sống giúp làm giảm nhẹ căn bệnh, vì nó làm cho người ta bớt nghĩ tới bản thân. Bà cũng nói về giá trị của âm nhạc. Trong phòng của bà ở bệnh viện, bà thường ca hát với người ở cùng phòng. Grace cũng cảm thấy rõ là với óc khôi hài và thái độ sinh động, người ta có thể làm nhiều điều để giúp làm giảm sự đau đớn của căn bệnh. Bà nói về giá trị của tiếng cười và trích dẫn cuốn “Phân tích một Căn Bệnh” (The Anatony of an Illness) của Norman Cousins, trong đo Cousins mô tả kinh nghiệm chữa một căn bệnh nặng của mình bằng cách dùng tiếng cười cùng với những phương pháp khác.
Theo Cousins thì tiếng cười thực sự làm thay đổi tính chất hóa học của cơ thể. Bà kể khi các con tới thăm bà ở bệnh viện: “Chúng tôi cười ầm ĩ về mọi chuyện. Người ta tiếp tục là chính mình dù có cái gì đang xảy ra trong thể xác. Căn bệnh có thể xuất hiện ở bên trong mình, nhưng đó không phải là mình. Người ta không thể đi đây đó nhưng vẫn có thể có nhiều thú vui”.
Bà nói tiếp: “Mạnh khỏe không có nghĩa là thực sự an toàn, vì có thể bất ngờ bị bệnh. Những người bị bệnh nặng chúng tôi không khác người mạnh khỏe ở chỗ an toàn của chúng tôi là ở trong đời sống tâm linh. Chúng ta cần phải xem việc đối phó với những nghịch cảnh là cách để mình học và tiến hóa, và tìm cách xoay chuyển chúng để vượt qua chúng hay lớn mạnh từ chúng”.
Khi được hỏi bà và những người khác trong nhóm hỗ trợ của bà ở Trung Tâm Đời Sống có bao giờ nói về sự chết hay không, bà trả lời: “Có, chúng tôi nói rất nhiều về sự chết, và có những người rất sợ chết. Tất nhiên, khi bị bệnh ung thư thì luôn luôn có điều suy nghĩ về sự chết và người ta phải đối diện nó. Và vì vậy tôi tự hỏi: “Sửa soạn cho sự chết có ích lợi gì? Và tôi đi tới kết luận là việc đó cũng ích lợi như sửa soạn cho đời sống” (What is good preparation for death? And I came to the conclusion that it was good preparation for life). Nhiều người có vẻ cảm thấy sự chết là sự chấm dứt hoàn toàn của mình, sự chấm dứt của mọi điều. Họ nghĩ đó là một hố sâu đen tối, trống không. Nhưng nhiều người chúng tôi tin thuyết luân hồi. Tôi nghĩ rằng chết là đi qua một khung cửa nữa. Tôi tin chắc như vậy. Trước đây khi đối diện sự chết, tôi có một sự biết trước điều mình sẽ trải qua và đó là một cái gì tuyệt vời. Tôi có cảm giác “Nó đây, nó đây và nó sẽ tuyệt vời”.
Bà Grace đã qua đời vào mùa Hè năm 1984.
Hai hay ba tuần trước bà chỉ dùng thực phẩm lỏng. Buổi tối trước khi chết, một người con gái ngồi nắm tay bà. Cô kể lại rằng mẹ của cô nằm đó một cách an tĩnh và nói: “Mẹ sẵn sàng đi vô một căn phòng tối và đóng cửa lại” (You know, I am ready to go into a dark room and close the door).
Mấy người con gái cũng nói chuyện vui vẻ với bà, và sau đó bà nói: “Mẹ sẽ ngủ một chút”. Bà ngủ và không bao giờ thức dậy nữa. Sáng hôm sau, vào khoảng tám giờ, một người con gái của bà ngồi đan áo ở bên giường nghe thấy tiếng rung động của sự chết.
Thái độ của bà Grace đối với căn bệnh nguy hiểm của mình thật đáng khâm phục. Nhiều người chỉ với niềm tin vào sự sống sau khi chết thấy niềm tin này là sự hướng dẫn rất tốt cho họ đi qua thời kỳ khó khăn trước khi chết. Tuy nhiên, khi không biết về tính chất và ý nghĩa của nghiệp báo, người ta có thể thắc mắc một cách đau đớn và đây là trường hợp của bà Grace. Nếu bà hiểu sự liên quan của nghiệp báo với bệnh tật, bà đã không thắc mắc hỏi, “Tại sao lại là mình?” Khi biết mình bị ung thư.
5. VẤN ĐỀ ĐAU KHỔ
"Ồ, nó là thật. Nó là điều có thật độc nhất.
Đau khổ. Vậy chúng ta hãy gọi tên sự thật này, như những con người.
Chúng ta sinh ra vui sướng để vui sướng có thể trở thành đau khổ.
Chúng ta sinh ra hy vọng để hy vọng có thể trở thành đau khổ.
Chúng ta sinh ra yêu thương để yêu thương có thể trở thành đau khổ.
Chúng ta sinh ra đau khổ để đau khổ có thể trở thành đau khổ hơn.
Và từ sự biến đổi không ngừng đó,
Chúng ta có thể làm cho người khác đau khổ như sự định nghĩa chính yếu của mình".
Lời thơ của Robert Penn Warren
Không có cuộc thảo luận về sự chết nào trọn vẹn mà không nói về vấn đề đau khổ. Chúng ta sẽ xét hai sự hiển lộ của đau khổ: Thứ nhất là sự đau khổ vốn có trong đời sống, tức là trong sinh, lão, bệnh, tử và những sự cố khác; thứ hai là sự đau đớn do bị thương, bị bệnh nặng hay một căn bệnh nguy hiểm tới mạng sống, ví dụ như ung thư. Trong cuộc thảo luận này, chúng ta sẽ xét đau đớn và đau khổ không như một sự kiện trừu tượng mà như vị thầy của đời sống. Như vậy chúng ta sẽ thảo luận cách thức chúng ta có thể học từ đau khổ cũng như cách thức chúng ta có thể chấm dứt nó, hay ít nhất cũng giảm thiểu nó.
Ở đây, tôi dùng hai từ ngữ “đau đớn” (pain) và “đau khổ” (suffering), có thể hoán đổi với nhau dù nói cho đúng thì chúng không hoàn toàn giống nhau; đau khổ là thành phần tâm lý của sự đau đớn mà người ta phải chịu. Từ ngữ mà Đức Phật dùng cho “đau khổ” là “Dukkha”, một chữ sâu xa và phức tạp hơn là từ ngữ “đau khổ” mà ta thường nghe. Chúng ta cảm thấy ý nghĩa sâu xa của từ "Dukkha" khi hiểu rằng từ ngữ này đã được dùng để mô tả một cái bánh xe không quay trơn tru quanh trục của nó, hay một cái xương bị trật khớp. Vì đời sống trật khớp nên có sự cọ sát và đau đớn. Vậy "Dukkha" hàm ý đau đớn, đau buồn, phiền não, khốn cùng, hay thất vọng. Nó cũng hàm ý sự phù du, không thường tồn, và sự không trọn vẹn hay hoàn hảo.
Đau Khổ Của Đời Sống
Tứ Diệu Đế
Đức Phật đã phân tích những sự “trật khớp” của đời sống gây ra đau khổ và giống như một y sĩ giỏi, Ngài thực sự được gọi là Đại Y Sĩ (Great Physician), Ngài kê toa cho thuốc chữa bệnh đau khổ. Ngài gọi sự chẩn trị này là Tứ Diệu Đế hay bốn chân lý thâm diệu. Vậy giáo lý của Ngài không phải là sự quan sát sơ sài những sự kiện. Ngài phân tích nguyên nhân của sự khổ và chỉ dẫn cách giải trừ đau khổ.
Diệu đế thứ nhất “Đời là khổ”, cho thấy sự phổ quát của đau khổ và đau khổ là một thành phần của đời sống, vì sinh, lão, bệnh và tử là khổ, phải sống với người mình không thích là khổ, phải xa lìa người mình thích là khổ, không có cái mình muốn là khổ, những sự mất mát là khổ, tóm lại có thân năm uẩn để chấp thủ là khổ.
Có thể nói thêm là trẻ con cũng phải chịu nhiều đau khổ, người lớn thì phiền não hay lo nghĩ suốt đời cho tới khi già yếu với sự sợ chết. Lúc nào loài người cũng phải chịu những nổi khổ vì đói lạnh, bệnh tật, thiên tai, tai nạn và chiến tranh. Vì vậy mà cuộc đời được gọi là “biển khổ” (a bitter sea of suffering).
Có nhiều người xem giáo lý của Đức Phật là bi quan và chối bỏ đời sống, nhưng kỳ thực không phải như vậy. Huston Smith viết “Cuộc đời của Đức Phật cho thấy, người ta có thể sống một đời sống tốt và đó là bằng chứng về sự lạc quan của Ngài trước tình trạng không hoàn hảo của thế gian, một tình trạng đau khổ ở bên bờ của sự hỗn loạn hoàn toàn”.
Đức Phật nhận xét có những niềm vui lớn trong đời sống gia đình, trong những lạc thú của các giác quan, trong sự lành mạnh của tâm trí, và trong nhiều kinh nghiệm của đời sống khác. Có một đoạn trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada) nói về hạnh phúc như sau: “Chúng ta hãy sống hạnh phúc, chúng ta những người chứng ngộ tánh Không (hay không sở hữu gì cả). Chúng ta hãy trụ trong pháp lạc giống như những vị thần chói sáng. Sức khỏe là tặng phẩm lớn nhất, an lạc là của cải lớn nhất, sự tin tưởng là mối quan hệ tốt nhất. Niết Bàn là phúc lạc vô thượng”.
200. “Vui thay chúng ta sống,
Không gì, gọi của ta.
Ta sẽ hưởng hỷ lạc,
Như Chư Thiên Quang Âm.”
204 “Không bệnh, lợi tối thượng,
Biết đủ, tiền tối thượng,
Thành tín đối với nhau,
Là bà con tối thượng.
Niết Bàn, lạc tối thượng.”
(Bản dịch của HT Minh Châu).
Nhưng khi chúng ta cảm thấy hạnh phúc và đồng thời biết rằng hạnh phúc không kéo dài mãi mãi, ở ngay trong lúc hạnh phúc đã có mầm móng của khổ đau rồi, đó là tính chất phù du của hạnh phúc chỉ nhấn mạnh đến tính chất phổ quát của khổ đau.
Diệu đế thứ hai, “Nguồn gốc của sự khổ”, là như sau: Sự tham muốn gây ra luân hồi. Nó tìm hoan lạc đây đó, muốn sinh và muốn diệt.
Từ ngữ mà Đức Phật dùng để mô tả nguồn gốc của đau khổ là “tanha”, tức tham muốn. Nhưng có những ý muốn đưa tới đau khổ mà cũng có những ý muốn làm cho đời sống phong phú hơn. Ví dụ, ý muốn phát triển bản thân về thể xác, tâm trí và đạo đức là có giá trị. Ý muốn giúp đỡ người khác một cách vô vị kỷ cũng rất đáng khen. Và giá trị nhất là ý muốn đạt đến giải thoát và giác ngộ.
Ý tưởng về tự ngã hay cái “ta” cũng sinh ra những tham muốn, và tham muốn lại củng cố tự ngã. Học giả John Blofeld viết:
“Có thể nói rằng nguyên nhân của mọi đau khổ và luân hồi là tham muốn hay ái dục. Giống như nhiều từ ngữ Phật Giáo khác, ái dục mang ý nghĩa của chính nó cũng như từ ngữ đối nghịch, sân hận. Do vô minh, chúng ta tham muốn và bám víu vào sự vật, đồng thời giận và ghét những sự vật khác, và vì vậy chúng ta trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi bất tận. Ái dục và sân hận làm cho chúng ta nghĩ với tâm nhị nguyên về mình và về người khác, có và không, tốt và xấu, đáng thương và đáng ghét, và những cặp đối nghịch khác. Chúng ta không biết rằng vũ trụ vạn vật là do chính tâm trí của mình tạo ra - hiện hữu trong cái Tâm vốn là một với tâm của mỗi chúng ta. Nhưng nếu chúng ta sẵn lòng chấp nhận điều này, nếu chúng ta thực hành tu tập giải trừ ái dục, sân hận và những ý tưởng nhị nguyên phân biệt khác, nếu chúng ta rút khỏi cõi sắc tướng vào một chỗ trong tâm và buông bỏ tự ngã, thì khi đó những vật tâm tạo sẽ dần dần mất sức mạnh gây phiền não cho chúng ta. Tâm trí của chúng ta sẽ giống như một tấm gương phản chiếu mọi chi tiết của những gì xuất hiện ở trước nó, mà vẫn không chịu một ảnh hưởng nào của những sự vật đó, dù đẹp hay xấu.”
Vậy gốc rễ của đau khổ là ảo tưởng về tự ngã, phân biệt mình với tất cả những gì khác. Những ý tưởng này đưa tới tham muốn những vật để thỏa mãn sự đòi hỏi của cái “ta”, và đưa tới sự bám giữ vào những vật đó vốn được xem là có thật và thường tồn mà thật ra chúng luôn biến đổi và hư hoại. Đời sống vô minh như vậy giống như cái nhà xây trên cát, nó sẽ sụp đổ.
Diệu đế thứ ba, “Sự Diệt Khổ”, tức là sự giải trừ trọn vẹn ái dục, cũng như tâm vị kỷ. Việc này được thực hiện qua pháp tu Bát Chánh Đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.
Sự Diệt Khổ
Phật Pháp là pháp trị liệu hay pháp tu cho chính đời sống này. Lối sống có ý thức này được gọi là là đạo pháp. Đây là một phương pháp mạnh mẽ do Đức Phật đề ra để người thực hành có thể thoát khỏi ba điều độc hại tham dục, sân hận và si mê. Khi được thực hành một cách kiên nhẫn, Bát Chánh Đạo sẽ tái tạo con người, đưa tới giác ngộ và giải thoát. Đức Phật nói “Lành thay cho những ai tìm được và thực hành con đường thánh đạo giải thoát này”.
Tu tập không chỉ có nghĩa là ngồi Thiền, mà còn nhiều điều khác, trong đó có sự hòa nhập trọn vẹn vào bất cứ việc gì mình đang làm, như tham thiền, đi, đứng, nằm, ngồi hay lái xe. Hành giả có sự chánh niệm, tức là có ý thức, và sự bình tĩnh trong mọi trạng thái. Vậy, tu theo nghĩa rộng nhất là có sự cảnh giác vào mọi lúc và gây dựng trạng thái tâm không có sự phê phán, phân biệt, tiên tiến và những cảm xúc độc hại tham, sân, si, ganh tị, và kiêu ngạo. Trong khi có nhiều điều để làm, nhiều nơi để đi, nhiều nhu cầu để thỏa mãn, làm sao chúng ta có thể hòa nhập tâm trí trong mỗi khoảnh khắc? Thoreau khuyên chúng ta “Hãy đơn giản hóa” (Simplify).
Tính chất của đời sống là biến đổi
Tham muốn hay bám giữ vào người và vật khác sẽ đưa tới đau khổ. Vì sự vô thường là quy luật của đời sống, nên chúng ta sẽ phải phân ly với những gì mình đang bám giữ, và sự phân ly này gây đau đớn.
Lama Anagarika Govinda (người Đức) đã nói về tính chất và hậu quả của sự bám giữ như sau: “Tính chất của đời sống là biến đổi, còn tính chất của sự chấp thủ là giữ lại, củng cố, ngăn cản sự biến đổi. Vì vậy, đối với chúng ta sự biến đổi là đau khổ. Nếu chúng ta không nhìn những vật đối tượng hay những trạng thái hiện hữu từ quan điểm chiếm hữu hay hưởng thụ một cách vị kỷ, chúng ta sẽ không bị phiền não một chút nào khi chúng biến đổi hay không còn nữa; ngược lại chúng ta vui hưởng sự biến đổi trong nhiều trường hợp, hoặc khi những trạng thái hay những đối tượng không đáng ưa không còn nữa hoặc giả sự biến đổi cung cấp cho chúng ta những kinh nghiệm mới hay để lộ ra cho chúng ta một tri kiến sâu xa về tính chất của sự vật, và những khả năng giải thoát lớn hơn. Vì vậy, ‘thế gian’ hay sự biến đổi của nó không phải là nguyên nhân của đau khổ, mà đó là thái độ của chúng ta đối với thế gian, sự bám giữ của chúng ta vào nó, sự tham muốn, sự vô minh của chúng ta”.
Ý nghĩa của Bát Chánh Đạo
Ý nghĩa của Bát Chánh Đạo là để giải trừ đau khổ và đạt được an lạc ngay trong đời sống phải có một sự giác ngộ. Điều kiện của giác ngộ là một đời sống đạo đức, hành thiền, và xả ly. Một điều cần phải có thêm là chứng ngộ tánh Không của vạn vật. Người ta không thể tiến trên con đường dẫn đến giác ngộ, trừ khi tâm trí thoát khỏi những phiền não do hành vi vô ý thức hay vô minh gây ra, vì vậy một lối sống dựa trên hành vi đạo đức là nền móng của sự chứng ngộ tâm linh.
Những mức độ giác ngộ
Có những mức độ giác ngộ khác nhau. Người ta có thể cảm nhận một cách mơ hồ hoặc có thể trông thấy rất rõ. Khi thực sự cảm nhận rằng Chơn Tánh của vạn vật (Essential-nature of the phenometal world) là không có một chất liệu thường tồn nào cả, chúng ta sẽ không bám giữ vào những sự vật nào nữa, vì chúng chỉ là những ảo ảnh. Và sự chết cũng được nhìn thấy là một ảo ảnh, không thật có.
Sự giác ngộ của Đức Phật sâu xa đến mức người ta hỏi Ngài: “Ngài là ai?”. Hàm ý “Ngài thuộc cấp nào?”.
Họ hỏi: “Ngài có phải là một vị Thần không?”
- “Không.”
- “Một Thiên thần?”
- “Không.”
- “Một vị Thánh?”
- “Không.”
- “Vậy Ngài là gì?”
- “Ta giác ngộ.”
Thật vậy, đó là ý nghĩa của “Buddha”, có nguồn gốc từ cổ ngữ Ấn Độ Sanskrit, “budh”, nghĩa là “thức dậy”, “biết”.
Ví dụ sau đây nói lên tới một mức nào đó của trạng thái tâm mà sự giác ngộ sản sinh. Một người mù từ khi mới sinh ra dần dần phục hồi thị giác của mình. Lúc đầu người đó chỉ có thể trông thấy rất mờ và tối, và cũng chỉ có thể trông thấy những vật ở gần. Khi thị giác trở nên tốt hơn, người đó có thể thấy rõ những vật ở cách vài thước, rồi mười thước, rồi một trăm thước, rồi cả một ngàn thước. Ở mỗi mức độ này, thế giới hiện tượng mà người đó trông thấy vẫn là một, nhưng sự khác nhau ở độ rõ và chính xác những sự quan sát thì lớn như sự khác nhau giữa con kiến và con voi. Thế giới không thay đổi, chỉ có nhãn quan của người đó về thế giới thay đổi.
Với sự giác ngộ, chúng ta hiểu ra rằng từ trước tới giờ mình đã nhìn thế gian cứ như là qua một cái kính đen. Bây giờ, lần đầu tiên, chúng ta nhìn sự vật theo tính chất thật của chúng, và chúng ta thấy thế gian đầy vẻ đẹp và những điều kỳ diệu mà mình đã chưa bao giờ tưởng tượng. Tất nhiên, phẩm chất của sự trông thấy đó tùy thuộc vào việc mình giác ngộ cạn hay sâu. Nhưng sự ngạc nhiên thích thú là bằng chứng của sự giác ngộ dù chỉ sơ khởi.
Nhưng giác ngộ trọn vẹn không có nghĩa là chúng ta sẽ không bao giờ cảm thấy đau khổ. Ngay cả Đức Phật cũng cảm thấy đau buồn, và cảm thấy một cách sâu xa, nhưng Ngài không chấp thủ những cảm xúc này.
Người không giác ngộ hay vô minh, đi qua cuộc đời một cách mê muội. Không thỏa mãn với thân phận của mình, họ không hạnh phúc trong phần lớn thời gian. Những ý nghĩ xao động trong tâm trí của họ suốt ngày. Vì vậy họ nhìn mà không thực sự trông thấy, lắng nghe mà không thực sự nghe thấy. Họ chỉ nghe thấy những ý nghĩ xao động của mình chứ không thấy những nhịp điệu của sự sống.
Đau Đớn Của Thể Xác
Chúng ta đã thảo luận về sự đau khổ hiện sinh, tức sự đau khổ của đời sống. Sự đau khổ của thể xác thì sao? Sự đau khổ trong một căn bệnh như ung thư xương là gì? hay bị thương nặng trong một tai nạn xe hơi?
Bác sĩ Cicely Saunders, Giám đốc Bệnh viện St. Christopher gần London, có ý tưởng về sự đau khổ toàn diện như sau: Sự đau khổ phát sinh không chỉ từ một sự kích thích ở thể xác mà qua một sự tương tác phức tạp của nhiều nhân tố. Sự đau khổ toàn diện gồm có bốn loại là nguồn gốc thân xác, trầm uất, sân hận và lo sợ.
Nguồn gốc thân xác là những nhân tố: Triệu chứng sức khỏe suy giảm, căn bệnh không phải ung bứu và ung thư.
Sự trầm uất là những nhân tố: Mất địa vị xã hội, mất quyền lợi và thu nhập của việc làm, mất vai trò trong gia đình, mệt mỏi và mất ngủ, cảm giác bất lực và cảm thấy mình xấu đi.
Sân hận là những nhân tố: Thủ tục rắc rối, bạn bè không đến thăm, chẩn bệnh chậm trễ, thiếu bác sĩ, khó chịu và trị liệu thất bại.
Lo sợ là những nhân tố: Sợ bệnh viện hay nhà điều dưỡng, sợ đau, lo nghĩ về gia đình, tài chánh gia đình, sợ chết, mất sự uy nghi và sự kiểm soát cơ thể, tinh thần bất an và tương lai bất định.
Khi được đề nghị mô tả sự đau đớn của mình, đa số người không biết sao. Đau là một cảm giác cơ thể bị nhuộm nhiều màu bởi những trạng thái cảm xúc, điều kiện tinh thần, quy định của văn hóa, sợ căn bệnh gây đau đớn, sợ chết vì căn bệnh, và nhận thức về tình trạng của mình liên quan tới nguyên nhân của sự đau.
Biểu đồ 3: Đau Khổ |
Ý thức về tự ngã như một người phân cách với những người khác càng chặt chẽ thì người ta càng cảm thấy đau khổ trong thể xác cũng như đau khổ trong đời sống. Theo nghĩa này thì không có ranh giới giữa hai sự đau đớn đó.
Đau cấp tính và đau mãn tính
Đau cấp tính có lợi điểm là hữu hạn chứ không vô hạn, tức là người ta biết rằng dù có thể kinh khủng, nó sẽ không tiếp tục mãi mãi. Đau mãn tính thì có thể tiếp tục, có khi tới cuối đời. Nhiều người bị đau mãn tính thực sự muốn đời mình chấm dứt sớm. Theo Bác Sĩ Robert Twycross, một chuyên gia về đau, người Anh, thì đau mãn tính thường do bác sĩ không hiểu trọn vẹn nguồn gốc của sự đau đớn của bệnh nhân, vì sự đau đớn thể xác có thể phát sinh nhiều hơn là khối u, vết rạch, vết thương, hay căn bệnh của bệnh nhân. Sự ê ẩm vì nằm ở giường, táo bón, lo sợ, kiệt sức, thay đổi thế nằm hay thay đổi trong việc dùng tay và chân trong phản ứng với sự đau, và nhiều thứ khác sẽ gây ra đau đớn. Bạn bè, thân nhân, các bác sĩ và y tá tương tác với bệnh nhân có thể với thái độ và sự đáp ứng của họ dành cho riêng bệnh nhân sẽ giúp làm giảm sự đau đớn. Sir David Smithers, Giám đốc ban xạ trị của một bệnh viện ở Anh Quốc, đặt ra một quy tắc là y sĩ của bệnh viện nên đến thăm những bệnh nhân bị bệnh thời kỳ cuối mỗi ngày. Một bác sĩ dù tài giỏi đến đâu về dược lý lâm sàng (clinical pharmacology), nếu không có thời giờ để trò chuyện, sẽ không biết gì về việc chăm sóc thời kỳ cuối. Ở đây, trò chuyện có nghĩa là “bệnh nhân trò chuyện” trong khi bác sĩ lắng nghe. Dù cần có cả thời gian lẫn cảm xúc, lợi ích của việc này là đáng kể.
Kiểm soát sự đau đớn
Giá trị của kiểm soát sự đau đớn trong việc nâng cao ý thức của người bệnh hấp hối và làm cho người đó dễ chịu được nhấn mạnh trong một cuốn băng ghi âm được thực hiện với sự bảo trợ của Bệnh viện St. Christopher:
“Mấy tuần cuối cùng trước khi chết có rất nhiều điều cần được nói tới, những sự thu xếp cụ thể cần phải được làm. Nếu trong thời kỳ này bệnh nhân bị xao lãng bởi sự đau đớn mãn tính, bị mê man bởi thuốc an thần nặng, hay không dễ chịu vì miệng khô, ê ẩm vì giường nằm hay táo bón thì một cơ hội quan trọng sẽ bị bỏ lỡ. Bác sĩ chăm sóc cho bệnh nhân hấp hối sẽ không tìm cách chữa hay không còn tìm phương tiện giữ cho căn bệnh ở trong sự kiểm soát. Tài năng của bác sĩ được hướng tới việc kiểm soát một loạt những triệu chứng biến đổi. Nhưng nếu bác sĩ có thể nâng mức ý thức của bệnh nhân lên trên sự bận tâm trị liệu của họ với thể xác của mình thì việc này sẽ làm cho họ có cơ hội chấm dứt sự sống của mình trong sự dễ chịu, hòa hợp với chính mình và gia đình của mình.”
Có nhiều cách kiểm soát sự đau đớn làm cho bệnh nhân giữ được sự tỉnh táo. Cuốn sách này không thể xét kỹ hơn về những cách này, nhưng ngoài những phương thuốc được đề ra một cách thận trọng, chúng bao gồm thôi miên, những kỹ thuật sửa đổi hành vi, châm cứu, những kỹ thuật thư giản, tư vấn tâm bệnh học và thiền quán. Sự đau đớn của mỗi người có tính chất cá nhân, tùy thuộc vào kinh nghiệm đời sống và những kỳ vọng của người đó cũng như tùy thuộc vào tất cả những nhân tố khác đã nói ở phần trên, và như vậy không có phương cách phổ quát nào có thể được đề ra để chấm dứt hay giảm nhẹ sự đau đớn đó.
Tuy nhiên, có thể nói rằng việc giải trừ sự đau khổ của đời sống cũng sẽ giải trừ đáng kể sự đau đớn thể xác. Và sự đau đớn thể xác có thể có ích lợi lớn là thúc đẩy con người thôi tự mãn để đi tìm Chân Lý.
Thái độ đối với sự đau đớn
Sự đau đớn có thể là vị Thầy lớn nhất cuộc đời mình. Có những loại đau đớn mạnh tới mức ý thức phân biệt, ý tưởng mình là ai, sự chấp thủ vào mọi sự vật, đều biến vào lửa nguyên thủy của sự đau đớn, không có gì khác hiện hữu. Trong khoảnh khắc vĩnh cửu đó, có một cái gì không thể cảm nhận được xảy ra, và khi cơn đau giảm bớt hay tan biến, người ta sẽ không còn như trước nữa. Điều này chỉ khả hữu nếu không có sự phân cách với cơn đau, không chiến đấu, không kháng cự, không sân hận, mà chỉ kêu lên “Ôi, đau quá!”.
Nhưng nếu nghĩ “Trời ơi! Cơn đau kinh khủng này thật đáng sợ! Mình chưa bao giờ bị đau như vầy!”, thì người ta sẽ vẫn là một sự tự ngã nhỏ bé, cô lập, bị lôi cuốn bởi ý muốn mình là một cái gì khác hơn mình lúc này.
Đúng là sự hòa nhập mình vào bất cứ một điều gì, đưa tâm trí rời khỏi thể xác sẽ làm cho chúng ta bớt ý thức về cơn đau, nhưng thiền quán là phương pháp đặc biệt hiệu nghiệm cho mục đích này. Có nhiều loại thiền quán, nói một cách chặt chẽ thì thiền quán là đưa một điều gì đó vào tâm trí, ví dụ như một hình ảnh, một chữ thiêng liêng để quán tưởng hay một ý niệm để suy ngẫm. Khi đạt trạng thái định, tức là hòa nhập tới mức quên mình, hành giả sẽ không có ý thức gì về thân xác của mình, đừng nói gì tới cơn đau.
Một phương pháp hiệu quả để đạt trạng thái định là thiền quán về một vấn đề căn bản đang ám ảnh mình, ví dụ như “Mình từ đâu đến khi sinh ra? Mình sẽ đi về đâu khi chết?” (Where did I come from when I was born, and where will I go when I die?), hay “Các vị Thầy lớn của loài người thường nói rằng mỗi người chúng ta đều hoàn hảo từ khởi thủy. Vậy tại sao bây giờ mình phải chịu đau đớn và tại sao có quá nhiều đau khổ trong thế gian như thế này?”. Để giải quyết sự mâu thuẫn giữa lời dạy của các vị Thầy và những gì có vẻ trái ngược đối với chúng ta, hành giả phải vật lộn với vấn đề tâm linh này. Và tất nhiên hành giả phải tin rằng mình có thể tìm được lời giải đáp.
Người bệnh phải nằm tại giường, cũng có thể thực hành thiền quán giải trừ đau đớn, nhưng nếu có thể ngồi, thì thế ngồi thẳng lưng là cách hiệu quả nhất để tham thiền.
6. TỰ TỬ VÀ CHẾT NHẸ NHÀNG
Tự tử và “chết nhẹ nhàng”, là hai phương diện “khó khăn” của sự chết. Tự tử có vẻ đã trở nên phổ biến trong giới thiếu niên và người già. “Chết nhẹ nhàng” đã trở thành đề tài nghiên cứu nghiêm túc, khi những tiến bộ kỹ thuật cho phép người bị bệnh nặng kéo dài sự sống trong những điều kiện, mà họ khó sống một cách bình thường. Trong báo chí có rất nhiều bài nói về những người già bị bệnh thời kỳ cuối, họ đau đớn và sợ sự mất năng lực hoàn toàn phải được người khác chăm sóc, hay chán ngán với đời sống hạn chế trong một thể xác và tâm trí suy thoái nên đã quyết định “bỏ lại tất cả” (leave it all behind), có khi với sự giúp đỡ của những người khác.
Có những người tự tử để phản đối một điều bất công nào đó và những người hy sinh mạng sống của mình vì lợi ích của người khác.
Tự Tử
Tự tử được định nghĩa là “cố ý giết chính mình” (the intentional taking of one own life). Trong tự tử thường có một mức độ cao sự vị kỷ. Tự giết mình thường là sự biểu lộ của tức giận, kết quả của ý muốn làm cho người khác ân hận vì đã không làm gì để ngăn cản vụ tự tử, hoặc đã gây ra vụ tự tử. Hành động tự hủy diệt là hành vi thách thức cao nhất của người tự tử, một hành vi tượng trưng sự khinh thường xã hội, cái xã hội mà cùng lúc người đó buộc tội là đã thiếu trách nhiệm đối với mình chứ không phải mình thiếu bổn phận đối với xã hội. Người ta nhận thấy nhiều người tự tử đã có những ý tưởng trái ngược về việc chấm dứt mạng sống của mình, họ muốn nói lên một điều gì qua việc tự tử của mình hơn là tìm sự thành công trong việc tự tử.
Cũng có một loại chết được gọi là “tự tử không hẳn cố ý” (sudintentional suicede). Một thí dụ là những người liều mạng với những tình trạng nguy hiểm như lạm dụng những chất kích thích hay có thói quen lái xe với tốc độ cao một cách liều lĩnh. Cái chết không hẳn cố ý là cái chết mà ở trong đó con người đóng vai trò một phần, kín đáo trong tiềm thức hay vô thức trong việc đẩy nhanh cái chết của mình. Việc này cũng có tính chất vị kỷ.
Tất nhiên, không phải tất cả những người tự tử đều có động lực vị kỷ. Một người như vậy là Thiền sư Yamamoto. Vào lúc viên tịch, Ngài Trụ trì một tu viện lớn, và ở tuổi chín mươi sáu, Ngài như hoàn toàn mù và điếc. Ngài nói với mọi người rằng đã tới lúc Ngài ra đi, và sẽ quy tịch vào đầu năm tới. Rồi Ngài tuyệt thực. Các đệ tử nói với Ngài rằng, đầu năm mới là thời gian bận rộn nhất của tu viện, nên nếu Ngài ra đi vào thời điểm đó thì sẽ không thuận lợi. Ngài nói “ta hiểu”. Rồi Ngài ăn uống trở lại cho tới đầu mùa Hè, Ngài lại tuyệt thực, và một hôm Ngài lặng lẽ qua đời.
Điều đáng ghi nhận là vị Thầy này chỉ tuyệt thực. Người ta có thể nói rằng Ngài đã không làm gì để kéo dài mạng sống của mình, nhưng Ngài không tự giết mình một cách hung bạo. Đúng hơn, cái chết của Ngài là một sự buông bỏ. Không có sự tự ái hay sự tủi thân, không có gia đình để lại đằng sau để than khóc, chỉ có sự nhận biết là mình không còn hữu dụng nữa và đã tới lúc ra đi.
Một bác sĩ bạn của tôi chuyên về ung thư nói với tôi: “Ở bệnh viện những bệnh nhân cao tuổi bị bệnh lâu ngày thường bảo với tôi rằng, hãy cho họ một cái gì để chấm dứt sự khốn khổ của họ. Tôi nói với họ là tôi không có cái gì cả; tất cả những gì họ cần là không ăn uống nữa. Những bệnh nhân này chỉ muốn một người nào cho họ lối thoát dễ dàng và chịu trách nhiệm về đời sống và cái chết của họ”.
Người bình thường muốn chết vì đã chịu nhiều đau khổ về tinh thần hay thể xác và không muốn chịu thêm nữa. Điều này dễ hiểu, không ai muốn chịu đau khổ một cách không cần thiết. Mặt khác, theo các chuyên gia về sự đau đớn thể xác thì trong thời đại này không ai cần phải chịu đau đớn vì một căn bệnh nào đó, vì việc chẩn bệnh và kỹ thuật kiểm soát đau đớn đã tiến bộ hơn trước.
Sự đau khổ về tinh thần và thể xác cũng có tiềm năng mang lại sự chuyển hóa tâm linh đáng kể. Thêm nữa, thái độ chịu đựng sự đau đớn của một bệnh nhân có thể có ảnh hưởng tinh thần tới những người chăm sóc bệnh nhân đó. Có nhiều chuyện về những người bệnh nặng hay bị thương nặng mà vẫn có quan điểm tích cực và thực tiễn về đời sống và không nghĩ tới việc tự tử. Magdalena Cintron, sáu mươi chín tuổi, được tiếng là người vui vẻ, tử tế và rộng rãi, dù đang bị đau liên tục vì tê liệt. Bà đã sống trong một căn phòng ở một bệnh viện ở Rockester, New York, trong bốn năm:
“Bà không thể rời phòng, dù chỉ để đi lễ nhà thờ của bệnh viện, vì bà phải dùng ống thở suốt ngày. Bà cũng gần như hoàn toàn tê liệt, chỉ có thể nhún vai một chút và nhích chân một chút. Mọi việc tắm rửa, xoay người lại và thay quần áo của bà đều do các y tá làm một cách cẩn thận để ống thở không bị sút ra. Bàn tay và bàn chân của bà được bó lại để tránh bị đụng chạm khi bà được di chuyển.
Vậy mà khi được hỏi, Magdalena Cintron nói rằng bà không bao giờ nghĩ tới việc bảo người ta tắt máy thở cho mình. Bà nói: “Không! vì như vậy tôi không thể thở được”. Và bà hơi ngạc nhiên vì câu hỏi. Bà nói thêm “Tôi đã phần nào quen dùng máy thở rồi”. Giọng của bà khàn và khó nghe vì đang đeo ống thở”.
Nếu người nào muốn tự chấm dứt mạng sống của mình vì lý do không vị kỷ, tức là không muốn mình là gánh nặng về tài chánh và cảm xúc cho gia đình cũng như bạn bè vì căn bệnh không thể chữa được của mình thì tất nhiên nghiệp quả của việc tự tử của người đó sẽ giảm thiểu.
Tự tử và niềm tin tôn giáo
Những tín ngưỡng khác nhau đã có nhiều quan điểm khác nhau về tự tử, từ khuyến khích tự tử cho tới chống lại việc tự tử một cách mạnh mẽ. Có những nền văn minh mà ở đó khi một người qua đời, vợ hay người hầu được xem là phải tự tử, chết theo chồng hay chủ của mình; như trong Ấn Độ Giáo, người vợ phải nhảy vào giàn hỏa của người chồng quá cố. Thánh Augustine của Thiên Chúa Giáo cho rằng tự tử với bất cứ lý do gì đều là tội lỗi, vì tự tử là một hành động loại trừ khả năng cải hối và là một hình thức sát nhân, và do đó vi phạm lời răn “không được giết người”, không thể biện minh bằng một ngoại lệ nào. Phái Tin Lành Chính Thống cũng nói rằng sự bác bỏ thuyết địa ngục của phái này làm cho việc buộc tội tự tử mạnh mẽ hơn và số phận tương lai của con người tự tử tối tăm hơn. Do Thái cũng ngăn cấm tự tử.
Phật Giáo cũng mạnh mẽ phản đối tự tử, lý do chính là chỉ với thân tâm con người thì người ta mới có thể đạt được giác ngộ, giải trừ vô minh vốn là nguồn gốc của đau khổ. Đức Phật nói: “Một tu sĩ bảo người ta từ bỏ cuộc đời đầy đau khổ và tội lỗi này, chết là tốt hơn, như vậy người tu sĩ đó là kẻ giết người”. Phật Giáo dạy rằng người tự tử không tránh được những sự đau khổ vốn là quả xấu của những ác nghiệp quá khứ và cũng không thể hưởng nhanh hơn những thiện nghiệp của mình.
Học giả nổi tiếng quốc tế Ananda K. Coomaraswamy viết: “Sự kiện Phật Giáo mạnh mẽ phản đối tự tử là có lý do chính đáng, đó là cần phải có một cái gì mạnh hơn một liều thuốc độc để hủy diệt ảo tưởng về cái ‘ta’ và cái ‘của ta’. Để thành tựu việc này cần phải nỗ lực không mỏi mệt của một ý chí mạnh mẽ”.
Điều quan trọng ở đây là phân biệt giáo lý của một tôn giáo với sự vi phạm giáo lý của những tín đồ hiểu lầm những giáo lý đó. Đúng là những tu sĩ Phật Giáo không hiểu biết hay phiền não đã tự giết mình. Những tín đồ của các tôn giáo lớn khác, đặc biệt là Thiên Chúa Giáo và Hồi Giáo, cũng đã hy sinh mạng sống của mình cho những gì mà họ xem là lý do tôn giáo vững chắc.
Chết Nhẹ Nhàng
“Chết nhẹ nhàng”, trong tiếng Hy Lạp là Euthanasia, có nghĩa là “Chết không đau, hạnh phúc” (painless, happy death) và còn có nghĩa là “Hành động làm chết một cách không đau cho một người đang chịu một căn bệnh, đau đớn và trong tình trạng không thể chữa trị được”. Từ ngữ này được dùng càng ngày càng nhiều như chữ đồng nghĩa với “giết ân huệ” (mercy killing). Việc này có thể là một hành động sẽ làm sự sống chấm dứt, ví dụ như tháo bỏ ống thực phẩm của một bệnh nhân hôn mê hay ống thở của một bệnh nhân không tự thở được. Việc này cũng có thể là một sự “không hành động”, tức là không hồi sinh một người bị trụy tim hay ngừng thở. Hay có thể là việc giết không đau trẻ sơ sinh không có tay chân hay bị dị dạng nặng.
Có những người tin rằng có sự khác biệt về đạo đức giữa sự chết nhẹ nhàng chủ động (tháo bỏ ống thực phẩm khỏi một người hôn mê) và chết nhẹ nhàng thụ động (ví dụ như không làm phương pháp hồi sinh một bệnh nhân thời kỳ cuối bị trụy tim). Theo tôi hiểu thì chết nhẹ nhàng thụ động đã trở nên được chấp nhận tổng quát một cách hợp pháp, tức là quyền căn bản của bệnh nhân được chọn lựa về đạo đức, trong trường hợp này là từ chối việc điều trị duy trì sự sống: “Hồi sinh tim phổi, giải phẫu, kháng sinh và cả thực phẩm và nước uống, có thể cho ngừng lại. Các bệnh viện thường cho phép những bệnh nhân trưởng thành có năng lực tâm trí từ chối việc điều trị duy trì sự sống, ví dụ như hóa trị”. Việc thực phẩm và nước có thể được bỏ cũng trở nên được chấp nhận rộng rãi, dù ở một số tiểu bang của Hoa Kỳ, việc bỏ những sự điều trị khác phải xảy ra trước, và phải có chỉ thị bằng văn bản rõ ràng về việc bỏ thực phẩm và nước.
Video tư liệu về an tử quyền, xin vào xem:
https://www.youtube.com/watch?v=hCRpuTRA7-g
Việc tháo bỏ ống thực phẩm từ một người hôn mê, đã có nhiều trường hợp chính thức trong đó những quyết định hợp pháp đã cho phép việc này. Đa số thẩm phán quyết định trong một trường hợp ở tòa án Massachusetts, tháo bỏ ống thực phẩm khỏi một người hôn mê nghĩ rằng ống thực phẩm quá “cồng kềnh”, nói rằng tiến bộ y học cần phải có sự phân biệt giữa cái chết theo ý niệm truyền thống và cái chết mà ở trong đó thể xác sống theo một lối nào đó nhưng bộ óc (hay một phần quan trọng của bộ óc) thì không.
Vậy theo nghĩa thuần túy luật pháp thì không có trường hợp nào trong những trường hợp này là sát nhân, dù nghiệp quả là một chuyện khác. Mặt khác, có những trường hợp người bệnh tuyệt vọng với sự sống của mình và vì lời yêu cầu “tháo bỏ” của họ bị từ chối bởi nhân viên bệnh viện hay một thẩm phán, họ tiếp tục sống và sau đó đã biết ơn vì mình còn sống và mạnh khỏe. Sau đây là một trường hợp như vậy:
“Nếu em bị bệnh, chỉ có máy có thể giữ cho em sống,” Jacqueline Cole, 44 tuổi, đã nói với chồng của mình là Mục Sư Harry Cole, “Em muốn anh rút phích cắm”.
Mùa Xuân vừa qua bà Cole bị xuất huyết não và rơi vào hôn mê. Chồng bà đợi bà tỉnh lại trong bốn mươi mốt ngày rồi yêu cầu Thẩm Phán John Carroll Byrnes thuộc tiểu bang Maryland ra lệnh cho các bác sĩ để cho người hôn mê này chết nhẹ nhàng. Thẩm phán Byrnes không chấp thuận và nói rằng lúc này còn quá sớm để thôi hy vọng.
Sáu ngày sau Jacqueline Cole tỉnh lại, cười và đáp lại chồng mình một nụ hôn vui vẻ. Vị Mục Sư hạnh phúc nói: “Phép lạ có thể xảy ra và thực sự đã xảy ra. Tôi nghĩ là chúng ta đã gây rắc rối thêm cho vấn đề quyền được chết của người bệnh.” (Tạp chí Time, 1986).
Tuy nhiên, chuyện này có thể cũng đưa tới “sự độc đoán của những chuyện riêng khác”. Nếu chúng ta quyết định theo những trường hợp cùng cực như vậy sẽ rất khó để phân tích những vấn đề này. Thứ nhất, không có ý kiến nào của y học về trạng thái tâm thức nào mà Jacqueline đã có trong khi “hôn mê”, vì vậy chúng ta không biết phải so sánh một cách chính xác như thế nào kinh nghiệm của bà với kinh nghiệm của những người khác. Thứ hai, chúng ta không biết mức độ của đời sống hoạt động của bà sau khi tỉnh lại. Sự thật đáng buồn là rất ít người trở lại đời sống hoạt động sau khi bị mất ý thức lâu dài.
Các tôn giáo có thái độ gì đối với cái chết nhẹ nhàng?
Một cuộc nghiên cứu cho biết Giáo Hội Thiên Chúa không đòi hỏi các tín đồ chấp nhận một sự điều trị bảo tồn sự sống nào nếu nó chỉ kéo dài thời gian hấp hối. Nhưng Giáo Hội nói việc chăm sóc “tiện nghi” phải được tiếp tục, kể cả thực phẩm và nước uống. Vậy nếu một bệnh nhân ở trong sự hôn mê thường trực, máy thở có thể được tắt nhưng việc cho ăn không được bỏ.
Do Thái Giáo cũng kết tội những hình thức làm chết nhẹ nhàng chủ động nhưng cho phép từ chối những hỗ trợ sự sống, vì những sự hỗ trợ này chỉ kéo dài thời gian hấp hối.
Giáo Hội Lutheran xem sự chết nhẹ nhàng là sát nhân hay tự tử, nhưng cho phép tín đồ: “Để cho thiên nhiên tự vận hành”. Nói cách khác, các tín đồ Lutheran có thể từ chối hồi sinh hay những sự hỗ trợ sự sống nhân tạo.
Nói một cách chặt chẽ thì đa số Giáo Hội Thiên Chúa ủng hộ việc tiếp tục mọi sự điều trị, kể cả việc dùng máy thở cho bệnh nhân hôn mê, vì cảm thấy rằng mỗi mạng sống con người, kể cả mạng sống ở ngoài biên, đều ở trong tay của Thiên Chúa.
Trong cuốn “Sự Chết Nhẹ Nhàng và Đạo Đức” (The End of Lide: Euthanasia and Morality), James Rachels thấy có sự mâu thuẫn nội tại trong thái độ nói trên: “Nếu một mình Thiên Chúa quyết định khi nào chúng ta sống và khi nào chúng ta chết thì chúng ta đóng vai Thiên Chúa cũng nhiều, khi cứu chữa bệnh nhân cũng như khi giết chết họ”.
Phật Giáo nói rằng, vì cái chết không phải là sự chấm dứt của sự sống, nên đau khổ không ngừng lại với cái chết, mà vẫn tiếp tục cho tới khi nghiệp quả của đau khổ không còn nữa, vậy tự tử hay giúp người khác tự tử để thoát đau khổ là việc làm vô nghĩa.
Bệnh Xá và Sự Chết Nhẹ Nhàng
Một phần vì thành công trong việc nuôi dưỡng sự phát triển trong giai đoạn cuối của cuộc đời, và một phần vì thành công trong việc kiểm soát những triệu chứng, các bệnh xá dành cho bệnh nhân thời kỳ cuối đã làm giảm nhiều cuộc tranh luận về sự chết nhẹ nhàng. Một bệnh nhân ở bệnh xá St. Christopher mạnh mẽ nói: “Nếu có bệnh xá ở mọi nơi, tất cả những gì người ta nói về sự chết nhẹ nhàng đều vô nghĩa. Tất nhiên là họ có ý tốt, và tôi cũng cảm thông với họ, nhưng sự thật là không cần phải giết bệnh nhân để làm cho họ được dễ chịu”. Bác sĩ Richard Lamerton, giám đốc một bệnh xá nói:
“Nếu người nào thực sự muốn chết một cách nhẹ nhàng, người đó chắc phải có bác sĩ và y tá kém năng lực. Đây không phải là vấn đề chết nhẹ nhàng là đúng hay sai, tốt hay xấu, thực tiễn hay không thể dùng được, mà chết nhẹ nhàng là một vấn đề không thích hợp. Là những bác sĩ, chúng ta có bổn phận chăm sóc bệnh nhân như thế nào để họ không bao giờ đòi chúng ta giết họ. Sự chết vẫn là một phần của đời sống. Trong giai đoạn này, người ta có thể học được một số bài học quan trọng nhất về cuộc đời của mình.”
7. VỚI NGƯỜI BỆNH THỜI KỲ CUỐI
Khi một người nằm chết
người đó không chết chỉ vì căn bệnh
Người đó chết vì cả cuộc đời của mình.
Lời của Charles Peguy
Trong khi mắc một căn bệnh đe dọa mạng sống, điều quan trọng là bạn cần giữ mối liên hệ với người thân và bạn bè. Ít nhất bạn cần nên có một người bạn đáng tin cậy, người mà bạn có thể tâm sự những nỗi sợ hãi và hy vọng của mình. Những mối liên hệ nhiệt tình và bền vững như vậy, giúp bạn xua đuổi cảm giác cô đơn vốn mạnh mẽ vào lúc này và giúp thiết lập bầu không khí thích hợp, dù bạn ở nhà, ở bệnh viện hay viện dưỡng lão.
Giá Trị của Sám Hối
Qua sự sám hối, bạn có thể trút bỏ được những cảm giác tội lỗi trong tâm trí của mình vốn thường mạnh mẽ xuất hiện trong lúc này, bớt lo sợ và tìm thấy sự an tĩnh của tâm trí. Hãy cố gắng tụng bài kệ Sám Hối sau đây:
“Con xưa đã tạo bao ác nghiệp
Đều bởi vô thỉ tham sân si
Từ thân, miệng, ý mà sanh ra
Tất cả con nay xin sám hối”.
(All evil actions committed by me
Since time immemorial,
Stemming from greed, anger, and ignorance,
Arising from body, speech, and mind
I now repent having committed).
Sám hối không phải chỉ là một lối biểu lộ sự ân hận về những tội lỗi quá khứ. Nếu thành tâm sám hối thì đó là một cách giải trừ mãi mãi những mặc cảm tội lỗi trong tâm. Tuy nhiên, không phải chỉ tụng một lần là dẹp được những cảm giác tội lỗi. Bài kệ này nên được tụng nhiều lần. Một câu cách ngôn của Do Thái đã nói lên ý này: “Chỉ cần hối hận trong ngày cuối cùng của đời mình, nhưng vì không biết ngày đó là ngày nào nên phải hối hận mỗi ngày” (You have only to repent the last day of your life, and since you don't know what day that is, you must repent evey day).
Giữ Tâm Trí Trong Sáng
Nếu bị đau đớn nhiều, bạn nên xin bác sĩ hay y tá cho loại thuốc giảm đau nào không làm cho bạn bất tỉnh hay bán bất tỉnh. Những người nào không quen dùng thuốc và nhạy cảm với thuốc nên cảnh giác với những loại thuốc mạnh, đặc biệt là thuốc chống đau mà phần lớn có chứa nha phiến. Những loại thuốc như vậy có thể đưa tới sự ngừng thở hay có ảnh hưởng tới tình trạng tâm trí của người dùng. Bệnh nhân không nên ngại hỏi y tá là loại thuốc chống đau mình sắp dùng có gây ra phản ứng xấu hay không. Thân nhân có thể hỏi giùm người bệnh về điều này. Trong đa số bệnh viện ở Mỹ, thuốc chữa làm cho tâm trí người bệnh không có ý thức gì về sự chết. Muốn giảm đau thì phải dùng thuốc, nhưng những loại thuốc ngủ, thuốc an thần, và thuốc chống đau mạnh cũng được dùng để làm cho bệnh nhân yên tĩnh, vì vậy hãy cố gắng tránh những loại thuốc đó.
Thở Để Giải Trừ Lo Sợ
Nếu thấy lo sợ, phép thở sau đây có thể mang lại sự dễ chịu, đặc biệt là khi bạn cũng thực hành đều đặn những phép thở được mô tả trong cuốn “Thiền Quán Cho Người Hấp Hối” (Meditations for the Dying Person).
Một cách hiệu quả để ngừng lo sợ là thở ba hơi thở dài và sâu, buông lỏng với mỗi hơi thở, và tập trung tâm trí vào hơi thở. Trong khi thở, vươn bụng và để cho nó lên xuống với mỗi hơi thở ra vô. Có thể nhắm mắt hay mở mắt.
Tâm Trí Vào Lúc Trút Hơi Thở Cuối Cùng
Trạng thái tâm trí của bạn vào lúc trút hơi thở cuối cùng là điều quan trọng, vì hướng đi và sự nhập thể của sinh lực trong tương lai tùy thuộc điều này. Chỉ với một tâm trí có kỷ luật và được sửa soạn về tâm linh thì bạn mới có thể hy vọng chống lại sự lôi kéo của những thói quen tham muốn và bám giữ cũ khi năng lượng cuối cùng của mình tiêu tan. Những xung lực ý nghĩ, cảm giác, và nhận thức tụ lại với nhau trong hơi thở cuối cùng này thật mạnh mẽ và có thể cản trở sự đạt những mức tâm thức cao và cả sự giác ngộ.
Tín Tâm Minh
Để sửa soạn bản thân cho giờ phút cuối cùng, bạn nên đọc hay nhờ người khác đọc một bài kinh hay một bài cầu nguyện. Trong số đó, “Tín Tâm Minh” (Verses on the Faith Mind) là một bài văn vần hiệu quả nhất cho việc giải thoát tâm trí khỏi sự trói buộc đầy đau khổ của sinh và tử. Bài này chứa đựng trí tuệ của tất cả các đấng giác ngộ và được viết bởi Thiền Sư Tăng Xán (Seng Tsan), vị Tổ Thứ Ba của Thiền Tông:
“Đạo hoàn hảo như bầu trời
Không thừa không thiếu
Giác ngộ là vượt lên trên
Cả không lẫn sắc
Tất cả những sự biến đổi trong thế gian trống không này
Vì vô minh mà có vẻ như thật.
Đạo lớn thì không giới hạn,
Không dễ không khó
Chỉ cần buông bỏ tâm chấp thủ
Là sẽ thấy tính chất thật của vạn vật
Trong chân tâm không có gì đi hay ở.
Tìm tâm lớn với tâm phàm
Là sai lầm lớn
Nếu tâm không phân biệt
Thì mọi vật sẽ như thật và là một
Khi tất cả được nhìn với tâm bình đẳng
Chúng ta trở về với Tự Tánh của mình.
Khi nhất tâm nhập vào Đạo
Mọi ý tưởng ngã chấp sẽ không còn
Nghi ngờ và mê muội sẽ tan biến
Chánh tín sẽ hòa nhập vào đời sống
Không có gì bám vào mình
Và không có gì bị bỏ lại
Trong cõi chân không này
Mình và người đều không còn.
Đạo thì vượt không gian và thời gian
Khoảnh khắc là vạn năm
Không chỉ ở đây, không chỉ ở đó
Chân lý ở ngay trước mắt
Một là tất cả, tất cả là một
Biết như vậy thì mọi sự sẽ trọn vẹn.
Khi niềm tin và tâm trí không phân cách
Thì không phân cách tâm trí và niềm tin
Điều này vượt lên trên lời lẽ và ý tưởng
Vì ở đây không có hôm qua
không có ngày mai
không có hôm nay”.
Xin tham khảo bản dịch của Cư Sĩ Trúc Thiên
Chí đạo vô nan Duy hiềm giản trạch Đản mạc tắng ái Đổng nhiên minh bạch |
Đạo lớn chẳng gì khó Cốt đừng chọn lựa thôi Quí hồ không thương ghét Thì tự nhiên sáng ngời |
Hào li hữu sai Thiên địa huyền cách Dục đắc hiện tiền Mạc tồn thuận nghịch |
Sai lạc nửa đường tơ Đất trời liền phân cách Chớ nghĩ chuyện ngược xuôi Thì hiện liền trước mắt |
Vi thuận tương tranh Thị vi tâm bịnh Bất thức huyền chỉ Đồ lao niệm tịnh |
Đem thuận nghịch chỏi nhau Đó chính là tâm bịnh Chẳng nắm được mối huyền Hoài công lo niệm tịnh |
Viên đồng thái hư Vô khiếm vô dư Lương do thủ xả Sở dĩ bất như |
Tròn đầy tợ thái hư Không thiếu cũng không dư Bởi mảng lo giữ bỏ Nên chẳng được như như |
Mạc trục hữu duyên Vật trụ không nhẫn Nhứt chủng bình hoài Dẫn nhiên tự tận |
Ngoài chớ đuổi duyên trần Trong đừng ghì không nhẫn Cứ một mực bình tâm Thì tự nhiên dứt tận |
Chỉ động qui tịnh Chỉ cách di động Duy trệ lưỡng biên Ninh tri nhứt chủng |
Ngăn động mà cầu tịnh Hết ngăn lại động thêm Càng trệ ở hai bên Thà rõ đâu là mối |
Nhứt chủng bất thông Lưỡng xứ thất công Khiển hữu một hữu Tòng không bối không |
Đầu mối chẳng rõ thông Hai đầu luống uổng công Đuổi có liền mất có Theo không lại phụ không |
Đa ngôn đa lự Chuyển bất tương ưng Tuyệt ngôn tuyệt lự Vô xứ bất thông |
Nói nhiều thêm lo quẩn Loanh quanh mãi chẳng xong Dứt lời dứt lo quẩn Đâu đâu chẳng suốt thông |
Qui căn đắc chỉ Tùy chiếu thất tông Tu du phản chiếu Thắng khước tiền không |
Trở về nguồn nắm mối Dõi theo ngọn mất tông Phút giây soi ngược lại Trước mắt vượt cảnh không |
Tiền không chuyển biến Giai do vọng kiến Bất dụng cầu chơn Duy tu tức kiến |
Cảnh không trò thiên diễn Thảy đều do vọng kiến Cứ gì phải cầu chơn Chỉ cần dứt sở kiến |
Nhị kiến bất trụ Thận vật truy tầm Tài hữu thị phi Phân nhiên thất tâm |
Hai bên đừng ghé mắt Cẩn thận chớ đuổi tầm Phải trái vừa vướng mắc Là nghiền đốt mất tâm |
Nhị do nhứt hữu Nhứt diệc mạc thủ Nhứt tâm bất sanh Vạn pháp vô cửu |
Hai do một mà có Một rồi cũng buông bỏ Một tâm ví chẳng sanh Muôn pháp tội gì đó |
Vô cửu vô pháp Bất sanh bất tâm Năng tùy cảnh diệt Cảnh trục năng trầm |
Không tội thì không pháp Chẳng sanh thì chẳng tâm Tâm theo cảnh mà bặt Cảnh theo tâm mà chìm |
Cảnh do năng cảnh Năng do cảnh năng Dục tri lưỡng đoạn Nguyên thị nhứt không |
Tâm là tâm của cảnh Cảnh là cảnh của tâm Ví biết hai đằng dứt Rốt cùng chỉ một không |
Nhứt không đồng lưỡng Tề hàm vạn tượng Bất kiến tinh thô Ninh hữu thiên đảng |
Một không, hai mà một Bao gồm hết muôn sai Chẳng thấy trong thấy đục Lấy gì mà lệch sai |
Đại đạo thể khoan Vô dị vô nan Tiểu kiến hồ nghi Chuyển cấp chuyển trì |
Đạo lớn thể khoan dung Không dễ mà chẳng khó Kẻ tiểu kiến lừng khừng Gấp theo và chậm bỏ |
Chấp chi thất độ Tâm nhập tà lộ Phóng chi tự nhiên Thể vô khứ trụ |
Chấp giữ là nghiêng lệch Dấn tâm vào nẻo tà Cứ tự nhiên buông hết Bổn thể chẳng lại qua |
Nhiệm tánh hiệp đạo Tiêu dao tuyệt não Hệ niệm quai chơn Trầm hôn bất hảo |
Thuận tánh là hiệp đạo Tiêu dao dứt phiền não Càng nghĩ càng trói thêm Lẽ đạo chìm mê ảo |
Bất hảo lao thần Hà dụng sơ thân Dục thú nhứt thặng Vật ố lục trần |
Mê ảo nhọc tinh thần Tính gì việc sơ thân Muốn thẳng đường nhứt thặng Đừng chán ghét sáu trần |
Lục trần bất ác Hoàn đồng chánh giác Trí giả vô vi Ngu nhơn tự phược |
Sáu trần có xấu chi Vẫn chung về giác đấy Bậc trí giữ vô vi Người ngu tự buộc lấy |
Pháp vô dị pháp Vọng tự ái trước Tương tâm dụng tâm Khởi phi đại thác |
Pháp pháp chẳng khác Do ái trước sanh lầm Há chẳng là quấy lắm Sai tâm đi bắt tâm |
Mê sanh tịch loạn Ngộ vô hiếu ố Nhứt thiết nhị biên Vọng tự châm chước |
Mê sanh động sanh yên Ngộ hết thương hết ghét Nhứt thiết việc hai bên Đều do vọng châm chước |
Mộng huyễn không hoa Hà lao bả tróc Đắc thất thị phi Nhứt thời phóng khước |
Mơ mộng hão không hoa Khéo nhọc lòng đuổi bắt Chuyện thua được thị phi Một lần buông bỏ quách |
Nhãn nhược bất thụy Chư mộng tự trừ Tâm nhược bất dị Vạn pháp nhứt như |
Mắt ví không mê ngủ Mộng mộng đều tự trừ Tâm tâm ví chẳng khác Thì muôn pháp nhứt như |
Nhứt như thể huyền Ngột nhĩ vọng duyên Vạn pháp tề quán Qui phục tự nhiên |
Nhứt như vốn thể huyền Bằn bặt không mảy duyên Cần quán chung như vậy Muôn pháp về tự nhiên |
Dẫn kỳ sở dĩ Bất khả phương tỉ Chỉ động vô động Động chỉ vô chỉ |
Đừng hỏi vì sao cả Thì hết chuyện sai ngoa Ngăn động chưa là tịnh Động ngăn khác tịnh xa |
Lưỡng ký bất thành Nhứt hà hữu nhĩ Cứu cánh cùng cực Bất tồn qui tắc |
Cái hai đà chẳng được Cái một lấy chi mà... Rốt ráo đến cùng cực Chẳng còn mảy qui tắc |
Khế tâm bình đẳng Sở tác câu tức Hồ nghi tận tịnh Chánh tín điều trực |
Bình đẳng hiệp đạo tâm Im bặt niềm tạo tác Niềm nghi hoặc lắng dứt Lòng tin hòa lẽ trực |
Nhứt thiết bất lưu Vô khả ký ức Hư minh tự nhiên Bất lao tâm lực |
Mảy bụi cũng chẳng lưu Lấy gì mà ký ức Bổn thể vốn hư minh Tự nhiên nào nhọc sức |
Phi tư lượng xứ Thức tình nan trắc Chơn như pháp giới Vô tha vô tự |
Trí nào suy lượng được Thức nào cân nhắc ra Cảnh chơn như pháp giới Không người cũng không ta |
Yếu cấp tương ưng Duy ngôn bất nhị Bất nhị giai đồng Vô bất bao dong |
Cần nhứt hãy tương ưng Cùng lẽ đạo bất nhị Bất nhị mà hòa đồng Không gì chẳng bao dong |
Thập phương trí giả Giai nhập thử tông Tông phi xúc diên Nhứt niệm vạn niên |
Mười phương hàng trí giả Chung về nhập một tông Tông này vốn tự tại Khoảnh khắc là vạn niên |
Vô tại bất tại Thập phương mục tiền Cực tiểu đồng loại Vong tuyệt cảnh giới |
Dầu có không không có Mười phương trước mắt liền Cực nhỏ là cực lớn Đồng nhau, bặt cảnh duyên |
Cực đại đồng tiểu Bất kiến biên biểu Hữu tức thị vô Vô tức thị hữu |
Cực lớn là cực nhỏ Đồng nhau, chẳng giới biên Cái có là cái không Cái không là cái có |
Nhược bất như thị Tất bất tu thủ Nhứt tức nhứt thiết Nhứt thiết tức nhứt |
Ví chưa được vậy chăng Quyết đừng nên nấn ná Một tức là tất cả Tất cả tức là một |
Đản năng như thị Hà lự bất tất Tín Tâm bất nhị Bất nhị Tín Tâm |
Quí hồ được vậy thôi Lo gì chẳng xong tất Tín Tâm chẳng phải hai Chẳng phải hai Tâm Tín |
Ngôn ngữ đạo đoạn Phi cổ lai trâm. |
Lời nói làm đạo dứt Chẳng kim cổ vị lai. |
TS TĂNG XÁN |
TRÚC THIÊN dịch |
Sửa soạn bản thân bằng “Tín Tâm Minh” có nghĩa là suy ngẫm về những câu này mỗi ngày và cố gắng cảm nhận ý nghĩa nội tại của nó với trực giác của mình. Khi rơi vào hôn mê lúc chết, tri thức sẽ ngừng hoạt động, vì vậy nếu những chân lý của bài này đã thấm nhập vào lớp sâu nhất của tâm trí thì chúng sẽ là một sự hướng dẫn.
Những lời cầu nguyện theo Thánh Kinh
Nếu bạn cảm thấy dễ chịu hơn với một lời cầu nguyện trực tiếp với Thượng Đế hay Thiên Chúa, hãy học hay nhờ người khác đọc cho mình bài Thi Thiên 23 trong Kinh Cựu Ước hoặc bài cầu nguyện sau đây:
“Các giác quan đã không còn giúp được chúng con, mà lại còn hướng dẫn sai lầm chúng con, khi chúng tìm hiểu những thực tế của đời sống và ý nghĩa sâu xa của đời sống”.
Xin Thiên Chúa dạy cho chúng con tin vào lời của trái tim vốn cố gắng giành giựt lại con mồi của sự chết chóc.
Làm cho nội tâm của chúng con sắc sảo để chúng con có thể biết về chính mình.
Để thấy nội tâm trong chính mình vốn ở ngoài tầm tay của sự chết.
Xin ban cho chúng con trực giác để nhận ra sự phức tạp của con người chúng con, cái tự thân trong cùng đó, trong khi thể xác chỉ là công cụ và biểu tượng bên ngoài.
Và trí tuệ để hiểu rằng, giống như nhịp điệu lâu bền hơn tiếng đàn và ý nghĩa lâu bền hơn chữ viết, linh hồn cũng lâu bền hơn thể xác".
Thi Thiên 23 (The Twenty-third Psalm)
“Đấng Thiêng Liêng dẫn dắt con đi,
Con sẽ không thiếu thốn gì
Ngài cho con nằm nghỉ trên đồng cỏ xanh tươi
Ngài dắt con tới bên hồ nước an tĩnh
Ngài hồi phục linh hồn con
Ngài dắt con đi trên những con đường công chính
Nhân danh Ngài
Dù đi qua thung lũng
Bóng tối của thần chết
Con sẽ không sợ hãi điều xấu nào
Vì Ngài ở cùng con
Cây gậy và cây trượng của Ngài,
An ủi con
Ngài dọn một cái bàn cho con
Trước mặt kẻ địch của con
Ngài xức dầu lên đầu con
Chén của con tràn đầy.
Chắc chắn hạnh phúc sẽ theo con
Suốt cuộc đời của con
Và con sẽ ngụ trong nhà của Chúa Trời
Mãi mãi.”
Suy Ngẫm Về Sự Chết
Khi tâm trí của bạn trong sáng và bạn tương đối không đau đớn, hãy suy ngẫm về những gì các vị Thầy giác ngộ tâm linh đã dạy về việc sửa soạn cho sự chết. Hãy hiểu rằng cũng như bạn đã sinh ra ở thế gian này vào lúc nghiệp lực quy định, bạn cũng sẽ chết khi nghiệp của bạn quy định. Bạn đã trải qua những vùng tối này nhiều lần, dù có thể bạn không nhớ, và đã trải qua nhiều cuộc tái sinh rồi. Khi phải đơn độc đi vào vương quốc của chết chóc với những nghiệp tốt và nghiệp xấu của mình, không có lý do gì để bạn run sợ. Các đấng giác ngộ trong tất cả các cõi của sự sống đang đợi để hướng dẫn bạn. Các vị sẽ không bỏ rơi bạn. Các Ngài không có mục đích nào khác hơn là giải thoát bạn khỏi sự đau khổ của luân hồi sinh tử.
Các Đấng Giác Ngộ Vĩ Đại Là Ai?
Các đấng đã giác ngộ trọn vẹn này là ai và tại sao bạn nên tin tưởng các Ngài? Các Ngài là những đấng cao cả do đã giác ngộ viên mãn có năng lực biểu lộ sự hoàn hảo và lòng từ bi của mình. Các vị là những người đã đạt quyền năng tâm linh hoàn hảo và có tâm thức dung thông cả vũ trụ vô biên.
Chúng ta đều có những chủng tử từ bi lớn, nhưng nếu không có ánh sáng trí tuệ và nước từ bi của các đấng giác ngộ, những chủng tử này sẽ không bao giờ nẩy mầm. Hay dùng lối ví von khác, giống như một cái máy thu thanh được vặn tới một băng tần đặc biệt có thể nhận được những chương trình phát thanh ở cách xa hàng ngàn dặm, chúng ta có thể nhận được sự giúp đỡ của các đấng giác ngộ nếu biết mở rộng bản thân với tâm từ bi của các vị. Đây là nền móng của mối liên hệ giữa các đấng giác ngộ và những người bình thường. Nhưng đây không phải là sự truyền thông bình thường mà là sự cảm thông với tất cả tâm linh mà lời nói và ý tưởng không thể diễn tả được.
Đây không phải là sự truyền thông giống như giữa người sống và người chết. Việc nhận được sự hỗ trợ của các đấng giác ngộ không có nghĩa là được một thực thể đã chết, hay một vong linh, nhập vào thể xác của mình, nói và hành động qua thể xác này để hướng dẫn mình và người khác. Sự kiện vong linh nhập xác này không ăn nhằm gì tới cõi tâm linh đích thực.
Vậy chúng ta mở rộng bản thân để đón nhận sự từ bi của các đấng giác ngộ như thế nào? Bằng cách tin vào sự hiện hữu của các Ngài, bằng cách nắm lấy bàn tay chìa ra cho chúng ta. Nếu chúng ta không kêu cầu thì các Ngài không nghe thấy chúng ta, như William James đã nói: “Tất cả các tôn giáo đều bắt đầu với tiếng kêu: Cứu tôi với!”.
Điều này có khó chấp nhận hay không? Bạn hãy tự hỏi: “Điều gì xảy ra với lực tâm thức độc nhất của các vị Phật và các vị Chúa sau khi thể xác của các vị tan rã?”. Khoa học nói rằng không có năng lực nào mất đi, vì vậy những phẩm tính mà các vị thể hiện, hay tâm từ bi lớn, vẫn còn hiện hữu cho chúng ta.
Những sự thật của đời sống thì phức tạp và bao quát hơn là chúng ta có thể tưởng tượng. Các tôn giáo Đông Phương và một số nhà khoa học hàng đầu khẳng định rằng thế giới vật chất là một ảo ảnh được tạo bởi những giác quan hữu hạn của chúng ta, những giác quan này cho chúng ta thấy một hình ảnh không trọn vẹn, và do đó giả dối về tính chất thật của thực tại.
Như đã nói, mỗi người chúng ta không chỉ là một phần của vũ trụ mà còn là toàn thể. Vậy, niềm tin của chúng ta là: Chúng ta có thể giác ngộ về sự toàn vẹn nguyên thủy của chính mình. (Our faith, then, is this: That we can awaken to our intrinsic wholeness).
Thiền Quán Dành Cho Người Hấp Hối
Bác sĩ Derek Doyle, giám đốc bệnh xá St. Columbus ở Anh Quốc, nói: “Chết có thể là điều đáng sợ. Nhưng chính sự chết trong 99.9% bệnh nhân thì lại rất an tĩnh và rất đẹp, tới mức không ngờ. Sự căng thẳng trên khuôn mặt không còn nữa, hơi thở nặng nhọc trở nên dễ dàng, sự chịu đựng đau khổ vốn cần có nhiều can đảm của một số người bây giờ trở nên nhẹ nhàng hơn. Nhiều đau khổ có vẻ đã tan biến, nhưng sự sống vẫn tiếp tục. Trong ngày cuối cùng hay vài giờ cuối cùng đó, bệnh nhân thực sự có vẻ hạnh phúc và thảnh thơi”.
Đây có thể là trường hợp của đa số bệnh nhân gần lúc chết, nhưng trong lúc hấp hối có những bệnh nhân căng thẳng và xao động. Có lẽ đây là sự kiện mà Bác Sĩ Soyles muốn nói tới khi ông nói chết có thể là điều đáng sợ.
Pháp quán hơi thở để làm cho tâm trí an tĩnh
Khi thân thể và tâm trí không tích cực hoạt động nữa, những ý nghĩ tán loạn sẽ phát sinh. Để làm cho thân tâm an tĩnh, tạo cảm giác thảnh thơi và cả an lạc nữa, chúng ta có phép quán hơi thở, đếm những hơi thở vô và những hơi thở ra, hoặc chỉ đếm hơi thở ra. Từ thời xưa, đếm hơi thở đã được các vị Đạo sư xem là phép căn bản của việc tu luyện thân tâm. Như vậy hơi thở là lực hợp nhất cơ thể và tâm trí, và cung cấp sự kết nối giữa ý thức và tiềm thức, giữa những chức năng hữu ý và những chức năng tự động. Có thể nói hơi thở là sự biểu hiện trọn vẹn nhất của tất cả sự sống. Khi được hỏi: “Đời người dài hay ngắn?”. Đức Phật trả lời: “Bằng khoảng cách giữa một hơi thở vô và hơi thở ra”. Có thể nói mỗi hơi thở ra là một sự chết; mỗi hơi thở vô là một sự tái sinh. (Each exhalation is a dying, each inhalation is a rebirth).
Phép quán hơi thở được thực hành như sau: "Nằm ngửa với hai đầu gối hơi nhô cao, hai bàn chân và lưng đặt phẳng, và một cái gối đặt ở dưới hai đầu gối. Chắp nhẹ hai bàn tay, hoặc đặt bàn tay lên nhau ở trên bụng. Nếu như vậy không dễ chịu, đặt hai bàn tay xuống hai bên. Hít vào một hơi, giữ nó một lát rồi chậm chậm thở ra. Làm như vậy một hay hai lần rồi thở tự nhiên.
Khi thở vô nhẹ nhàng, đếm “một”, và khi thở ra nhẹ nhàng, đếm “hai”, và tiếp tục như vậy cho tới “mười”. Rồi trở về “một” và lập lại. Nếu đếm lộn hay đi quá “mười” thì ngay khi biết như vậy, hãy trở lại “một” và tiếp tục tới “mười”, và hãy đếm chậm. Nếu ở một mình, bạn có thể đếm lớn tiếng; nếu có người khác, hãy đếm thầm.
Một cách đếm hơi thở khác là chỉ đếm hơi thở ra. Khi thở ra, hãy cảm thấy trạng thái tâm thảnh thơi và những ý nghĩ tiêu cực của mình tan biến mất.
Phép quán tưởng
Một phép quán ích lợi khác có thể thực hành ở thế nằm hoặc thế ngồi là tưởng tượng cam lộ chậm chậm đi xuống qua cổ họng, phổi, tim và những bộ phận quan trọng khác của cơ thể. Khi cam lộ đi qua mỗi cơ quan, hãy cảm thấy cơ quan đó được buông lỏng, được thanh lọc và được làm cho tươi nhuận. Cùng lúc đó quán tưởng mình ấm áp một cách dễ chịu và mạnh khỏe.
Để giúp thêm cho việc an tĩnh tâm trí, hãy cố gắng quán tưởng khuôn mặt thanh tịnh hoan hỷ của Đức Phật hay một vị Bồ Tát như Quán Âm Bồ Tát (nếu bạn là Phật tử); Đức Chúa hay một vị Thánh hoặc Đức Bà Maria (nếu bạn là tín đồ Thiên Chúa Giáo); Đức Krisna (nếu bạn là người Ấn Giáo). Những người nào theo một tôn giáo không cho phép quán tưởng, hay những người không chính thức thuộc một tôn giáo nào, có thể thấy một vật, một bức tranh, hay một bản nhạc, làm cho tâm trí của mình an tĩnh. Hay có thể một bài cầu nguyện nào đó. Nếu cảm xúc sân hận đối với một người nào đó xuất hiện trong tâm, hãy tưởng tượng mình ôm người đó và phóng ra những ý nghĩ từ bi về phía người đó. Việc này có thể khó, nhưng nếu bạn làm một cách thành tâm thì việc khó này cũng dần dần trở nên dễ.
Những phép quán này không chỉ dành cho người hấp hối. Đừng đợi cho tới khi mình ngả bệnh nặng rồi mới thực tập. Hãy thực tập ngay từ bây giờ, mỗi ngày trong khoảng nửa giờ, và bạn sẽ thấy những phép quán này không chỉ làm cho thân thể dễ chịu hay tâm trí an tĩnh mà còn chuyển hóa được con người của bạn, làm cho bạn dễ sống với mình và với người khác hơn.
Hãy ôm cái chết của mình
Hãy suy ngẫm về những lời nói này của Thiền Sư Bassui (Nhật Bản, thế kỷ thứ 14):
“Chân tâm là vô sinh bất tử, không có, không không, không sắc tướng, mà cũng không vô sắc tướng. Nó cũng không phải là cái gì có những cảm giác vui buồn. Dù muốn biết bao nhiêu bằng lý trí cái bây giờ đang bị bệnh cũng không thể biết được. Nhưng nếu không nghĩ gì, không ước điều gì, không muốn hiểu cái gì, không bám giữ vật gì, mà chỉ tự hỏi ‘Chân tâm của kẻ đang chịu đau khổ này là cái gì?’ Trong khi chấm dứt cuộc đời của mình như mây tan trên bầu trời thì sẽ thoát khỏi sự trói buộc đau đớn vào biến dịch bất tận.”
Vậy, bạn hãy tưởng tượng mình tan biến chậm, rất chậm, cho tới khi mình nghĩ nhớ mỗi lúc mỗi ít hơn. Bây giờ hãy để cho cảm giác thư thái, an tĩnh chiếm ngự, không gấp rút mà phải chậm chậm.
8. DÀNH CHO GIA ĐÌNH VÀ BẠN BÈ CỦA NGƯỜI HẤP HỐI
Chết ở bệnh xá hay ở nhà
Người hấp hối sẽ chết ở bệnh viện hay ở nhà là một vấn đề quan trọng hàng đầu của người đó và gia đình. Có nhiều điều để xét trước khi quyết định về vấn đề này. Ví dụ, gia đình có thể muốn giữ người hấp hối ở nhà, nhưng họ có thực sự biết việc này sẽ đưa tới những điều gì trong hoàn cảnh của họ hay không. Họ có chịu đựng được sự căng thẳng của việc tiếp tục làm công việc bên ngoài trong khi phải chăm sóc một người bệnh, chẳng hạn như cha hay mẹ già yếu, có thể nửa tỉnh nửa mê, phải được đổi thế nằm để tránh đau nhức, phải được người khác cho ăn, phải được tắm rửa và thay quần áo?
Nhưng đừng từ chối việc giữ một người thân hấp hối ở nhà vì sự mình không chăm sóc được. Có thể có sự giúp đỡ bán chuyên nghiệp trong vài giờ một ngày hay vài ngày một tuần, để giảm sự căng thẳng, làm dễ dàng hơn công việc, và giúp cho người bệnh được ở trong khung cảnh quen thuộc với những người thân và bạn bè ở xung quanh mình. Còn nếu người hấp hối thấy ở bệnh viện sẽ dễ dàng hơn với sự hiểu biết và thông cảm của các bác sĩ và y tá, hay trong chương trình bệnh xá, nơi người đó có thể cảm thấy yên tâm là họ không đặt gánh nặng của việc chăm sóc lên gia đình của mình. Tình trạng tài chánh của gia đình cũng phải được xét tới, vì bảo hiểm y tế có những giới hạn của nó, đặc biệt là đối với việc chăm sóc tại nhà.
Việc này được thảo luận nhiều trong cuốn “Chăm Sóc Tại Nhà Cho Người Hấp Hối” (Home Care for the Dying) của Deborah Whiting Little. Đề tài này quá phức tạp để được nói tới một cách đầy đủ ở đây. Những sự chọn lựa này rất riêng tư đối với mỗi người hấp hối và gia đình, và tùy thuộc vào hoàn cảnh hiện thời của đương sự, nếu hoàn cảnh thay đổi thì quyết định cũng có thể thay đổi.
Những Giờ Phút Cuối Cùng Của Người Hấp Hối
Đặc biệt trong những giờ cuối cùng của người hấp hối, hãy dành cho người đó sự hỗ trợ nồng ấm của bạn, vì mọi người trong gia đình có nhân duyên lớn với nhau. Hãy chăm chú nghe bất cứ điều gì người hấp hối có thể nói, không tranh luận hay nói ngược lại người đó. Nếu người hấp hối mắng Thượng Đế hay bác sĩ hay một người nào khác, cứ để yên. Đừng bắt người đó nói tới những chuyện thực dụng như làm di chúc nếu người đó không nghĩ tới chuyện đó. Nếu có người nào trong gia đình áp đặt ý muốn của mình trong những giờ phút cuối cùng đó, khi người hấp hối cần có sự yên tĩnh hoàn toàn để tập trung năng lực còn lại của mình để đi qua cái chết, thì như vậy là tạo nghiệp xấu cho tất cả.
Người xưa biết một điều mà người ngày nay đã quên, đó là người hấp hối cần phải có trạng thái tâm an tĩnh để có thể di chuyển từ cõi sống này tới cõi sống khác, một sự kiện mà người xưa đã không bao giờ nghi ngờ.
Ở gần bên người hấp hối
Nên biết rằng những người sắp chết có thể không chú tâm vào những gì ở xung quanh mình, và rút vào trạng thái giống như xuất thần, thường thấy hay nghe những gì người khác không nhận thấy. Gia đình không nên cho đó là dấu hiệu tâm trí và trí nhớ suy thoái và bây giờ không cần phải chú ý tới người hấp hối nữa. Sự thật là thính giác và sự minh mẫn của người đó có thể còn nhạy bén hơn trước. Kinh nghiệm cổ truyền cho thấy có những người phát triển khả năng nhận thức ở bên ngoài các giác quan hay khả năng ngoại cảm, trong khi bị bệnh nặng hay bệnh ở vào thời kỳ cuối. Vì vậy, một sự khóc lóc, kêu gào thái quá của người thân sẽ gần như chắc chắn làm rộn những hoạt động tâm thức nhạy cảm này đang diễn ra trong người hấp hối, vì vậy, nên giữ những biểu lộ cảm xúc này càng xa giường của người hấp hối đó càng tốt. Trong một bệnh viện thì việc làm cho khung cảnh yên tĩnh sẽ khó hơn, dù gia đình của bệnh nhân có thể giữ yên lặng và tập trung trong những giờ phút cuối cùng, nhưng vẫn có những bệnh nhân khác ở gần đó gây ồn ào hay không được kiểm soát, cùng với những máy truyền hình mở lớn tiếng. Việc chăm sóc sẽ khó hơn nhưng không phải là bất khả.
Khi thấy người hấp hối rút vào nội tâm đừng nghĩ là mình cũng có thể rời bỏ người đó. Ngược lại, hãy nắm mọi cơ hội biểu lộ tình cảm thương yêu của mình bằng cách nắm tay người hấp hối, ôm hôn hay sờ vào người đó, và tự đồng hóa với nhu cầu của người đó. Ngồi yên tĩnh với người đó, phóng tỏa tình cảm của mình, như vậy sẽ giải trừ sự cô đơn và sự lo sợ thường xuất hiện ở lúc này. Dù nhận thấy chỉ có những phản ứng nhỏ của người đó, bạn có thể biết chắc rằng sự hiện diện của mình là một sự trấn an cho người hấp hối. Một trong những điều đáng sợ nhất đối với người bệnh thời kỳ cuối là bị bỏ rơi.
Hướng dẫn tâm trí của người hấp hối
Khi thấy rõ cái chết đang tới gần, nên tìm một người bạn thân của người hấp hối hay một người trong gia đình làm người chăm sóc chính yếu. Việc làm chính của người này là niệm Phật hộ niệm hoặc tụng lớn tiếng những kinh sách cần thiết cho tới khi người hấp hối trút hơi thở cuối cùng.
Bạn là người hướng dẫn tâm trí của người hấp hối trước cũng như sau khi chết, công việc của bạn rất quan trọng. Nên nhớ khi thần thức thoát khỏi thể xác, thì đó là cơ hội độc nhất cho sự vãng sanh hay giác ngộ.
Người hấp hối và gia đình nên hòa hợp với vai trò của bạn trong những giờ cuối cùng này. Bạn phải hoàn toàn tôn trọng những gì cho thấy người hấp hối muốn ở một mình. Tuy nhiên, khi bạn phải khuyên nhắc người đó hãy giữ tâm chánh niệm, bắt đầu đọc kinh, luôn luôn gọi người hấp hối bằng tên của người đó để người đó chú ý nghe bạn.
Tạo không khí an tĩnh trong những giờ phút cuối cùng của người hấp hối, dù ở trong bệnh viện hay ở viện dưỡng lão hoặc ở nhà riêng của người đó. Chắc chắn là có nhiều điều mà bạn có thể làm nếu người hấp hối ở nhà hơn là ở bệnh viện. Nhưng như vậy không có nghĩa là bạn không có việc gì để làm nếu người hấp hối ở trong bệnh viện. Ngay cả khi có hơn một người ở cùng trong phòng bệnh, bạn vẫn có thể thi hành nhiều việc được đề nghị ở trên.
Sắp xếp và bày biện lại phòng của người hấp hối làm sao cho có cảm giác quen thuộc dễ chịu. Nếu bệnh nhân có một bức tranh ưa thích hay một tấm hình của một người thân không thể có mặt ở đó, hãy đặt nó ở chỗ nào để có thể được trông thấy dễ dàng. Một điều rất quan trọng là sự truyền thông giữa bạn và người hấp hối không bị cản trở bởi một đề tài nói chuyện không thích hợp với nhu cầu và trạng thái tâm trí của người đó.
Thở với người hấp hối
Sự bình thản và sự tập trung của bạn sẽ giúp người hấp hối tiếp tục với sự thăng bằng trên hành trình đi vào trạng thái sau khi chết. Một điều gây an tĩnh và có lợi ích cho người hấp hối là bạn chia sẻ với người đó phép đếm hơi thở trong khoảng hai mươi phút, có thể vài lần một ngày, khi người đó tiến đến gần với cái chết.
Bạn có thể cầm tay người hấp hối trong khi hai người cùng đếm hơi thở. Nhưng trước hết, hãy nhẹ nhàng bảo người đó tập trung vào việc buông lỏng lần lượt những phần của cơ thể, như một cánh tay, một bàn chân, cổ... cho tới khi toàn cơ thể đã được buông lỏng. Rồi bắt đầu đếm thành tiếng cho người đó nghe trong khi người đó thở vô và thở ra. Đếm “một” khi thở vô, “hai” khi thở ra, “ba” khi thở vô, và cứ như vậy, hòa nhịp lời đếm của bạn với hơi thở của người hấp hối. Bạn cũng thở hòa hợp với hơi thở của người đó. Sau khi đếm tới “mười”, bắt đầu trở lại với “một”.
Khi nhận thấy người hấp hối không còn có thể làm bất cứ điều gì cho chính mình được nữa, bạn có thể tụng một bài kinh, ví dụ như bài "Tâm Kinh Bát Nhã" và "Tín Tâm Minh" (The Heart of Perfect Wisdom and Verses on the Faith Mind) hay một bài cầu nguyện mà người đó thích. Việc này sẽ làm cho tâm trí của họ không xao lãng. Nên áp sát bên tai của người đó và tụng từng lời rõ ràng. Hãy nhớ rằng thính giác là cái cuối cùng ra đi. Thêm nữa, ngay cả các chuyên gia y học cũng không thống nhất quan điểm với nhau về một điều là khi nào cái chết thực sự xảy ra, vì vậy đừng ngừng lại sự hộ niệm khi người hấp hối được xem là đã chết, mà cứ tiếp tục một lúc nữa, lâu hay mau tùy theo hoàn cảnh của địa phương.
9. THIÊU HAY CHÔN
Sáu Cách Giải Quyết Thi Hài Của
Người Quá Cố
Phải thảo luận việc này trước khi người hấp hối trút hơi thở cuối cùng, người đó và gia đình phải quyết định thi hài của người đó sẽ được giải quyết như thế nào khi chết. Sau đây là một số cách giải quyết đã được nhà nghiên cứu Ernest Morgan đề ra:
1. Đưa ngay đến một trường y khoa, sau đó là một lễ tưởng niệm hay lễ cầu siêu. Cách này thường tránh được mọi chi phí và là một việc làm giá trị. Gia đình có thể tụ tập một thời gian ngắn trước khi cái xác được đưa đi nếu hoàn cảnh cho phép.
2. Hỏa thiêu ngay, sau đó là một lễ tưởng niệm. Có thể cũng có một lễ ở lò thiêu nếu muốn.
3. Chôn ngay, sau đó là một lễ tưởng niệm. Có thể cũng có một lễ ở nghĩa địa nếu muốn.
4. Một tang lễ với xác người quá cố, tiếp theo là di chuyển tới một trường y khoa.
5. Một tang lễ với xác người quá cố, tiếp theo là lễ hỏa táng.
6. Một tang lễ với xác người quá cố, tiếp theo là chôn ở nghĩa địa.
Những cách nói trên được liệt kê theo chi phí do dịch vụ tổ chức tang lễ qui định, với cách có chi phí ít nhất được kể trước, ngoại trừ trường hợp đưa ngay tới một trường y khoa.
Trả Trước Cho Tang Lễ Của Mình
Càng ngày càng có nhiều người chọn trả trước cho tang lễ của mình. Cái chết của một người thân yêu là một khoảng thời gian đau buồn, khó khăn và đầy cảm xúc. Việc quyết định về chôn hay thiêu, kiểu và giá tiền của quan tài, ướp xác hay không ướp xác, và tất cả những chi tiết khác về việc giải quyết cái xác, phải được làm trong phần đau buồn nhất của giai đoạn sau khi chết, trừ khi những điều này đã được thu xếp trước khi chết. Người thân có thể không biết bạn muốn được chôn hay thiêu, muốn có một cỗ quan tài đắt tiền hay một cái hòm bằng gỗ thông đơn sơ. Thêm nữa, sự thu xếp trước có thể làm cho bạn an tâm.
Có những điều cần phải xét nếu bạn đang nghĩ tới việc trả trước tang lễ cho mình. Hội Người Về Hưu Mỹ (American Association of Retired Persons, AARP) đề nghị bạn lập kế hoạch cho tang lễ của mình và việc giải quyết cái xác của mình trước, nhưng nên thận trọng về việc trả tiền trước, vì ba lý do: Bạn có thể đổi ý về những gì mình muốn, bạn có thể rời khỏi khu vực hay công ty cung cấp dịch vụ có thể đóng cửa trước khi bạn qua đời.
Thường có một số cách khác cho việc trả trước chi phí, bao gồm những kế hoạch trả trước khác nhau, một trương mục cho một người hưởng hay một bảo hiểm nhân thọ mà người hưởng có nhiệm vụ dùng tiền bảo hiểm cho tang lễ của bạn và những chi phí kèm theo. Những kế hoạch trả trước có thể có những loại sau đây:
1. Giá bảo đảm, có thể hoàn lại (bạn có thể đổi ý và nhận lại trọn vẹn hay một phần tiền)
2. Giá không bảo đảm, có thể hoàn lại (bạn có thể đổi ý và lấy lại trọn vẹn hay một phần tiền, nhưng tiền trả trước có thể không bao gồm tất cả chi phí khi cái chết tới với bạn).
3.Giá bảo đảm, không thể hoàn lại (giá tiền được bảo đảm nhưng không được hoàn lại nếu bạn thay đổi kế hoạch).
4. Giá không bảo đảm, không thể hoàn lại (nên tránh loại trả trước này)
Dù bạn quyết định ra sao, hãy khôn ngoan viết những ý nguyện của mình thành văn bản và làm cho tài liệu này sẵn sàng được đọc bởi những người có trách nhiệm với tang lễ của bạn sau khi bạn qua đời. Đừng để văn bản này trong di chúc của bạn hay trong két sắt của bạn, vì như vậy nó có thể chỉ được đọc sau tang lễ của bạn. Để có thêm thông tin, bạn có thể tìm đọc tập sách của AARP "Chuẩn Bị Tang Lễ Của Bạn" (Preparing Your Funeral).
Giám Đốc Tang Lễ Có Cần Thiết Không?
Có thể làm mọi chi tiết của việc giải quyết thi hài người quá cố mà không cần một công ty mai táng hay nhà tang lễ, và có thể có những người muốn làm như vậy.
Lisa Carlson đã viết một cuốn sách bao quát “Lo Hậu Sự Của Mình” (Caring For Your Own Dead), liệt kê luật lệ của mỗi tiểu bang về việc giải quyết thi hài và kể rằng bà đã làm như thế nào với cái chết bất ngờ của chồng mình. Bà cũng nói về cách những người khác đã chôn hay thiêu xác của người thân với ít sự giúp đỡ hay không có sự giúp đỡ của một công ty mai táng. Hay bạn có thể gia nhập một trong những hội tưởng niệm được tổ chức ở những thành phố ở khắp Hoa Kỳ bởi những người tu tập với nhau, để tìm một cách tổ chức tang lễ mà không tốn quá nhiều tiền cho người thân của mình. Những hội như vậy thường làm lễ an táng hay hỏa thiêu không đắt giá cho các hội viên. Để tìm hội tưởng niệm gần nơi mình cư trú nhất, hãy viết thư gởi đến: Continental Association of Funeral and Memorial Societies, Suite 530, 2001 S Street NW, Washington, DC 20009.
Canh Thức Bên Quan Tài
Tất nhiên có nhiều cách khác nhau để chào từ biệt một người thân hay một người bạn. Một trong những cách thông thường là canh thức, với người trong gia đình và các bạn bè thức gần suốt đêm, ăn uống, và ôn lại những kỷ niệm về người quá cố trong sự hiện diện của thi hài người đó. Nắp quan tài có thể để mở hay đóng. Cũng có canh thức với việc tụng kinh hộ niệm, trong đó gia đình và bạn bè thức suốt đêm để tụng kinh.
Rồi lại có sự canh thức một mình. Một bà bạn kể với tôi rằng khi cha của bà chết bất ngờ, bà đã rất muốn được ở bên cạnh ông để biểu lộ tình thương mà mình chưa bao giờ biểu lộ với ông, từ lâu bà đã không gặp cha mình, vì bà sống ở cách xa một lục địa. Vì vậy bà vội đi tới nhà tang lễ nơi thi hài của ông được an trí (trước đó bà đã bảo người giám đốc tang lễ không ướp hay can thiệp bất cứ điều gì đến thi hài của cha), và rồi với một bà bạn, bà thức với cha của mình suốt đêm. Bà nói: “Cha của tôi chết ngày hôm trước. Suốt đêm bạn tôi và tôi cảm thấy sự hiện diện mạnh mẽ của ông. Chúng tôi tụng niệm và tham thiền. Tôi vẫn biết cha tôi là một người khó tánh, nhưng bây giờ ông có vẻ rất an lạc. Đối với tôi thì đây đúng là một sự kiện tâm linh. Chưa bao giờ tôi cảm thấy gần gũi với cha mình hơn như đêm hôm đó”.
Một bà bạn kể về một cuộc canh thức với thi hài của một người thân, cùng với đứa con trai mười hai tuổi của người đó:
Charles đã tự tử. Nhưng đêm đó tôi nhìn anh ta nằm gọn trong quan tài, sự thất vọng và cay đắng của cuộc đời anh đã biến mất, và anh ta trông rất an lạc. Con trai của anh ta cũng nói là anh ta trông rất thanh thản. Cậu bé nói: “Con chưa bao giờ thấy Cha hạnh phúc như vậy.” “Con biết bây giờ ông ấy thanh thản hơn lúc còn sống. Con mừng là mình đã tới đây và con không sợ hãi hay buồn gì cả.”
Sự Hiện Diện Của Thi Hài Ở Tang Lễ
Một Mục sư đã hướng dẫn những tang lễ có quan tài mở nắp nhận xét về loại tang lễ này như sau:
“Đối với tôi thì tang lễ có tính chất thương mại cho người ta đã qua rồi; tôi sẽ không làm một tang lễ nào khác. Nhưng lễ tưởng niệm thì cần thiết. Lễ tưởng niệm là cho những người sống, và tốt nhất là không có quan tài ở đó. Những cái bất tử mà người ta để lại thế gian là bạn bè, con cháu, những mối liên hệ. Đây là những cái không ăn nhằm gì tới cái xác không hồn nằm ở đó. Tôi nghĩ rằng quan tài để mở không chỉ là một tai họa kinh tế làm tốn thêm hàng trăm đô la chi phí tang lễ mà còn làm cho thân nhân đau đớn thêm. Vô số lần tôi đã phải an ủi những người vợ góa, cha mẹ hay con cháu than khóc và đưa họ đi khỏi cái quan tài mở nắp, vậy mở nắp quan tài để làm cái gì?”.
Sự than khóc của người thân có thể được xem là bằng chứng cho thấy sự đau khổ của họ, nhưng sự trút đau thương này có thể có tính chất trị liệu rất tốt. Một nhà tâm lý học và một nhà phân tâm học đã khẳng định điều này.
Ann Kliman, một nhà tâm lý học ở quận hạt Westchester, New York, đã làm tư vấn về những tình trạng khẩn cấp nhiều năm, và tin vào tính chất trị liệu của tang lễ với quan tài để mở nắp. Bà nghĩ rằng việc nhìn thấy người quá cố là nhân tố quan trọng trong lúc bắt đầu để tang, đặc biệt là trong trường hợp chết đột ngột hay bất ngờ. Sự nhìn người quá cố là cơ hội chấp nhận sự kiện chết và chào từ biệt người quá cố.
Tiến Sĩ Erich Lindemann, giáo sư phân tâm học ở Trường Y Khoa Harvard, cũng cảm thấy tang lễ với quan tài mở nắp có giá trị lớn:
Khi được hỏi: “Theo ông thì điểm lợi ích nhất trong một tang lễ là cái gì?” Lindemann đáp: “Đó là lúc người sống đối diện sự chết khi nhìn thấy thi hài của người quá cố.” Khi được hỏi thêm tại sao ông nghĩ điều này là đúng, ông nói: “Người ta thường chối bỏ thực tại đau đớn. Họ thường vận dụng sức mạnh của tâm trí và cảm xúc để chối bỏ sự thật là cái chết đã xảy ra. Nhưng khi họ kinh nghiệm sự thật phũ phàng khi đứng trước thi hài, sự chối bỏ kia của họ đã sụp đổ. Họ đang đối diện thực tại và đó là bước quan trọng đầu tiên về hướng đối phó với sự đau buồn của họ. Khi việc này được làm với người khác, thực tại được khẳng định và cùng lúc, họ được khuyến khích đối diện những cảm xúc căn bản của phản ứng đau buồn. Đau buồn là một cảm xúc. Nếu chối bỏ nó, người ta sẽ gặp khó khăn trong việc đối phó với nó, nhưng nếu đối diện nó, người ta sẽ bắt đầu đau buồn một cách lành mạnh.”
Sự kiện lần đầu tiên nhìn một thi hài trong quan tài mở nắp có thể là một sự kiện không thể quên được. Tôi vẫn nhớ ấn tượng mạnh mà mình có, khi nhìn một xác chết trong quan tài mở nắp lần đầu tiên vào năm mười hai tuổi. Thời đó những người để tang thường lần lượt đi qua quan tài để mở và nhìn người quá cố lần cuối cùng. Người ta không bị bắt buộc phải nhìn thi hài, nhưng đa số đều nhìn thấy. Tôi vừa tò mò vừa muốn trốn lánh sự thật của sự chết mà loại tang lễ này trình bày. Nghi lễ ngắn ở bên huyệt mộ, việc hạ quan tài xuống huyệt, những tiếng khóc, tất cả những điều này làm cho tôi xúc động. Những nghi thức như vậy, vô tình hay hữu ý cung cấp một cách đối diện sau đau buồn của chính mình và một phương tiện biểu lộ nó. Một kinh nghiệm khác đã có ảnh hưởng lớn hơn trong việc làm cho tôi suy ngẫm về vấn đề sự sống và sự chết, là nhìn thấy cảnh thiêu xác chết nhiều năm sau đó ở cạnh bờ sông Hằng, thành phố Benares, Ấn Độ.
Hãy Đợi Cho Tới Khi Sinh Lực
Rời Khỏi Thể Xác
Trong một số tôn giáo, một việc được xem là cần thiết là đợi một thời gian trước khi chôn hay thiêu xác của người chết để sinh lực rời khỏi thể xác. Vì cho tới khi sinh lực rời khỏi xác mà kinh sách Phật Giáo và Ấn Giáo nói là phải mất ba ngày, trước đó cái xác vẫn được xem là còn sống. Những kinh sách này khuyên đừng đụng vào thi hài trước khi sinh lực rời khỏi nó, vì người vừa mới chết vẫn bám giữ vào thể xác của mình. Một Đại sư Tây Tạng ngày xưa còn nói rằng, cắt xẻ hay thiêu xác người chết trước ba ngày sau khi chết là sát nhân.
Tất nhiên điều này làm phát sinh câu hỏi sinh lực đi đâu sau khi chết. Khi được hỏi: “Linh hồn đi đâu khi thể xác đã chết?” Jakob Boehme, nhà huyền học Thiên Chúa Giáo, trả lời: “Linh hồn không cần thiết phải đi đâu.”
Khi một Thiền Sư được hỏi: “Núi, sông và đất liền vì đâu mà có?" Ngài hỏi lại:
“Câu hỏi của anh ở đâu ra?”
Khi được hỏi: “Khi người ta chết, chuyện gì xảy ra?” Thiền Sư Bạch Ẩn hỏi lại: “Tại sao lại hỏi tôi?” “Vì Ngài là một Thiền Sư!” “Phải, nhưng không phải là một Thiền Sư chết!”
Chúng ta hãy nhớ là các Thiền Sư mà tôi đã trích dẫn ở phần trước đã trả lời ít nhiều cùng câu hỏi này. Khi người ta xin Ngài viết một bài kệ trước khi chết, Thiền Sư Nhất Hưu (Ikkyu Sōjun, 1394-1481) là một Thiền Sư Nhật, một nhà thơ, tư tưởng Thiền của Ngài đã ảnh hưởng rất lớn trong nền văn học và nghệ thuật của Nhật Bản) đã viết:
“Ta sẽ không chết
Ta sẽ không đi đâu
Ta sẽ ở đây
Nhưng đừng hỏi ta điều gì cả
Ta sẽ không trả lời.”
Khi Đạo sư Ấn Độ Sri Ramana Maharshi được hỏi là Ngài sẽ đi đâu lúc chết, Ngài đáp:
“Người ta nói ta sắp chết
Nhưng ta sẽ không ra đi
Ta có thể đi đâu?
Ta ở đây....”
Sau cùng, hãy xét đến câu nói của Lục Tổ Huệ Năng (Hui-Neng). Khi Ngài cho biết là mình sẽ rời khỏi thế gian này vào một ngày định trước, nhiều đệ tử của Ngài đã than khóc. Ngài ngạc nhiên và hỏi: “Các con khóc ai đây? Phải chăng là các con lo sợ cho Thầy vì nghĩ rằng Thầy không biết mình sẽ đi về đâu? Nếu Thầy không biết, Thầy đã không rời bỏ các con như thế này. Nếu các con thực sự biết, các con đã không khóc, vì Chân tánh là vô sinh bất tử, không đi không đến...”. (For whom are you crying? Are you worrying about me because you think I don't know where I am going? If I didn't know, I wouldn't be able to leave you this way... If you actually knew, you couldn't possibly cry, because True-nature is without birth or death, without going or coming...)
Tất cả các vị Thầy đang đối diện sự chết này đều không nói rằng mình hay linh hồn của mình, sinh lực hay thần thức của mình sẽ đi đâu sau khi chết. Ngược lại, có những nhà tôn giáo khẳng định một cách giáo điều rằng khi chết, linh hồn sẽ đi lên thiên đường hoặc đọa xuống địa ngục. Ngày xưa người ta nói rằng linh hồn trú ở huyệt mộ hay quan tài của người quá cố hay linh hồn vẫn lẩn quẩn bên nấm mộ. Nhưng các vị Thầy đã khôn ngoan không gọi tên hay cố giải thích. Tại sao không? Một câu hát cổ đã nói lên điều này như sau:
"Kẻ ngu thì cố tìm cách giải thích lý do
Người khôn ngoan thì không bao giờ làm việc đó".
Những Phương Diện Tôn Giáo Của Việc
Hỏa Táng
Những phương diện thần học của hỏa thiêu là gì? Thiên Chúa Giáo, một số giáo phái Tin Lành, Do Thái Giáo và Hồi Giáo chủ trương chôn xác người quá cố chứ không hỏa táng. Theo Bách Khoa Toàn Thư Thiên Chúa (bản in năm 1975), Giáo Hội Thiên Chúa chống lại việc hỏa thiêu “vì hỏa thiêu về mặt lịch sử là một việc làm của sự không tin vào sự bất tử của những người trong những xã hội nào đó, và vì hỏa thiêu là không biểu lộ sự tôn kính thể xác vốn là đền thờ Thánh Linh”.
Còn về Tin Lành thì phần lớn những lời biện luận của các giáo sĩ tương tự như Thiên Chúa Giáo: Hỏa thiêu là tập tục của ngoại đạo và như vậy không phải là tục lệ của Thiên Chúa. Các giáo sĩ khác chống lại việc hỏa thiêu vì họ thấy trong Thánh Kinh không có dạy tục lệ này. Việc mai táng được hỗ trợ thêm bởi tiền lệ là thi hài của Chúa Jesus Christ được an táng trong hầm mộ.
Do Thái Giáo chính thống chủ trương chôn dưới đất vì Thánh Kinh Torah viết “Cát bụi trở về với cát bụi” (“Dust you are and to dust you shall return”. Genesis 3:19). Trong khi đó, Do Thái Giáo tự do nói rằng Thánh Kinh không cấm hỏa thiêu dù chôn dưới đất là tục lệ của người Do Thái thời cổ. Chôn cất được xem là một cách tôn trọng thể xác con người và bảo vệ nó không bị xâm phạm.
Tuy nhiên, ngày nay những tôn giáo này càng ngày càng chịu để cho các tín đồ làm theo ý nguyện của họ là dùng hỏa thiêu. Những lý do được nêu ra là ít tốn kém, mỹ thuật, và vệ sinh. Đặc biệt là khi xác chết biến dạng, tàn tạ vì bệnh tật, hay đã trở nên xấu xí, nhiều người cảm thấy nên hỏa thiêu cái xác đó.
Trong số những tôn giáo Đông Phương, Phật Giáo và Ấn Giáo đều chấp nhận hỏa thiêu. Chính Đức Phật đã được trà tỳ (hỏa táng). Nói chung thì tập quán ở những quốc gia Phật Giáo đều là hỏa táng dù cũng có nơi địa táng. Truyền thống của Phật Giáo Trung Hoa là địa táng (chôn dưới đất), nhưng ngày nay họ cũng dùng phương cách hỏa táng.
Về Ấn Giáo thì hỏa táng đã có ở Ấn Độ từ hai ngàn năm trước Tây lịch. Trong tôn giáo và triết học Ấn Độ, người ta tin rằng lửa hóa giải thể xác thành những nguyên tố đất, nước, gió và lửa, trong khi tịnh hóa thần thức để nó đi tái sinh.
10. TỔ CHỨC TANG LỄ
“Tôi rất muốn chứng kiến tang lễ của mình trước khi chết.”
Maria Edgeworth
Trong nền Văn hóa cổ, tang lễ được xem là một nghi lễ trưởng thành, đánh dấu một sự kiện quan trọng, và có ý nghĩa lớn nhất đối với người quá cố. Nhưng ngày nay người ta thường không nghĩ như vậy. Điều đáng ngạc nhiên là có những cuốn sách viết về sự chết và cái chết, đặc biệt các tác giả tin rằng sự sống vẫn liên tục; nói nhiều về cách giảm đau buồn, nhưng lại không có sự hướng dẫn nào dành cho người quá cố về trạng thái sau khi chết. Tang lễ có thể làm được nhiều thứ để giúp cho người sống trong những mối liên hệ mới của họ với nhau, và giúp người chết hiểu biết về tình trạng của mình; nhu cầu thọ tang và được an ủi là điều quan trọng. Nhưng mục đích chính yếu của tang lễ phải là giúp người quá cố dễ dàng chuyển đổi trạng thái sau khi chết.
Có điều đáng buồn là nhiều người Tây Phương không thích nhiều nghi thức mà họ cho là không cần thiết. Nhưng những nghi lễ được làm với sự thành tâm và sự hiểu biết thì có thể truyền cho người tham dự những chân lý và sự minh triết cổ truyền.
Huston Smith viết:
“Tôn giáo phát sinh từ nghi lễ và sự quan tâm, và khi người ta cảm thấy thích làm lễ và rất quan tâm, họ sẽ tụ họp và làm lễ cúng với nhau. Người ta thích hợp quần, thích những động tác và những trang phục cầu kỳ”.
Nếu những người trong gia đình không tin rằng năng lực tâm thức của người quá cố vẫn còn hiện hữu thì tại sao họ tổ chức tang lễ và sau đó làm những lễ tưởng niệm hay lễ cúng? Ẩn trong tiềm thức, tang lễ phản chiếu một niềm tin, hay một sự hy vọng vào kiếp sau, vốn được quy định bởi nghiệp báo hay luật nhân quả. Vậy tang lễ có thể được xem là phương tiện giúp người quá cố di chuyển dễ dàng hơn từ bên này của sự sống sang bên kia cửa tử.
Tang lễ cho người ta thấy rõ sự chết và cũng là phương tiện bảo tồn và kéo dài mối liên hệ giữa người quá cố, gia đình và cộng đồng. Nếu không, tại sao lại có nghi thức tụng kinh, hát, ban phước, cầu nguyện và giảng đạo cho sự an nghỉ nghìn thu của linh hồn bởi các tu sĩ và các chức sắc tôn giáo? Phải chăng tang lễ và sự hiện diện của những người thọ tang nói lên điều họ cũng tin rằng tinh thần của người quá cố vẫn còn hiện hữu trong một hình thức nào đó? Tang lễ là một cuộc tiễn đưa hay là một sự xóa bỏ? Tại sao gia đình lại làm nghi lễ cầu kỳ này nếu họ tin rằng người quá cố chỉ là một cái xác không hồn?
Lyall Watson nói về ý nghĩa sâu xa của tang lễ như sau:
“Mỗi tang lễ ẩn chứa ý nghĩa chết không phải là hết, và cái chết đánh dấu một loại di chuyển. Khi nghiên cứu về người Mã Lai và sự chết, Robet Hertz cho thấy sự chết không được xem là một sự chấm dứt, mà là một giai đoạn phát triển dần dần. Người Mã Lai và nhiều dân tộc khác nhận thấy tiến trình chết bắt đầu sớm trong cuộc đời, và niềm tin này được phản chiếu trong lối nghĩ và lối hành động của cộng đồng của họ. Đối với họ cái chết là một giai đoạn chuyển tiếp, một dấu hiệu cho thấy thi hài nên được xử lý với một cách nào đó. Trong xã hội của chúng ta, lý do độc nhất của việc trì hoãn hai hay ba ngày giữa lúc chết và giải quyết thi hài là để sửa soạn mọi việc và mọi người có thời giờ tập hợp.”
Trong một số tôn giáo, đặc biệt là Phật Giáo, mục đích chính yếu của tang lễ không phải chỉ là làm lễ cho người quá cố hay an ủi tang gia, mà còn làm cho người trong cõi trung ấm biết tính chất thật của sự sống và sự chết. Những tang lễ nghiêm trang có một mục đích quan trọng khác: Làm cho chúng ta suy nghĩ một cách tỉnh táo về cái chết của chính mình.
Tang Lễ
Những gia đình theo một tôn giáo nào đó có thể cung thỉnh một Giáo sĩ làm tang lễ trong một nhà thờ hay chùa, nhưng một tang lễ, lễ tưởng niệm hoặc lễ cúng có hiệu quả có thể được làm ở bất cứ chỗ nào, có hay không có mặt của Giáo sĩ. Những tang lễ được mô tả ở phần sau không thuộc riêng tôn giáo nào mà vẫn có thể thích hợp với những người không theo tôn giáo nào hay cả những người theo duy vật. Việc tụng đọc bài “Bát Nhã Tâm Kinh”, bài cầu nguyện tang lễ, bài Kệ Hoa (Flowers Poem) chính yếu là để làm lợi ích cho người quá cố. Việc tưởng niệm người quá cố là để an ủi thân nhân và bạn bè. Có thể thêm vào tang lễ những bản nhạc, thơ, những lời cầu nguyện và những thi thiên, hay cả những vũ khúc, tùy theo tuổi tác và cá tính của người quá cố, vì có thể tùy thuộc vào hoàn cảnh.
Tang lễ còn là lễ ghi nhận trong đó có quan tài của người quá cố, và lễ tưởng niệm thì không có quan tài. Trong Phật Giáo, tang lễ và các lễ cúng tuần thất trong vòng bốn mươi chín ngày, là việc liên tục làm cho người quá cố biết tính chất thật của sự sống (của tâm thức sau khi bản thân đã tắt thở). Như vậy, lễ cúng là tang lễ thu nhỏ. Tụng niệm cầu siêu luôn luôn là việc làm quan trọng trong bốn mươi chín ngày. Những nghi thức này được thực hiện sau bảy ngày tính từ ngày qua đời và lập lại sáu tuần kế tiếp. Khi cử hành lễ hòa hợp với chu kỳ sinh tử bảy ngày trong trạng thái trung gian, những nghi thức này có mục đích làm thức tỉnh tâm trí của người quá cố trước khi người đó tái sanh vào cõi giới kế tiếp.
Những nghi thức cúng bốn mươi chín ngày là không thể thiếu, ngay cả khi cái chết tới do tai nạn bất ngờ, nạn nhân không có sự sửa soạn tâm trí, hay khi cái chết tới trong lúc đang ở nơi xa xôi, hẻo lánh và thi hài hay tro cốt không có ở tang lễ. Một tấm ảnh chân dung của người quá cố, sẽ có ý nghĩa lớn trong việc giúp những người dự lễ tập trung năng lực hướng về người quá cố. Sự tập trung này sẽ giúp cho người quá cố gia tăng sức mạnh tâm linh của mình.
Thân nhân của người quá cố nên dự tang lễ cũng như những lễ cầu siêu khác trong vòng bốn mươi chín ngày để tái khẳng định mối liên hệ nhân duyên của mình với người quá cố, và như vậy họ sẽ bớt cô đơn và sự hiện diện của họ trở nên ích lợi cho người chết. Tâm của người chết và tâm của người sống vốn có sự tương thông với nhau, nên sự cầu nguyện, hồi hướng công đức siêu độ, sẽ có tác động thật sự để giúp người thân của mình đi tái sanh vào cõi giới khác.
Tang lễ của Marie, một bé gái sáu tuổi
Tang lễ này được tổ chức cho một em bé gái sáu tuổi, qua đời do bị ngộp thở vì khói. Cha mẹ của em không theo tôn giáo nào nhưng cũng tin tưởng một phần nào đó trong giáo lý của Ấn Độ Giáo, Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo. Vào buổi sáng sau khi Marie chết, cha mẹ của em mời tôi (Lão Sư Philip Kapleau) đến giúp tổ chức và hướng dẫn tang lễ cùng với mấy người khác, tôi thiết trí một bàn thờ đơn giản với một ảnh chân dung lớn của bé Marie, hoa, nến và mấy món ăn mà em bé ưa thích lúc còn sống. Ở trước bàn thờ, Marie nằm trong một chiếc quan tài được làm ở nhà.Buổi lễ bắt đầu, tôi nói với mọi người rằng mục đích chính của tang lễ này là hỗ trợ cho bé Marie, và có thể làm được việc này bằng cách mọi người hướng tình thương của mình về Marie qua những lời tụng niệm thành tâm và do đó cầu nguyện huệ lực của các thánh nhân gia hộ cho Marie trong hành trình di chuyển khó khăn tới cõi bên kia. Tôi cũng nói rằng người ta thường xem cái chết của trẻ em là điều bi thảm, nhưng chúng ta không có lý do gì để cảm thấy đau buồn, vì Marie đã sinh ra đời khi em cần sinh ra và đã chết khi em phải chết, nghiệp quả của em cho kiếp này đã hết, dù em còn nhỏ tuổi.
Kế tiếp, tất cả mọi người tụng bài “Tâm Kinh Bát Nhã” trong khi một người đánh trống và một người khác đánh một cái cồng nhỏ có hình chén để giữ nhịp.
Sau đó chúng tôi tụng một bài cầu nguyện ba lần, nguyện cầu chư Phật, chư Bồ Tát từ bi gia hộ và tiếp độ Marie. Tôi tụng trước mỗi câu và mọi người lập lại:
“Xin các đấng từ bi
Trụ ở mười phương
Có lòng từ bi lớn,
Phù hộ cho chúng sinh
Qua lực từ bi lớn
Tiếp nhận lời nguyện này
Chấp nhận lễ vật này
Được dâng cúng ở đây
Xin các đấng từ bi
Có trí tuệ và từ bi
Có oai lực làm những việc siêu diệu
Và oai lực phù hộ vô tận
Marie đã đi khỏi thế gian này tới cõi khác
Em đã đi một bước lớn
Ánh sáng của thế gian này đã phai tàn đối với em
Em đã đi vào cõi im lặng bao la
Em đã được biển lớn mang đi
Xin các đấng từ bi
Gia hộ Marie vốn không thể tự giúp mình
Xin hãy giống như cha mẹ của em
Xin các đấng từ bi
Với lực từ bi phù hộ cho em
Xin hãy làm như các Ngài đã phát nguyện.”
Sau bài cầu nguyện trên là “Bài Thơ Hoa” sau đây dành cho Marie:
“Thế gian là một bông hoa
Các vị Thần là những bông hoa
Các đấng giác ngộ là những bông hoa
Vạn vật là những bông hoa
Hoa đỏ, hoa trắng, hoa xanh,
Hoa vàng và hoa đen,
Đủ màu hoa, đủ loại tình thương chiếu tỏa
Đời sống nở ra từ đời sống và trở về đời sống
Hoa mừng vui, hoa buồn tủi
Hoa đau khổ, hoa an lạc
Hoa của nụ cười, hoa của sân hận
Hoa của thiên đường, hoa của địa ngục
Tất cả đều liên quan với nhau
Và mỗi hoa làm cho những hoa khác bừng nở.
Khi con mắt của chân tâm
Mở ra thế giới những bông hoa này
Chúng sinh đều tỏa sáng
Tiếng nhạc vang lừng khắp núi và biển
Thế giới của mình trở thành thế giới của mọi người
Cá nhân trở thành loài người
Chúng sinh trở thành cá nhân
Tức vô số tấm gương phản chiếu mỗi tấm gương khác
Này Marie, có sự chết và có sự sống
Không có sự chết và không sự sống
Có sự sống biến đổi, có sự sống bất biến
Những bông hoa cũng đổi màu từng khoảnh khắc.
Thật là một thế giới sinh động! Và em thật là sáng!
Marie, em