Hòa Thượng THÍCH NHƯ ĐIỂN
Mối Tơ Vương của
Huyền Trân Công Chúa
(Phóng tác lịch sử tiểu thuyết
vào cuối đời Lý đầu đời Trần)
Phật lịch 2.562 – Mậu Tuất 2018
Xuất bản năm 2018
Mục Lục
Lời Dẫn Nhập
Chương I Nỗi niềm đơn độc của Vua LÝ HUỆ TÔNG
Chương II TRÔNG VỜI CỐ QUỐC
Chương III Chốn Kinh Thành
CHƯƠNG IV Nhà VuaTRẦN NHÂN TÔNG
Chương V TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ
Chương VI HƯNG ĐẠO VƯƠNGTRẦN QUỐC TUẤN
CHƯƠNG VII CÔNG CHÚA HOÀNG TRIỀU
CHƯƠNG VIII NGÀN DẶM GIÓ SƯƠNG
CHƯƠNG IX MỐI TƠ VƯƠNG DẦN HIỆN
CHƯƠNG X TƠ TRỜI AI DỆT?
CHƯƠNG XI CÔNG CHÚA VU QUY
CHƯƠNG XII CÁI TANG CHUNG
CHƯƠNG XIII HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA THẾ PHÁT XUẤT GIA
TẠM KẾT
BƯỚC ĐI VÀO LÒNG MUÔN DÂN - NGUYỄN HIỀN ĐỨC
LỜI BẠT - NGUYỄN HIỀN ĐỨC
Bắt đầu viết quyển sách nầy vào ngày 16 tháng 2 năm 2017
tại Tu Viện Viên Đức, Ravensburg - Đức Quốc
Lời Dẫn Nhập
Xin vô vàn niệm ân tất cả những ai đã quan tâm đến tác phẩm nầy trong nhiều năm tháng qua, khi tôi có dịp giới thiệu với quý vị ở đâu đó qua những buổi giảng, hay những câu chuyện bên lề của một cuộc hội thoại nào đó. Tuy nhiên vẫn có một số vị vẫn muốn biết vì sao tôi viết tác phẩm phóng tác lịch sử tiểu thuyết nầy. Dĩ nhiên là không nói ra, khi xem sách hay xem tuồng cải lương nầy do soạn giả Giác Đạo Dương Kinh Thành ở Việt Nam biên soạn thì độc giả sẽ hiểu nhiều hơn, nhưng có nhiều vị xem dùm tôi trước khi in ấn đều mong rằng nên có lời dẫn nhập để tác phẩm nầy hoàn chỉnh hơn. Đây là lý do để tôi viết những dòng chữ nầy.
Đứng về phương diện lịch sử của Dân Tộc và lịch sử của Phật Giáo Việt Nam, chúng ta nên học và nên có cái nhìn tổng quát qua một thời đại, cũng không nên chỉ đứng về phương diện Quốc Gia mà quên đi phương diện Đạo Pháp thì cũng không nên, vì lẽ thuở bấy giờ cả Nhà Lý hay Nhà Trần đã trải qua gần 400 năm của lịch sử Đại Việt (1010-1225 và 1226 -1400) hầu như các bậc quân vương không nhiều thì ít đều có gắn bó với cửa chùa trước khi lên làm vua như Lý Công Uẩn, hay sau khi làm vua rồi tìm cách bỏ ngôi báu để đi xuất gia tìm Đạo như Vua Lý Huệ Tông, Trần Cảnh, Trần Nhân Tông v.v… như vậy Vua cũng là họ, Phật Tử cũng là họ và Thiền Sư cũng là họ. Đây cũng có thể là sự biểu hiện trong lý nhân duyên sinh trong Kinh Hoa Nghiêm là: “Trùng trùng duyên khởi và trùng trùng biến hiện”, vì cái nầy sanh nên cái khác cũng sanh và cái nầy diệt thì cái khác cũng diệt. Nguyên lý duyên sanh nầy không còn, không mất, mà nó chỉ là một sự thay đổi vị trí mà thôi. Dĩ nhiên không phải vì tôi là một Tăng sĩ, nên xây dựng cái nhìn những triều đại nầy phải là Phật Giáo tất cả, nhưng cũng chính nhờ Phật Giáo làm nền tảng của hầu hết trong nhiều sự hành hoạt của vua tôi Nhà Lý cũng như Nhà Trần, trong ấy có cả cái rất tốt và không thiếu nhiều cái xấu xa. Tuy vậy, lịch sử vẫn là lịch sử. Chúng ta không có quyền bẻ cong ngòi bút để viết theo những thói thị phi thường tình… Dĩ nhiên, nếu tôi có viết cho tốt hơn về một Triều Lý hay Triều Trần, cũng không vì thế mà các vị vua hay hoàng tộc của họ tốt hơn và dẫu cho những sử gia nào đó không thích Phật Giáo và cứ chê bai điều nầy điều nọ thì cũng không vì thế mà triều đại xấu đi. Ở đây tôi chỉ mong một điều là hãy hiểu đúng lịch sử của từng giai đoạn như vậy.
Đã có nhiều tiểu thuyết và kể cả truyền hình trong hiện tại thổi phồng mối tình của Thượng Tướng Trần Khắc Chung và Huyền Trân Công Chúa khi được Vua Trần Anh Tông cử sang Chiêm Thành để rước em ruột của mình về lại quê hương Thăng Long của Đại Việt. Nhưng không ngờ vào mùa Hạ năm 1306 ấy có lẽ giông bão nhiều hay gió nồm chưa thổi, nên đoàn thuyền của Huyền Trân Công Chúa đi từ cửa biển Thị Nại ở Quy Nhơn về đến Thăng Long mà phải mất hơn 10 tháng trời, nên tạo ra những nghi ngờ khiến cho những người làm tuồng tích, có dịp thêm mắm dặm muối vào để cho câu chuyện được hấp dẫn hơn. Nhưng với tôi cách lập luận như thế chưa vững và tôi vì những lý do sau đây mà tạo nên quyển tiểu thuyết “Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa”nhằm trả lại những gì của sự thật phải là sự thật, chứ không thể là những sự phán xét, nghi ngờ của những sự suy đoán phàm tình.
Nhưng ảnh hưởng và uy tín của Trần Khắc Chung đối với Đạo Phật cũng như đối với triều đình nhà Trần không phải là ít. Lúc 6 tuổi Trần Khắc Chung đã được gia đình gởi vào chùa Huyền Giác ở núi Chí Linh để nhờ Sư Trụ Trì ở đó dạy dỗ. Khi lớn lên Ông tu Thiền và cũng đã viết lời bạt cho tập “Tuệ Trung Thượng Sĩ”do nhà Sư Pháp Loa biên tập và Vua Trần Nhân Tông hiệu đính. Nếu chỉ nhìn ở phương diện nầy không thôi thì Trần Khắc Chung là người nhất định phải có đạo đức tuyệt hảo và Phật học phải thâm hậu.
Với đời thường thì Ông là người khoa bảng, đỗ Bảng Nhãn năm thứ ba đời Trần Thánh Tông. Ông cũng đã giữ nhiều chức vụ khác nhau và quan trọng trong 4 triều đại (Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, Trần Minh Tông và Trần Hiến Tông). Ông cũng là người trực tiếp giảng dạy, đào tạo cho 12 vị Tiến Sĩ ở làng Gốm, xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, được gọi là làng Quan Tử. Sau nầy dân làng nầy thờ Trần Khắc Chung như là một vị Thành Hoàng.
Trong sách nầy có chia ra làm hai phần. Phần trước thuộc về cuối triều Lý, đầu triều Trần và phần sau chỉ riêng nói về nhân duyên của Huyền Trân Công Chúa cũng như mối tơ vương làm sao nên nổi ấy. Nếu Quý Vị nào nôn nóng muốn đọc thì cũng có thể xem phần sau trước và phần trước đọc sau cũng không sao cả. Vì cả hai phần trong 13 chương sách nầy đều có bố cục và sự liên hệ mật thiết với nhau. Sở dĩ tác giả phải viết vậy, vì lẽ nếu không có tích thì sẽ không diễn thành tuồng được; cho nên nguồn gốc của sự kiện vẫn là những điều cốt yếu mà người đọc sách cũng cần phải tham khảo thêm mới trở thành hữu ích. Nếu không có Lý Chiêu Hoàng thì triều Trần cũng khó cướp được ngôi qua mưu toan của Trần Thủ Độ. Nếu không có Trần Thái Tông thì cũng không có Khóa Hư Lục để lại cho đời và nếu không có Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông thì cũng sẽ không có câu chuyện của Huyền Trân Công Chúa và hai châu Ô, Châu Lý. Ngoài ra còn có sự kiện ra đi tỵ nạn của Hoàng Tử Lý Long Tường, khiến cho chương ”trông vời cố quốc” làm cho nhiều người tỵ nạn ngày nay thương cảm đến nghiệp dĩ của mình nhiều hơn và các chương khác về Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cũng không thể thiếu được trong quyển sách nầy.
Kính mong Quý độc giả hãy rõ ý, quên lời thì tác phẩm “phóng tác lịch sử tiểu thuyết” nầy sẽ giúp cho Qúy Vị có một cái nhìn tương đối khách quan hơn khi nhìn về Huyền Trân Công Chúa của một thời xa xưa đã đi vào lịch sử của Dân Tộc và của Đạo Phật Việt Nam.
Viết xong vào một sáng mùa Xuân năm 2018.
Chương I
Nỗi niềm đơn độc của Vua
LÝ HUỆ TÔNG
Tuy là một vị Hoàng Đế của Triều Lý, nhưng Vua Huệ Tông đã chấp nhận nếp sống Thiền môn một cách nghiêm mật với hạnh đầu đà, nhất là sau khi xuất gia vào tháng 10 năm 1224 tại Chùa Bút Tháp và được Sư phụ ban cho Đạo hiệu là Huệ Quang. Đầu cạo nhẵn, áo nâu sồng đã sờn vai và nếp nhăn đã hiện rõ lên trên vầng trán vốn dĩ thông minh, dõng kiệt một thời. Lúc ấy Huệ Tông vừa đúng 30 tuổi, lứa tuổi năng động của một thanh niên cường tráng đầy nhiệt huyết, tinh nhuệ cả văn lẫn võ, nhưng Huệ Tông phải nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng mới tròn 8 tuổi để đi xuất gia, quả là điều có một không hai của những bậc đế vương, từ trước đến nay chỉ có trong triều đại Nhà Lý.
Nhiều đêm sau khi thiền tọa, ông đến bên chiếc đơn cô lẻ để tựa người nằm xuống đó, mà không sao chợp mắt được, bởi lẽ có quá nhiều vấn đề khiến ông phải suy tư hồi tưởng lại, và cứ thế ông để mặc cho tư tưởng trôi ngược dòng đời cho đến khi lịm dần vào giấc ngủ. Trong khi ngủ cũng có lắm điều mơ, lúc thì làm vua ban chiếu chỉ, lúc đánh giặc, lúc bên người vợ hiền Trần Thị Dung và cả khi bị thúc ép bởi Trần Thủ Độ. Việc ông xuất gia là điều không tránh khỏi, khi không muốn mình bị một cái chết oan khiên được bày ra bởi Trần Thủ Độ.
Bút Tháp là một ngôi chùa và trong ấy có xây một ngọn tháp cao, vươn lên tận trời xanh có hình như cây bút, nên gọi là Bút Tháp. Tương truyền rằng chùa nầy đã có từ thời Ngài Khương Tăng Hội có mặt tại đất Giao Châu từ năm 280, nghĩa là đã hiện hữu trên dưới 1.000 năm rồi. Do vậy ngôi chùa có một vị thế rất đặc biệt và nhiều vua chúa, hoàng thân, quốc thích hay ngay cả dân dã bình thường cũng hay lui tới chốn trang nghiêm nầy. Đây là một phước báu của triều đình đã tiếp nối được hạt giống Thánh từ Thiên Trúc truyền qua cả hơn 1.000 năm nay. Cho nên Huệ Quang Thiền sư rất an ổn khi phát tâm bỏ tục xuất gia và thực hành nhiệm vụ của người Tăng sĩ nơi chốn Già lam nầy. Bình thường ở nơi cung cấm thì ông luôn có kẻ hầu người hạ. Kẻ bưng cơm, người rót nước, kẻ rửa mặt, người đưa khăn... Những điều kiện như thế không còn trong tầm với nữa, mà ông đã chấp nhận một cuộc sống đơn lẻ tại chùa nầy vì nhiều lý do khác nhau.
Triều Lý kể từ khi khai mở triều nghi từ năm 1010 đến thời điểm này, kể ra cũng đã hơn 200 năm lịch sử. Qua tám đời vua, vua nào cũng có con trai để nối dõi hoàng tộc, nhưng đến đời Lý Huệ Tông chỉ có 2 con gái, nên vua phải phong vương cho Lý Chiêu Hoàng khi vừa tròn 8 tuổi. Cái tuổi thơ ngây khờ dại đâu biết gì, nhưng vì tứ bề thọ địch và nhất là bị sức ép của Trần Thủ Độ, nên Huệ Tông phải nhường ngôi cho con mình khi ông chỉ mới 30 tuổi để lên làm Thái Thượng Hoàng, rồi đi tu. Ngoài ra ông cũng đã gả chị gái của Chiêu Hoàng cho Trần Liễu nữa, đây là người anh em chú bác với Trần Thủ Độ. Nhìn xa rồi lại nhìn gần, cơ nghiệp của Nhà Lý đâu còn gì nữa mà trông, vì chung quanh ông toàn là những nịnh thần hay những người luôn muốn tạo phản để chỉ mong mang mối lợi về cho bản thân hay dòng tộc. Tuy Trần Thủ Độ ác độc, mưu thần chước quỷ không ai lường nổi, nhưng Trần Thị Dung, người chị con nhà bác của Trần Thủ Độ đã một thời làm vợ Vua Huệ Tông và rất được sủng ái, nên trong cái họa diệt vong mất nước mà bên mình vẫn còn người đầu ấp tay gối Trần Thị Dung, nên mọi an nguy của xã tắc Huệ Tông đều hững hờ, cứ để cho thế sự xoay vần đến đâu thì hay đến đó. Bởi chính bản thân ông không đủ tài cán và chung quanh cũng không tìm ra người tâm huyết để giúp lèo lái con thuyền quốc gia đại sự đến được nơi chốn an bình, cho dân chúng an cư lạc nghiệp. Nên “một liều ba bảy cũng liều”.
Dẫu cho muốn được yên ở chùa, nhưng nào có yên đâu, vì Bút Tháp vốn là chốn linh thiêng, nên ngày nào cũng có người ra vào lễ bái tấp nập. Trần Thủ Độ nghi ngờ sẽ có người lợi dụng việc nầy mà sàm tấu chuyện triều ca khi mộng của ông chưa thành. Nghĩa là phải lật đổ Nhà Lý, dựng ngôi Nhà Trần, qua hình ảnh của Trần Cảnh, vốn là anh nhà bác trong gia tộc của mình. Cho nên Trần Thủ Độ thấy chưa an tâm, liền cho người đến Chùa Bút Tháp khuyên Thiền sư Huệ Quang dời đến Chùa Chân Giáo, vốn gần gũi chốn kinh kỳ của đất Thăng Long nghìn năm văn vật, nhằm dễ kiểm soát những hành tung của Huệ Quang hơn và cố chặt đứt hết chân tay của con cháu nhà họ Lý thì lúc ấy Trần Thủ Độ mới an tâm được.
Một hôm Trần Thủ Độ mượn cớ đi lễ chùa, khi đi ngang qua sân cỏ trước vườn chùa, Thủ Độ thấy Thiền sư Huệ Quang đang lui cui nhổ cỏ.
Thủ Độ hất hàm bảo:
- Nhổ cỏ thì phải nhổ cả rễ sâu.
Huệ Quang đáp rằng:
- Điều ngươi nói ta đã hiểu rồi.
Một ông vua khôn ngoan như thế, nhưng ở vào lúc thế cùng vào chùa tu niệm cũng chẳng an thân và tự nghĩ rằng: Ngày xưa vì tin duyên nợ, nên để Trần Thị Dung về làm vợ mình, nhưng nào ngờ đâu, đây cũng là nguyên nhân để cho Trần Thủ Độ ép ta vào ngõ bí. Mặc dầu Thái hậu đã bao lần can ngăn bảo hãy diệt Trần Thị Dung đi, nhưng ta nào có nghe, khi mà ái tình mê muội đã làm quên đi chữ hiếu và cái nhục của xã tắc sơn hà, nên ngày nay ta đã mất cả ngôi báu và cả thần dân trăm họ. Ôi cái tình! Đúng là “cái chi chi”. Ai mà hiểu, mà làm chủ được khi yêu. Cho nên trong Thập nhị nhân duyên, Phật đã dạy tự ngàn xưa, tuy bắt đầu bằng Vô minh, nhưng nếu không tiêu trừ ái dục trước được, thì vòng luân hồi vẫn còn luẩn quẩn đâu đây! Điều ấy thật là chính xác. Cái điều mà Trần Thủ Độ nói chỉ là muốn ta dẹp hết con cháu Nhà Lý thôi, chứ làm sao hiểu sâu như lời Phật dạy là nhổ cho hết cỏ vô minh vốn đã nhiễm sâu nơi cội rễ của mọi người, đó mới là điều đáng nói. Bây giờ thì ta đã an bần lạc đạo, còn mong gì ở chốn triều ca nữa. Ngày xưa Trần Thủ Độ còn rập mình nhìn trước ngó sau tại chốn cung son, sau đó vì ta sủng ái Thị Dung nên đã cất nhắc y lên đến chức Điện tiền Chỉ huy sứ, nắm trong tay không biết bao nhiêu là quyền bính, vào ra tự tại nơi chốn cửu trùng không ai dám hé miệng hở môi. So ra ngày ấy và ngày nay khác xa nhau nhiều lắm.
Khi Thủ Độ rời chùa, Thiền sư Huệ Quang tìm cách tự tử và trước khi chết, Huệ Quang nói rằng: “Thiên hạ ngày nay đã vào tay ngươi, ngươi lại giết ta, ngày sau đến khi thác con cháu ngươi cũng sẽ bị như thế”. Đó là lời nói sau cùng của Thiền sư Huệ Quang vào ngày 3 tháng 9 năm 1226 tại Chùa Chân Giáo, thọ mệnh 33 tuổi, qua 14 năm làm vua, 2 năm làm Thái Thượng Hoàng và hai năm xuất gia ở Chùa Bút Tháp và Chùa Chân Giáo. Thông thường với một người đã bỏ tục xuất gia là quên đi tất cả những lụy phiền của cuộc sống trước đó mới vào chùa. Tuy nhiên việc của Huệ Tông là chuyện của một triều đình, không phải chỉ là chuyện ăn cơm, uống nước của thiên hạ hằng ngày, nên Vua Huệ Tông tự tìm cho mình một cái chết cho kẻ sống an lòng dễ hoành hành, để cho cái lợi danh làm chủ, rồi cuối đời của Trần Thủ Độ cũng sẽ như thế thôi. Cho hay nhân quả của nhà Phật không vị tình hay nể trọng một ai, dầu cho đó là một đấng quân vương quyền cao lộc cả, hay là một người hạ tiện bình dân. Tất cả đều bị luật vô thường và nhân quả chi phối. Không ai là kẻ được ngoại trừ.
Thiền sư Huệ Quang sinh năm 1194 và mất năm 1226, thọ 33 tuổi, là thái tử, con của Vua Lý Cao Tông. Ông nối ngôi Vua Lý Cao Tông vào năm 1210. Lúc ấy ông đã 16, 17 tuổi. Cái tuổi của sự trưởng thành nơi cung cấm cũng như đối với nhân gian. Chỉ làm vua 14 năm thôi, nhưng cả cuộc đời của ông đều ghi lại đậm nét cho bao nhiêu chuyện phế hưng của lịch sử cũng như của một triều đại huy hoàng dựng nước đã 200 năm như thế. Ông tên thật là Lý Sảm hay Lý Hạo Sảm. Chữ Sảm nếu viết theo chữ Hán thì ở trên chữ“nhật”và ở dưới chữ “sơn”. Nếu định nghĩa theo lối nói nhân gian thì mặt trời đã xuống đến núi, nghĩa là hoàng hôn đã đến và báo hiệu cho một triều đại sắp đổi thay.
Năm 1217 qua nhiều sức ép khác nhau từ trong cung cấm ra đến chốn triều ca, ông đã bị điên loạn. Điều ấy có thể tin được, vì lẽ ông không chịu đựng nổi sức ép từ Trần Thủ Độ mà ông phải đơn độc một mình gánh lấy, mặc dầu con gái của Trần Lý là Trần Thị Dung luôn ở bên cạnh ông. Với nhan sắc quyến rũ ấy đã làm lung lạc tâm thần của một đấng quân vương khi tuổi đời còn non trẻ. Nhiều khi ông cột tóc lại và trên búi tóc ấy có cắm cây cờ lệnh, rồi rong chơi đây đó để quên đời. Có lúc ông thốt lên rằng:
“Ta đây là tướng của trời.
Hôm nay giáng thế cho người sợ oai”
Dĩ nhiên làm vua phải oai hơn người điên chứ, nhưng người điên muốn nói gì thì nói, chứ làm một đấng quân vương, ngồi trên cả muôn dân, đâu phải muốn làm gì thì làm, muốn nói gì thì nói đâu? Cho nên đôi khi điên cũng có lợi. Đây là cái cớ để ông mạt sát Trần Thủ Độ chăng? Trong thời gian tao loạn ấy bà Trần Thị Dung bị giáng xuống làm ngự nữ và một thời gian sau lại được Vua Lý Huệ Tông lập lại làm Thuận Trinh phu nhân mà năm 1216 bà đã là Hoàng hậu. Đàm Thái hậu, mẹ của Vua Huệ Tông rất ghét bà Trần Thị Dung, vì Thái hậu biết chắc rằng qua quân sư Trần Thủ Độ lại có Trần Thị Dung, vốn là Hoàng hậu được Vua Huệ Tông sủng ái, nên không sớm thì muộn sơn hà xã tắc của Triều Lý sẽ bị lọt vào tay Nhà Trần. Đã bao lần bà khuyên can Vua Huệ Tông là nên giết Trần Thị Dung đi, nhưng Vua không nghe. Có phải chẳng qua vì chữ ái và sắc đẹp làm cho Vua mù quáng như thế, để rồi phải giả điên, giả dại, giả khờ che mắt thiên hạ để nói lên những điều mình muốn nói, nhưng không thể nói lên sự thực được khi mình đường đường là đấng quân vương chăng?
Trong thời gian nầy có Thái sư Đàm Dĩ Mông, vốn là người của Đàm Thái hậu, nhưng tánh tình ông cũng nhu nhược, thiếu học thức. Tuy làm quân sư cho cả một triều đình mà giặc từ bên trong lẫn bên ngoài đang chờ sẵn tại đó, nhưng ông cũng chẳng khuyên can hay mưu kế được gì, để cho vua phải một phen dở sống, dở chết như vậy. Thời đó thiên hạ chê cười vua thì ít mà kết án bầy tôi, quần thần thì nhiều với những kẻ chịu ơn vua lộc nước, bổng lộc đầy nhà, nhưng khi việc khó đến thì ai ai cũng thủ khẩu như bình. Xét ra xưa nay ở đâu cũng đều như vậy cả.
Lý Chiêu Hoàng tức là Công chúa Phật Kim, sinh vào tháng 9 năm 1218 và mất tháng 3 năm 1278. Bà nầy là Nữ vương đầu tiên cũng như cuối cùng của Đại Việt kể từ khi lập quốc, cho đến khi triều đại vua chúa không còn hiện hữu nữa vào thời điểm năm 1948. Lý Huệ Tông sinh bà ra trong hoàn cảnh của đất nước tang thương và mới một năm sau khi Vua giả điên. Có giả thuyết cho rằng ngày nay chúng ta thấy hình tượng một vị vua mang hia đội mão của một đấng quân vương, hai tay cầm một cái hốt và đang quỳ mọp xuống, trên lưng là một tượng Phật ngồi. Đây có phải là một hình thức do vua Huệ Tông tạo ra để sám hối cho bản thân mình và cầu cho con gái của mình sớm mau ăn, chóng lớn, cũng như hối lỗi cho sự giả điên của mình để cho trong ngoài cung cấm đều không phải dị nghị chăng?
Lúc Chiêu Hoàng 7, 8 tuổi, Trần Thủ Độ đã cho Chiêu Hoàng chơi chung với Trần Cảnh, là người ban đầu chỉ có nhiệm vụ mang thau nước và khăn lau cho Chiêu Hoàng rửa mặt khi ngủ dậy hay đi đâu về, nhưng dần dần hai trẻ nầy chơi với nhau thật thân mật khiến cho Trần Thủ Độ đắc ý lắm. Trong tâm ông đã sắp đặt sẵn, nếu để cho hai trẻ càng gần nhau trong gang tấc giữa trai gái hằng ngày, thì trước sau gì lửa gần rơm cũng sẽ bén. Quả thật vậy! Ngoài những toan tính ra, Thủ Độ còn cho Trần Cảnh và Chiêu Hoàng ở riêng với nhau, đến khi được tấu trình tự sự thì Thủ Độ chỉ cần thông báo với triều đình là Trần Cảnh và Chiêu Hoàng sẽ trở thành vợ chồng. Điều ấy chắc quan văn, quan võ cũng biết, Đàm Dĩ Mông cũng rõ ngọn ngành. Đàm Thái hậu ghét cay ghét đắng, tự hỏi làm sao mà cháu nội của mình mới 8 tuổi đã bị ép duyên như thế? Đám cưới nầy do Trần Thủ Độ dựng lên chứ Huệ Tông và cả Thái Hậu đều không biết, chỉ ngao ngán chấp nhận chuyện đã rồi mà thôi. Lúc nầy thì Thủ Độ có cớ để bắt Vua Lý Huệ Tông nhường ngôi chính thức cho Lý Chiêu Hoàng vào năm 1224. Bà ở ngôi Hoàng Đế cho đến năm 1225, nghĩa là chưa được 2 năm. Ngôi vị ấy đã nghiễm nhiên lọt vào tay Nhà Trần, mà người đắc ý nhất không phải là Trần Cảnh, mà là Quân sư Trần Thủ Độ, người đã bày ra bao nhiêu mưu lược để mang lại giang sơn gấm vóc cho gia tộc họ Trần. Trần Cảnh hay Lý Chiêu Hoàng chỉ là một hoạt cảnh trong bao nhiêu hoạt cảnh khác về sau nầy trong lúc Trần Thủ Độ còn sống mà thôi.
Đến năm 1237 Lý Chiêu Hoàng chính thức bị truất phế vì không có con trai để nối dõi tông đường, mặc dầu trước đó bà đã có một người con trai với Trần Cảnh nhưng bị yểu mạng chết non. Vì ngôi vua phải có người thừa kế về sau nầy nên Trần Thủ Độ tìm mọi cách để truất phế Lý Chiêu Hoàng, chính thức đưa Lý Thuận Thiên, vốn là chị ruột của Lý Chiêu Hoàng lên làm vợ của Trần Cảnh, được tấn phong là Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng hậu. Riêng Lý Chiêu Hoàng, bà ở vậy đến năm 1258 thì chính thức lấy Lê Phụ Trần sinh được một con trai và một con gái. Như vậy điều không con của Lý Chiêu Hoàng chỉ do Trần Thủ Độ kiếm cớ mà thôi. Vì Thủ Độ chỉ mong sao thấy được sơn hà xã tắc nầy có người kế vị, nên một lần nữa lại nhẫn tâm ép Trần Cảnh phải lấy cái bào thai của chị dâu mình, vợ của Trần Liễu, làm con trai mình. Nếu Trần Thủ Độ không nóng lòng thì trước sau gì Chiêu Hoàng cũng sẽ sinh cho Trần Cảnh một người con trai để nối dõi ngôi Nhà Trần, như sau khi bà tái giá với Lê Phụ Trần. Có như vậy người đời mới xem Trần Thủ Độ là một người mưu mô khét tiếng, không phải tạo cơ hội cho mình làm vua, mà ông đã tố một ván bài đã lật ngửa hoàn toàn với những tinh binh dễ sai dễ khiến. Ông làm vậy cốt cũng chỉ vì Nhà Trần, nhưng vết nhơ nầy ai sẽ rửa sạch cho ông đây?
Sử chưa chấm dứt tại đó. Sau khi Lý Huệ Tông đi xuất gia ở Chùa Bút Tháp vào năm 1224, thì Trần Thủ Độ cho Trần Thị Dung trở thành cung nữ và mang về làm vợ của mình. Bà nầy vốn là chị em chú bác với Trần Thủ Độ và Nhà Trần bắt đầu lấy nhau chỉ trong gia tộc, chứ không phải người ngoài họ, vì sợ rằng ngôi báu sẽ dễ bị soán đoạt. Từ đó chuyện “loạn luân”trong cung cấm đã xảy ra như em lấy chị ruột, con chú, con bác, con cô, con cậu lấy nhau là chuyện bình thường. Nếu nhìn chung suốt chiều dài lịch sử của nước Việt, chỉ có Triều Trần suốt gần 200 năm ấy đã làm được những điều tốt như các vua chúa sớm nhường ngôi cho con cái, lên làm Thái Thượng Hoàng. Đây cũng là cơ hội của các Thái Thượng Hoàng tuy ở Thiên Trường nhưng cũng có thể làm cố vấn cho các vua còn trẻ ở Thăng Long, như trong các cuộc chiến thắng Nguyên Mông 3 lần vào năm 1258, 1285 và 1288 là những bằng chứng hùng hồn nhất. Tuy nhiên tục lệ cận huyết mà lấy nhau như vậy do Trần Thủ Độ khởi đầu là việc ông đã lấy bà Trần Thị Dung, chị em chú bác với ông hay ép Trần Cảnh lấy chị dâu của mình là vợ của Trần Liễu. Nếu đứng về phương diện đạo đức cũng như phương diện văn hóa dân tộc cả trước hay mấy ngàn năm sau này, thì chưa hề có những việc như thế xảy ra, mà trong suốt cả Triều Trần đều lặp đi lặp lại nhiều lần từ đầu triều 1226 đến cuối triều năm 1400 cũng vậy. Quả là điều đáng trách biết bao.
Lý Chiêu Hoàng sống đến năm 1278 nghĩa là lúc bà 61 tuổi rồi mới cỡi hạc quy Tây. Tuy sử sách không nhắc nhở đặc biệt gì về lòng tin của bà đối với ba ngôi Tam Bảo, nhưng khi sinh ra bà, Vua Lý Huệ Tông đã đặt tên là Phật Kim, ắt hẳn nhà Vua cũng có ý mong rằng Chiêu Hoàng sáng giá như con Phật. Dĩ nhiên khi Thượng Hoàng đi xuất gia tại Chùa Bút Tháp vào năm 1224, chắc rằng bà và Trần Cảnh đã nhiều lần viếng thăm nơi Phật xá nầy, mà điều ấy Trần Thủ Độ không bao giờ muốn, luôn có ý cản ngăn. Chữ Phật Kim ấy gắn bó suốt cả một cuộc đời mình cho đến khi bà 61 tuổi. Bà đã có một thời gian tuổi thơ đầm ấm ở trong triều và bà cũng đã có người bạn đời sống chung với nhau từ năm lên 8 tuổi cho đến năm 1237, nghĩa là bà đã ở với Trần Cảnh được 12 năm. Lúc bà mới 19, 20 tuổi, đã phải bị truất ngôi Hoàng hậu, sống một thời gian đơn lẻ trong cung và sau nầy kết hôn với Lê Phụ Trần.
Khi Lý Chiêu Hoàng bị truất ngôi Hoàng hậu chắc Trần Cảnh buồn lắm, vì người nầy đã là kẻ đầu ấp tay gối từ năm lên 8 đến nay và bấy giờ chỉ vì không con, nên phải nhường ngôi Hoàng hậu cho chị ruột của mình và chính Trần Cảnh phải chịu cái nhục bị ép lấy chị dâu để có người nối dõi lo cho sơn hà xã tắc qua sự chủ trương độc đoán của Trần Thủ Độ. Do vậy mà Trần Thái Tông rất ưu sầu. Nỗi ưu sầu nầy khác xa với sự ưu sầu của Lý Huệ Tông và cuối cùng nhà Vua cũng đã tìm lên Yên Tử để gặp Quốc Sư Phù Vân đang hành đạo tại đó. Khi gặp, Quốc Sư hỏi:
- Bệ hạ đi đâu mà hoàng bào thấm đượm sương mai như vậy?
- Trẫm vào đây để tìm Phật, chứ không tìm gì khác.
- Trong núi vốn không có Phật. Nếu tâm của Bệ hạ yên, tâm ấy chính là tâm Phật.
Nhà Vua ngẫm nghĩ hồi lâu và tự nhủ với lòng mình rằng: “Yên sao được mà yên. Nếu Quốc sư ở triều nội, hằng ngày dõi theo những sự kiện trái ý nghịch lòng như vậy, thì chắc Quốc sư cũng chẳng yên đâu. Ngài là vị Lão Tăng đã được Vua Lý Huệ Tông cũng như Trần Thủ Độ kính quý. Tuy nhiên khi thấy Thủ Độ chuyên quyền như vậy chính Ngài cũng không màng lợi danh, nên đã vào núi Yên Tử để tu trì, trong khi ở Bút Tháp hay Chùa Chân Giáo gần kinh đô có nhiều điều kiện hơn, nhưng Ngài đã không bao giờ quan tâm đến”.
- Bệ hạ nên suy nghĩ cho thật kỹ - Quốc sư Phù Vân nhẹ nhàng lặp lại như thế.
- Nhưng trẫm đã quyết, dầu bất cứ giá nào thì trẫm cũng chỉ muốn xuất gia đầu Phật để giữ tâm cho an bình, chứ không muốn làm vua, đứng trên cả muôn dân trăm họ, nhưng thực quyền lại chẳng có gì. Tất cả đều nằm trong tay Quân sư Trần Thủ Độ cả.
- Điều ấy ta hẳn biết, Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung chính là anh em nhà chú nhà bác. Ông ta có tham tâm lật đổ Nhà Lý, nên mới gả Trần Thị Dung cho Vua Lý Huệ Tông, sau khi Huệ Tông đi tu và bị bức tử thì Trần Thủ Độ giáng xuống làm cung nữ và làm cả tỳ thiếp cho mình. Đó là hình thức của con nhà chú lấy con nhà bác. Triều Trần nầy bắt đầu có những cuộc hôn nhân cận huyết như thế.
- Kính bạch Quốc sư! Chính vì thế mà trẫm đây áo não, giày vò. Cung son, gái đẹp, đàn ca hát xướng suốt ngày đâu có làm cho trẫm yên, cho nên trẫm trốn vào núi nầy để mong được yên thân và tìm Phật vậy.
Trần Thủ Độ ở Thăng Long đứng ngồi cũng chẳng yên, mới sớm mai chầu triều mà không có Vua Trần Thái Tông, nhìn đâu cũng thấy một không khí não nề. Trần Thủ Độ đưa tay vuốt râu và hỏi bá quan văn võ rằng:
- Có vị nào biết Bệ hạ đi đâu mà sớm vậy chăng?
- Hình như là xa giá vẫn còn kia mà. Có một vị quan lên tiếng.
- Đi trốn thì cần gì xa với giá.
- Nhưng mà trốn ai chứ?
- Trốn những sự thật đáng nguyền rủa. Trong số các quan có người buông ra tiếng thở dài và nói nhỏ đủ nghe như vậy.
Cả ngày hôm đó và ngày hôm sau nữa Thủ Độ cho quan quân dạo khắp chốn kinh thành, tìm đâu cũng không ra bóng hình của Vua cả. Hỏi Hoàng hậu và các cung phi thì ai ai cũng chỉ biết đưa mắt nhìn nhau và cuối cùng thì có tin khẩn báo cho biết là Vua đã rời thành Thăng Long, chỉ đi cùng một ít tùy tùng và vài con ngựa tốt, còn tất cả lụa là gấm vóc đều bỏ lại sau lưng. Được tin, Thủ Độ cho cả binh hùng tướng dũng kéo đến núi Yên Tử và khi gặp Vua Trần Thái Tông, Thủ Độ tâu:
- Muôn tâu Bệ hạ! Dân không thể thiếu người lãnh đạo một ngày, quân không thể không có chủ tướng trong một phút. Thế mà mấy ngày nay Bệ hạ đã trốn vào chốn lam sơn nầy khiến cho hạ thần và muôn dân đang trông ngóng lo lắng. Xin Bệ hạ hãy hồi cung.
- Ta đã ngán chốn cung cấm lắm rồi. Ngươi hãy về đi. Nói xong nhà Vua tự mình bỏ vào trong, xem như không có Trần Thủ Độ ở đó.
Thủ Độ ngẩn người ra, nhưng ông quyết không rời chốn nầy nếu ông không thuyết phục được Vua Trần Thái Tông về lại cung xưa. Ông đã đến gặp Quốc sư Phù Vân để giải bày tự sự. Sau khi Thủ Độ hầu chuyện với Quốc sư xong, ông đến gặp Vua một lần nữa và lần nầy có cả Quốc sư đi cùng, Quốc sư nói:
- Tâu Bệ hạ! Ở đây là chốn núi rừng hang hiểm, khi đói chỉ có trái cây, khi khát chỉ có nước suối. Cuộc đời của một Tăng nhân chỉ như vậy thôi. Luôn sống độc cư nhàn cảnh đã quen, còn Bệ hạ khó có thể chịu được nổi những cơn gió lạnh của mùa Đông khi trời đổi gió và nhất là bên cạnh mình không còn những phương tiện như xưa nữa.
- Bạch Quốc Sư! Trẫm đã xem ngai vàng như đôi dép bỏ rồi, còn lượm lại làm chi nữa. Hãy vất nó đi vào quên lãng cho trẫm yên thân.
Quốc Sư nhìn Trần Thủ Độ và Trần Thủ Độ nghiêm nghị thưa:
- Nếu Bệ hạ đã quyết chí ở lại chốn nầy thì xin thưa rằng: “Bệ hạ ở đâu thì triều đình sẽ ở đó”.
Nghe câu nầy lòng Quốc sư chẳng vui, vì lâu nay chốn lam tuyền nầy vốn đã yên ổn với thú rừng, cây cỏ, một làn gió thổi qua cũng làm cho muôn vật đều đổi thay. Bây giờ cả tam cung lục viện mà được xây dựng nơi chốn nầy thì làm sao ta có thể an tâm tu học được. Quốc sư Phù Vân suy nghĩ một hồi lâu như vậy, đoạn đưa tay mời Vua Trần Thái Tông vào trong hậu liêu để giải bày tự sự.
- Bệ hạ đã nói được câu:“Trẫm xem ngai vàng như đôi dép bỏ”. Chính là Bệ hạ đã liễu ngộ được lý vô thường rồi. Tất cả cái gì có hình tướng, cái ấy đều không thật có mà ngay cả ngai vàng hay giang sơn nầy cũng vậy nữa. Đã vô thường thì do sự khổ chi phối. Cái khổ của Bệ hạ đối với Nhà Lý và bây giờ là cái khổ nhận bào thai của chị dâu làm con của mình và nhất là…
Nhà Vua đưa hai tay lên chắp lại, vái xá Quốc Sư và thưa rằng:
- Như vậy cũng được! Ta sẽ về, nhưng ban ngày quyết lo chính sự cho xong, đêm đến ta tụng kinh niệm Phật, ngồi thiền và dịch kinh viết sách.
- Như thế thì còn gì hay hơn nữa. Quốc sư Phù Vân bảo như vậy.
Sau khi Quốc sư và Vua Trần Thái Tông hội kiến xong, cả hai, ai nấy đều vui. Có lẽ duyên lành đã đến. Nhà Vua ra lệnh lên xa giá hồi cung. Nhìn nét mặt của Trần Thủ Độ hân hoan như chưa bao giờ chiến thắng được một cuộc đấu trí như vậy. Xưa nay thắng bại là chuyện thường, nhưng chưa chắc rằng ai đã hơn ai. Biết đâu Thái Tông còn cao trí hơn Thủ Độ nữa. Cái trí ấy không nằm nơi mưu kế mà nhờ nơi cửa Phật tạo nên. Đó là trí tuệ để soạn ra Khóa Hư Lục và những kinh điển mà nhà Vua đã ngộ được từ cửa Thiền. Cái trí nầy vượt ra ngoài tam giới và có giá trị cho đến ngày nay cũng như mãi đến ngàn sau.
Người xưa thường nói: “Thua keo nầy ta bày keo khác”, nhưng Thủ Độ thì không, “Thắng keo nầy ta bày keo khác”. Ông biết rằng nếu hậu duệ Nhà Lý mà còn thì sẽ không yên cho Nhà Trần, ông cũng đã biết được Hoàng tử Lý Long Tường cùng đoàn tùy tùng đã lên thuyền chạy trốn khỏi quê hương Đại Việt, nhưng ông hy vọng sóng to gió lớn sẽ không giữ được mạng của những người nầy. Và để tru diệt hoàn toàn Nhà Lý ông đã nghĩ ra một phương cách quỷ khóc thần sầu: Ông đã tập hợp những người tâm huyết lại, trả lương cho họ thật hậu để chỉ làm việc vào ban đêm, khi không có ánh sáng thái dương soi tỏ, hầu che giấu không cho những người làm việc biết những hầm hố do họ đào gần lăng mộ các vua Nhà Lý, và sau khi hố đào thật sâu rồi, chông được cắm thật nhiều vào đó, đoạn phủ ván mỏng và cỏ xanh lên trên. Thủ Độ chọn một ngày phù hợp cho tảo mộ thăm viếng lăng tẩm của quân vương Triều Lý. Khi mới nghe ra, ai cũng bảo rằng: Thủ Độ có quan tâm. Thủ Độ là một quân sư tài giỏi, tuy trong thời gian qua ông đã gây ra không biết bao nhiêu là tai tiếng trong cung nội cũng như ngoài dân gian, nhưng ông cũng có lòng.
Ngày tảo mộ lăng tẩm các đấng Tiên vương Triều Lý đã đến. Mọi người còn sót lại cũng muốn báo đáp công ơn muôn một của tiền nhân nên quần là, áo lượt, món ngon vật lạ đều đem đến cúng kiến cho các tiên vương. Trong khi con cháu Nhà Lý hì hục cúng bái, kể công, kể tội thì Thủ Độ cho quân lính rút ván dưới chân họ, tất cả đều sụp xuống hầm sâu, nơi đó có những bàn chông sắc nhọn và kể cả rắn độc trồi lên. Thật là một kẻ ác tâm, so với ngày xưa ở Ấn Độ A Xà Thế hại Vua cha, Đề Bà Đạt Đa hại Phật thì cũng không kém chỗ nào. Thế là tiếng kêu la inh ỏi, nhưng Thủ Độ chẳng màng, miễn sao mưu kế của mình được thành tựu, sau đó ông cho lấp đất lại. Thế là cuộc tàn sát đã thành công, chỉ có Thủ Độ và thuộc hạ là hài lòng, còn Lý Chiêu Hoàng bây giờ đã thuộc về con dâu của Nhà Trần rồi, không biết bà nghĩ sao về thân phận của mình đây. Có tình chung nào khiến cho Thủ Độ dừng tay chăng? Hay bà là người đã hy sinh cả một hoàng tộc Nhà Lý rồi, bây giờ lại còn hy sinh đến thân phận của một Hoàng hậu, bị truất ngôi để làm tăng thêm lợi danh cho những người thừa thắng xông lên làm việc ác? Nói như lời của Huệ Tông trước khi chết là:
- “Thiên hạ ngày nay đã vào tay ngươi, ngươi lại giết ta, ngày nay ta chết, đến khi thác, con cháu ngươi cũng sẽ bị như thế”.
Điều ấy cũng đúng với giáo lý nhà Phật mà thôi. Đó là nhân nào thì quả nấy. Không bao giờ có một hạt nhân xấu đem ra ươm trồng, mà lại sanh ra quả tốt bao giờ và ngược lại nếu ta gieo trồng một nhân thiện thì không thể nào gặt hái một quả xấu hết. Tuy nhân và quả có nhiều thời và nhiều giai đoạn, nên cái gì cũng có thể sai và cũng có thể đúng, riêng nhân quả, nếu không đúng thì thôi, quyết không bao giờ sai cả. Đây là định luật nhân quả mà A Xà Thế, Đề Bà Đạt Đa đã nhận lấy, và rồi đây Trần Thủ Độ cũng sẽ như vậy mà thôi.
Nếu chúng ta tham khảo qua 34 trường hợp hôn nhân cận huyết xảy ra trong dòng tộc Nhà Trần do Trần Thủ Độ chủ xướng, mà tác giả Nguyễn Thị Chân Quỳnh năm 1993 đã ghi lại trong bài viết “Công chúa đời Trần - Mỹ nhân kế - Loạn luân”thì chúng ta sẽ rõ biết và đau lòng về điều đó.
Một triều đại Nhà Trần kéo dài 175 năm kể từ năm 1225, 1226 đến năm 1400 gồm 13 đời vua như thế, nếu đứng về phương diện văn học, tôn giáo, văn hóa, lịch sử, kiến trúc, ngoại giao, chiến tranh với Mông Cổ v.v… không có triều đại nào trong lịch sử Việt Nam mà hiển hách vinh quang được như vậy. Vì lẽ các Vua Trần có tu, có học, có thọ Bồ Tát giới, nên quyết tâm đem việc thực hành Bồ Tát hạnh đi vào đời, nên giang sơn gấm vóc mới còn lưu giữ lại được như ngày hôm nay. Tuy nhiên vấn đề trong cung cấm, vấn đề thay ngôi đổi chủ, vấn đề hôn phối v.v… khiến cho ta phải suy nghĩ rất nhiều. Vì lẽ ngay từ đầu Nhà Trần, Trần Thủ Độ đã làm cho sơn hà xã tắc điêu đứng, mà cũng chính ông trực tiếp gây dựng nên Nhà Trần. Ông không khác Đào Cam Mộc, Thiền sư Vạn Hạnh của đầu triều Nhà Lý năm 1010 là mấy, khi mà Lê Long Đỉnh đã không còn được lòng dân nữa. Ông cũng giống như Hồ Quý Ly lựa thời cơ chín muồi, cho người nội gián vào cung vua ở cuối thời Nhà Trần và đã giành được giang sơn cũng như thiên hạ vào tay mình, nhưng rất tiếc Hồ Quý Ly cũng chỉ được có 17 năm mà thôi. Trong khi đó Nhà Lý hơn 200 năm và Nhà Trần được 175 năm. Nếu cộng cả Lý và Trần lại thì lịch sử Việt Nam của gần 400 năm ấy của hai triều đại nầy, xuyên suốt cả một dòng sông lịch sử của mấy ngàn năm, chưa có triều đại nào được vinh quang như Lý, Trần vậy. Vả chăng Thủ Độ sợ ngai vàng mất vào tay tộc họ khác, nên mới chủ trương hôn nhân cận phối như thế, mà trước và sau đó không có triều đại nào lại như vậy cả. Cho hay cái công và cái tội bao giờ cũng cận kề nhau. Nếu xét về công thì Thủ Độ có công không nhỏ, nhưng nếu xét về tội của ông thì không bút mực nào miêu tả hết được.
Nỗi đơn độc của Lý Huệ Tông khi đã trở thành Thiền sư Huệ Quang ngồi nhổ cỏ trước sân Chùa Chân Giáo đã bị Trần Thủ Độ nói bóng gió để ám chỉ cho một triều đại đã qua, không nên còn mơ ước gì nữa. Rồi 175 năm sau Hồ Quý Ly cũng như vậy. Ông ta lợi dụng mình là cháu của Minh Từ Thái Phi, mẹ của Nghệ Hoàng, nên ông ta đã xúi Nghệ Hoàng giết hại trung thần, các Hoàng tử, các Thân vương và ngay cả Phế đế cũng bị sự gièm pha của Quý Ly mà bị Nghệ Tông phế bỏ. Con út của Nghệ Hoàng là Trần Ngang, tức Trần Thuận Tông được lập lên ngôi, nhưng cũng không có thực quyền. Con gái lớn của Quý Ly là Khâm Thánh, Hoàng hậu của Thuận Tông, nên mọi việc của Thuận Tông càng bị Quý Ly siết chặt hơn, bởi lẽ Hồ Quý Ly rất gian xảo.
Cho hay tất cả những ông vua đầu triều đại đều là những anh hùng của dân tộc, nhưng những kẻ sau cùng thừa hưởng được giang sơn gấm vóc của tiền nhân, không quý cái nhọc, cái khổ khi dựng nước của những đời trước, nên đã trác táng rượu chè, đam mê nữ sắc khiến cho cả trung thần lẫn nịnh thần đều chán ngán và đó chính là cơ hội để ai có gan thì có thể tóm thâu thiên hạ vào cho gia tộc của mình.
Chương II
TRÔNG VỜI CỐ QUỐC
Một triều đại sụp đổ, thay ngôi đổi chủ mang theo không biết bao nhiêu là thay đổi. Từ tộc họ hoàng triều cho đến thi cử, xã hội v.v… tất cả đều phải không giống các triều đại đã đi trước đó. Ví dụ như có Đế hiệu, lăng tẩm riêng, sự truyền thừa nối ngôi cũng như vậy. Ngày xưa ông vua nào lên ngôi cũng mong mình trị vì thiên hạ lâu năm, nên bắt thần dân phải tung hô “Vạn tuế”. Thế nhưng đâu có ông vua nào làm vua được trăm năm, đừng nói gì đến ngàn năm, vạn năm thì chắc sẽ không bao giờ có. Nếu mấy ông vua nầy mà làm vua ở cõi Sắc giới hay Vô sắc giới thì có lẽ được. Vì ở đó con người có tuổi thọ lâu hơn tuổi thọ của con người ở thế giới Ta Bà nầy.
Ngày nay trên thế giới nầy còn rất ít nước theo chế độ Quân chủ, nếu có thì Vua và Hoàng hậu chỉ đóng vai trò tượng trưng mà thôi, như các nước Nhật Bản, Anh Quốc, Thái Lan, Na Uy v.v… Họ cũng đều phải chấp nhận theo trào lưu tiến bộ của xã hội, không ai có quyền độc đoán phán quyết cả, mà người lãnh đạo xã hội ngày nay phải chịu sự kiểm soát phân quyền của 3 cơ quan. Đó là quyền Hành pháp do Tổng thống hay Thủ tướng nắm giữ, quyền Lập pháp do Lưỡng Viện Quốc Hội kiểm soát và quyền Tư pháp do Tòa Án Tối Cao của quốc gia bảo trợ theo Hiến pháp hiện hành của quốc gia đó. Ngày xưa, vua là trên hết, cho nên mới có câu:
“Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”
Nghĩa:
“Vua bảo bầy tôi chết, bầy tôi không chết thì bầy tôi không trung thành với vua”.
Tuy nhiên cái trung và cái hiếu ngày nay con người không phải chấp nhận một cách dễ dàng như ngày xưa nữa, mà tất cả đều phải bình đẳng trước pháp luật, dầu cho ông đó là Vua chúa, Hoàng hậu, Thủ tướng, Tổng thống, người giàu có hay kẻ nghèo hèn v.v… Tất cả đều được xét xử bình đẳng giống nhau. Ngày xưa thì khác, tất cả đều bị chi phối bởi thế và lực, đồng tiền, thỏi vàng, địa vị …, đó chính là những chỗ chính để người ta hướng đến và nghĩ về. Cho nên nói điều nhân nghĩa trong một xã hội Quân chủ, thật là đắng cay muôn phần. Tuy nhiên thỉnh thoảng vẫn có những ông vua tốt biết thương dân như con đẻ của mình, nhất là những ông vua trong đời Trần, nhưng đó không phải là luật của nhà nước, mà là cái lòng thi ân bố đức của một bậc quân vương mà thôi.
Trong sự phế lập một triều đại ấy, có không biết bao nhiêu người vui, và đồng thời cũng có lắm kẻ buồn. Có người muốn tôn thờ vị chúa tể ấy, dòng tộc ấy lâu dài như có thể, nhưng nay thì có người ngoài len lỏi vào, tìm mọi cách để soán ngôi về cho thân tộc mình, nên có nhiều người muốn rời bỏ quê hương xứ sở của mình để đến nơi khác yên ổn hơn, nơi đó không xảy ra chuyện “nồi da xáo thịt”, “huynh đệ tương tàn”hay “ngai vàng đẫm máu”nữa, mà nơi đó phải là chốn an vui để an cư lập nghiệp. Nhất là khi nhìn một Hoàng hậu mới 8 tuổi, có cha đi xuất gia, kết hôn với một người khác tộc họ Trần cùng với lứa tuổi ấy, rất nhiều người bất bình và ai trong hàng hoàng thân quốc thích cũng đều biết rằng: Đó là âm mưu của Trần Thủ Độ, nhưng ít người dám hở môi, vì sợ liên lụy đến bản thân của mình. An phận chờ thời vẫn hơn là có quan điểm đưa ra dưới ánh sáng lúc nầy cho mọi người cùng sẻ chia. Không khéo thì cái họa sẽ buộc vào thân của từng người, khiến cho phải chết chùm. Vì dưới cái nhìn của người chủ mới, ấy là những người phản chủ.
Vào năm 1226, nghĩa là sau 2 năm Chiêu Hoàng làm vua và chính thức nhường ngôi cho chồng, Trần Cảnh lên ngôi xưng là Trần Thái Tông. Tất cả đều do một tay của Thái sư Trần Thủ Độ đạo diễn, thật là tuyệt vời, không một giọt máu nào rơi giữa kinh thành Thăng Long, không một ai hở môi bàn tán về việc ấy. Chỉ riêng Hoàng tử Lý Long Tường sinh năm 1174 là con thứ 7 của Vua Lý Anh Tông (1138-1175) và bà Hiền Phi Lê Mỹ Nga, ông thấy bất ổn tứ bề. Vì trong khi dù đã cắt tóc đi tu nhưng Thượng Hoàng Lý Huệ Tông vẫn còn đó, Hoàng đế Lý Chiêu Hoàng vẫn đang tại vị, nhưng Thủ Độ đã bắt tất cả con cháu của Nhà Lý nếu muốn tiếp tục sống thì phải đổi họ Lý ra họ Nguyễn từ những năm 1225 và đày tất cả họ lên vùng núi non hiểm trở, sơn lam chướng khí. Và rồi đây biết đâu rằng Trần Thủ Độ sẽ còn xuất nhiều chiêu độc ác hơn nữa, ai có thể đoán trước được việc nầy? Do vậy Hoàng tử Lý Long Tường đã cùng với 6.000 người trong thân tộc Nhà Lý lên đường tìm nơi tỵ nạn trên 3 chiến thuyền. Sự ra đi của Hoàng tử Lý Long Tường vào thời điểm này là một mốc ngoặc lịch sử rất quan trọng đối với Nhà Trần. Lúc đi Hoàng tử đã mang theo cả vương miện, áo long bào và đặc biệt là thanh “Thượng Phương Bảo Kiếm”. Đây là những bảo vật của triều đình, ông quyết giữ lấy đem qua xứ khác, chứ không cho tân triều, tân vương xử dụng đến. Sau một tháng trời lênh đênh trên biển cả, lúc gió ngược, lúc gió xuôi, 3 chiến thuyền đã cập bến hải đảo Đài Loan.
Thăng Long thuở ấy nhiều lắm cũng chưa đến 100.000 người sinh sống tại chốn kinh thành nầy, mà trong đó có cả 6.000 người rời bỏ quê hương của mình ra đi để “bài Trần phục Lý”, quả là một sự kiện không nhỏ, khiến cho bàn dân thiên hạ phải luận bàn. Để giúp cho 6.000 người đủ lương thực và nước uống cho một thời gian ra đi không biết ngày nào đến đích như vậy, thì chắc rằng Hoàng tử Lý Long Tường đã cho tùy tùng của mình chuẩn bị kỹ càng lắm mới khỏi bị chết đói trên hải trình vô định ấy. Khi tấp vào được hải đảo Đài Loan của năm 1226, quả thật nó không phải như bây giờ của gần 1.000 năm về sau. Tại đó chỉ có núi non và đồng trống, dân cư lại thưa thớt, mà Hoàng tử Lý Long Hiền, con của Lý Long Tường lại ốm nặng, nên 200 người phải ở lại đây để chăm sóc cho Hoàng tử, còn những người khác vẫn tiếp tục giong thuyền về hướng Bắc. “Một đi là không nhìn lại cố hương”. Đây có lẽ cũng là chủ đề để những người ra đi quyết tâm đối với tử thần trên biển cả mênh mông vô định.
Căn cứ theo bộ sử của Bác sĩ Yên Tử Trần Đại Sỹ hiện đang sinh sống tại Pháp. Ông ta vốn là người giỏi về y học lẫn văn chương chữ nghĩa ngoại ngữ, nên suốt trong nhiều năm qua ở ngoại quốc, ông đã cố về tận Triều Tiên cố hương của dòng tộc Nhà Lý, cũng như Đài Loan để truy nguyên nguồn cội và chính ông đã giới thiệu bộ ngoại sử độc đáo nầy cho người Việt ở trong và ngoài nước trong thời gian qua về một chuỗi bi hùng của lịch sử đã kinh qua gần 1.000 năm như thế, người Việt đã có mặt tại nước ngoài, qua các chính biến đau thương như vậy và đây chính là nguồn sử liệu dồi dào, đầy tính thuyết phục, đã chinh phục mọi người tự cổ chí kim đều hướng về chính sử của nước nhà, chứ không phải là dã sử hay huyền sử hoặc ngụy sử.
Riêng cánh người Nhà Lý ở lại Đài Loan từ năm 1226 đến nay, họ đã sống chung cùng người bản địa và đến thế kỷ thứ 20, nghĩa là trải qua hơn 800 năm như vậy có một người hậu duệ của Nhà Lý tên là Lý Kính Huy đã lên làm Tổng Thống của Đài Loan. Đây là một niềm vui của dân tộc Việt. Tuy nhánh nầy ít người hơn và cũng không có người nào xuất sắc lắm ngoài Lý Kính Huy, nên phần sử liệu ở Đài Loan về gia tộc Nhà Lý chắc cần phải có thêm thời gian để truy tìm những tài liệu chính xác hơn, nhằm vinh danh dòng họ nầy đã làm nên lịch sử tại nước ngoài, khi mà những con người ấy đã sống xa ngàn dặm với cố quốc, nơi mà Tổ tiên mình đã được sinh ra và lớn lên tại đó.
Cuối cùng rồi bầu đoàn thê tử của Hoàng tử Lý Long Tường cũng đã đến tỉnh Hoàng Hải nằm bên bờ biển Cao Ly. Lúc ấy Vua Cao Tông của Cao Ly nằm mộng thấy một con chim cực lớn bay từ phương Nam lại. Do vậy nhà Vua đã cho chính quyền sở tại đón tiếp một cách ân cần và Vua đã đồng ý cho Hoàng tử Lý Long Tường cùng đoàn tùy tùng ở lại dung thân. Lúc ấy tên của Hoàng tử được phiên âm theo tiếng Đại Hàn là Yi Yong-Sang và sau cùng trở thành Hoa Sơn Tướng Quân - Hwa San Sang Gum của nước Cao Ly thời ấy. Ngày nay dòng dõi nầy vẫn còn sống tại Bắc Triều Tiên với tên gọi dòng họ nầy là Hoa Sơn Lý Thị. Ông ở đó lập trang trại dạy võ thuật, thi phú cho đoàn tùy tùng cũng như những người địa phương. Sử sách chép lại rằng “đôi khi số người theo học không dưới 1.000 người”.
Năm 1253 quân Mông Cổ đánh chiếm Triều Tiên và Hoàng tử Lý Long Tường đã lãnh đạo quân dân của mình mang theo, cùng với nghĩa quân địa phương trong vòng 5 tháng đánh trả lại quân Mông Cổ và sau khi thành công dẹp được giặc Nguyên Mông, Vua Cao Tông của Triều Tiên đã phong cho Hoàng tử Lý Long Tường là Hoa Sơn Tướng Quân. Thời kỳ nầy quân Mông Cổ rất mạnh, đạo quân của Thành Cát Tư Hãn hay của Hốt Tất Liệt, Ô Mã Nhi, Toa Đô đi đến đâu là những nơi ấy trở thành bình địa. Khi tấn công Đại Hàn, quân Nguyên Mông cũng đã tấn công Nhật Bản và năm 1258, đời Vua Trần Thái Tông, quân Mông Cổ cũng đã tiến chiếm Đại Việt. Hầu như tất cả các nước ở Á Châu đều bị vó ngựa của quân Mông Cổ lướt qua, nhưng cuối cùng, chủ nghĩa dân tộc đã bùng lên một cách mạnh mẽ tại Nhật Bản, Đại Hàn cũng như Đại Việt khiến cho quân Nguyên Mông đã trở về lại Trung Quốc không phải với những chiến công hiển hách, mà là tơi tả chiến bào, người ngựa đã thấm mệt, cũng như cái nhuệ khí đi đánh chiếm các nước lân bang không còn mạnh như lúc xua quân ra trận nữa. Tại Triều Tiên sau khi thắng trận, Hoàng tử Lý Long Tường bây giờ được nhà Vua và triều thần nể vì, trọng dụng. Họ không còn xem ông là người của Đại Việt nữa, mà là con cháu của Triều Tiên.
Khi còn ở Hoa Sơn, hằng ngày ông hay lên trên đỉnh núi, đưa mắt đăm chiêu nhìn về cố quốc. Ông hồi tưởng lại “một thời oanh liệt nay còn đâu”và ông cũng mừng là cả 6.000 người theo ông không bị cái họa diệt vong do Trần Thủ Độ đã chủ trương sau đó. Ông lắng nghe tiếng hải triều vọng lại, nhưng nào ai có thể giải được nỗi sầu vong quốc cho ông. Bây giờ mặc dầu được Vua Cao Tông quý mến, nhưng dẫu sao đi nữa, đó không phải là những tình cảm ruột thịt như tại quê hương mình. Nhưng nếu nghĩ cho cùng, dẫu cho người Triều Tiên so ra với người Đại Việt thì chỉ là người dưng nước lã, nhưng họ đã cho mình và gia quyến nương thân, lại còn cất nhắc lên đến bậc Tướng quân của triều đình Vua Cao Tông, thì người dưng nước lã ấy còn quý hơn cả tình người ở cuối Lý đầu Trần mà Trần Thủ Độ đã chủ trương đối với những người sa cơ lỡ vận.
Ông ngồi trên đỉnh Hoa Sơn nầy để tự nhủ với lòng mình về chữ trung với vua, hiếu dưỡng với cha mẹ, phải có công với nước… những việc ấy sao bây giờ xa vời quá. Ngôi vua của Nhà Lý đã rơi vào tay Nhà Trần. Thân phụ Lý Anh Tông, đường huynh Lý Cao Tông bây giờ đâu còn nữa, họ là những người vang bóng một thời. Công việc cai dân trị nước của họ cũng giống như thủy triều lên xuống hai lần mỗi ngày, vào buổi sớm mai khi mặt trời chưa ló dạng và khi hoàng hôn xuống, để báo hiệu một đêm dài tăm tối với những đêm không có bóng trăng soi. Tâm sự ấy, nỗi nhớ nhung nầy, ai biết cho đây và trong đầu ông luôn đặt câu hỏi: Khi nào thì ta có thể quay lại cố hương? Và có phải ta là người bỏ nước ra đi đầu tiên chăng? Ta có bị người đời chê trách là bỏ sơn hà xã tắc của mình, lo đi phụng sự cho một quốc gia ngoại tộc? Hay họ đồng cảm với mình khi “ăn cây nào phải rào cây đó?”
Thời gian đầu cả đoàn 6.000 người ấy sống quanh quẩn bên nhau tại Hoa Sơn và trao đổi với nhau bằng Việt ngữ, nhưng khi muốn liên lạc với những người địa phương thì phải dùng giấy bút để làm trung gian, cũng may là Đại Hàn, Nhật Bản và Đại Việt lúc đó dùng chữ viết bằng Hán văn nên khi viết ra cũng giống nhau, chỉ khi phát âm thì khác hẳn, khi nói ra không ai hiểu ai cả. Người Việt phát âm bằng Việt ngữ, người Đại Hàn phát âm bằng Hàn ngữ. Tên Đại Hàn là do người ngoại quốc đặt cho thôi, vì nước nầy nằm cạnh ngước Nga và Trung Quốc ở miền băng giá nên gọi là Đại Hàn; còn tiếng gọi chính của quê hương nầy là Triều Tiên quốc. Khí hậu, phong thổ, ngôn ngữ chưa rành, nhưng xét ra tình người thì dễ nắm bắt được qua cái nhìn, cái cười hay cái nhún vai v.v… chỉ ngần ấy động tác cũng đã đủ làm cho người xa xứ rõ biết tâm tư của họ đối với mình như thế nào rồi.
Có ai xa quê thì mới thấy nỗi nhớ quê là khôn nguôi, không có bút mực nào có thể tả hết được nỗi nhớ thương về cố quốc khi ánh trăng thượng tuần vừa ló dạng trên đỉnh Hoa Sơn. Ở đây khí hậu khắc nghiệt, nên trên đỉnh nầy đa phần là đá, cây ít, không cao như núi Yên Tử hay dãy Trường Sơn tại Đại Việt, nên trăng càng lên cao thì nỗi nhớ về cố quốc lại càng dâng cao hơn trong tâm tưởng. Ông thường ngồi đây và tĩnh lặng, trải qua nhiều năm tháng như thế để chiêm nghiệm về cuộc sống của những kẻ ly hương, rời xa cố quốc. Khi ông chết, người địa phương đã cho khắc 3 chữ Hán “Vọng Quốc Đàn”trên một tảng đá to, để ghi lại dấu tích của người xưa đã một thời như thế, và nếu ai đó ngày nay có đến Triều Tiên, tìm đến đỉnh núi Hoa Sơn thì hãy cố gắng tìm lại chốn nầy, sẽ thấy tấm bia ấy vẫn còn tồn tại, nơi người xưa đã hướng về cố quốc trong những lúc nhớ quê. Cuối cùng rồi ông cũng phải ra đi và thi hài của ông vẫn còn chôn tại Bàn Môn Điếm.
Ông đã trở về với Tổ tiên của Lý triều, ông đã cống hiến công mình để dẹp loạn cho quê hương thứ 2 khi ông tá túc tại Bắc Triều Tiên và có lẽ ông cũng đã không nghĩ rằng sau nầy sẽ có người tìm tòi lại lịch sử nầy và ông cũng đã chẳng hay chẳng biết là cách hằng mấy trăm năm sau, dòng dõi của ông đã tìm cách trở về lại quê xưa để thăm cố quốc và lăng tẩm của tiền nhân.
Ở ngoại quốc, người có công đi Trung Quốc và Triều Tiên để tìm tòi và phát hiện ra những sự liên quan ấy là Bác sĩ Cư sĩ Yên Tử Trần Đại Sỹ. Theo thống kê dân số của Triều Tiên và Đại Hàn, hiện những hậu duệ của Hoàng tử Lý Long Tường ở cả hai miền đất nước vào thế kỷ thứ 21 nầy còn sót lại độ 600 người. Ngày ra đi vào năm 1226 có đến 6.000 người, mà ngày nay trải qua hơn 900 năm lịch sử, chỉ còn lại 600 người. Có lẽ một số người đã thay họ đổi tên để khỏi liên lụy về một quá khứ như thế và có nhiều người đã quy tiên, nên con cháu hậu duệ của Hoàng tử Lý Long Tường ngày nay ở Triều Tiên chỉ còn một số người ít ỏi như vậy.
Tuy nhiên vào ngày 6 tháng 11 năm 1958 khi viếng thăm chính quyền Việt Nam Cộng Hòa của Tổng Thống Ngô Đình Diệm thuở ấy, Lý Thừa Vãn đương kim Tổng Thống Nam Hàn đã tuyên bố rằng: “Tổ tiên ông là người Việt Nam”. Nam Bắc Triều Tiên chia đôi năm 1953 và năm 1958 ông làm đến chức Tổng Thống của Nam Hàn, một vị trí, một đẳng cấp ngang hàng với Ngô Đình Diệm lúc đương thời. Thuở ấy ông cũng có ý muốn đi thăm những lăng tẩm của Nhà Lý tại Bắc Ninh, Ninh Bình, nhưng miền Bắc thuộc chế độ Cộng sản, như Bắc Triều Tiên, nên ông đã không thực hiện được ước nguyện nầy. Mãi cho đến sau năm 1975, Việt Nam đã thống nhất hai miền Nam Bắc và từ dạo đó đến nay có rất nhiều người Triều Tiên và người Đại Hàn đã trở lại Việt Nam, rồi đi ra đến Bắc Ninh, Ninh Bình để viếng thăm lăng tẩm của các Vua Nhà Lý. Quả thật câu tục ngữ giữa Đông Tây xưa nay vẫn giống nhau là:
- Lá rụng về cội
- Ẩm thủy tư nguyên
- Der Apfel fällt nicht weit vom Stamm (Trái táo rụng không xa khỏi gốc táo).
Theo Bác sĩ Trần Đại Sỹ thì Lý Tống Vân là hậu duệ đời thứ 25 của Hoàng tử Lý Long Tường và Lý Xương Căn là hậu duệ đời thứ 31 của Vua Lý Thái Tổ, đồng thời cũng là đời thứ 26, nếu kể từ Hoàng tử Lý Long Tường. Năm 1994 ông nầy qua Việt Nam đã tìm đến Từ Đường của họ Lý ở làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh để bái kiến Tổ Tiên và năm 1977 khi từ Việt Nam trở lại Hàn Quốc, ông sinh con trai và đặt tên cho con là Lý Việt Quốc. Cũng lại có người bảo rằng ông nầy sau đó đã nhập lại quốc tịch Việt Nam.
Thế giới nầy ở đâu cũng có nhiều điểm tương đồng. Ví dụ như sau năm 1975 có rất nhiều sinh viên và kiều bào Việt Nam sống tại Đức. Sau khi học hành đỗ đạt, họ không muốn trở lại quê cũ của mình, nên xin tỵ nạn hay nhập quốc tịch tại quốc gia nầy. Việc đầu tiên của chuyện xin vào quốc tịch sở tại là ngôn ngữ, tiếp đó nếu đã nhận được giấy đồng ý cho nhập tịch của Sở Ngoại Kiều rồi thì phải tìm cách từ bỏ quốc tịch nơi mình sinh ra, để chỉ còn một quốc tịch duy nhất mà minh đang sinh sống tại xứ họ. Thật sự ra vấn đề nầy cũng rất hay là không có lý do gì để mình đứng một chân bên nầy và một chân bên kia nữa, nhưng cũng có cái dở là bị ngăn cách bởi cội nguồn. Cho nên có người vẫn giữ song tịch để sau nầy giả sử nếu nước nhà có sự đổi thay thì họ có thể sẽ tái nhập tịch trở lại, như trường hợp của ông Lý Xương Căn là một ví dụ điển hình.
Một Lý Long Tường, một Lý Thừa Vãn, một Lý Kính Huy và còn nhiều nhiều hơn như thế nữa của hơn 3 triệu người Việt Nam hiện đang định cư trên thế giới nầy, trong đó có hơn 600 người Việt mang dòng họ Lý có quốc tịch Đại Hàn và Triều Tiên, ngày nay đã làm nên lịch sử. Họ ra đi không phải vì miếng cơm manh áo, mà vì hai chữ Tự Do cũng như chính kiến khác nhau. Họ sống nơi xứ người không phải lánh nặng tìm nhẹ, mà để giương cao ngọn cờ độc lập, tự chủ của Tổ Quốc và dầu cho có thay tên đổi họ như thế nào đi chăng nữa, thì gốc gác của họ vẫn có xuất xứ là Việt Nam.
Tại Triều Tiên có một dòng thứ 2 của họ Lý nữa. Đó là Lý Dương Côn, con nuôi của Vua Lý Nhân Tông, đã đến Triều Tiên vào khoảng năm 1127 (gần 100 năm trước Lý Long Tường sang Cao Ly tỵ nạn). Như vậy cũng có thể nói Lý Dương Côn là người Việt Nam đầu tiên ra đi tỵ nạn chính trị chăng? Thuở ấy ông làm đến chức Đô Đốc Thủy Quân, nên đã dùng thuyền ra đi tỵ nạn để tránh bị giết trong việc tranh giành ngôi báu thuở bấy giờ. Ông là Đô Đốc nên chắc rằng khi ra đi, không phải chỉ một mình, mà trên thuyền phải có thêm nhiều người nữa, nhưng dòng nầy thì không đông người và ít nổi tiếng như dòng của Lý Long Tường. Ngày nay tại Triều Tiên gọi dòng nầy là dòng Lý Tinh Thiện.
Lâu nay sử sách ở trong nước cũng chỉ chú mục theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư hay Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục v.v… nhưng những sử nầy cũng ít đề cập đến những người đã bỏ nước ra đi và đã làm nên công trạng cho Đại Việt, cũng như những ảnh hưởng to lớn của các vị vua Phật tử, đã dùng căn bản đạo đức nào để dạy cho dân an và nước lạc, cũng như công lao của họ như thế nào trong các Hội Nghị Bình Than và Hội Nghị Diên Hồng để kháng chiến chống quân Nguyên Mông, dưới cái nhìn của Phật giáo thời ấy cũng như thời nay?
Một Tuệ Trung Thượng Sĩ; một Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn; một Vua Trần Nhân Tông; một Huyền Trân Công chúa v.v…, dưới nhãn quan của Phật giáo thuở bấy giờ và ngay cả bây giờ cũng đã có nhiều người hay nhiều sử gia lãng quên hay cố tình lãng quên, chỉ vì khi một triều đại nào đó cầm quyền ngả theo Nho, Phật, Lão hay Thiên Chúa thì chỉ tô bồi Đạo giáo của mình theo, mà quên đi những chiến công hiển hách một thời. Nếu không có Phật giáo và những công thần vĩ đại ấy thì làm sao gìn giữ và phát triển được nước Việt cho đến ngày nay.
Xưa nay sử sách hằng ghi lại có những cuộc ra đi vĩ đại chỉ để trốn một bậc hôn quân bạo chúa, hay trốn một triều đại thối nát, hay vẫn còn luyến tiếc chế độ xưa như người nhà Minh đã bài Thanh như thế nào vào đầu thế kỷ thứ 17 ấy. Họ ra đi cũng chỉ vì không muốn ngai vàng của nhà Minh mất vào tay của nhà Thanh từ năm 1640 kia. Thuở ấy Việt Nam chúng ta bị chia đôi đất nước tại sông Gianh. Đàng Ngoài thuộc sự cai trị của Vua Lê Chúa Trịnh. Đàng Trong từ sông Gianh trở vào thuộc sự cai trị bình định của Chúa Nguyễn Hoàng. Lúc ấy cửa biển Hội An vốn đã thịnh hành. Những tàu buôn của Âu Châu, Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản thường xuyên cập bến cửa biển Hội An để trao đổi nhiên liệu và vải vóc lụa là. Trong khi đó Đàng Ngoài thì không thuận lợi như thế. Đến năm 1640 khi nhà Thanh nổi lên chiếm đoạt vương vị của nhà Minh từ thế kỷ thứ 15 thì những người bài Thanh, đành phải bỏ nước ra đi. Họ đến Hội An và Bình Định cũng như đến Hà Tiên thì có Mạc Cửu. Họ an cư lạc nghiệp tại Việt Nam từ đó đến nay. Trong khi ở Đàng Ngoài thì không được những ưu thế như vậy, vì Vua Lê Chúa Trịnh bị lệ thuộc phương Bắc, trong khi đó Chúa Nguyễn Hoàng ở Đàng Trong thì không phải bị bận tâm về việc nầy.
Đây cũng có thể nói là lần đầu tiên Việt Nam chúng ta nhận người tỵ nạn Trung Hoa chăng? Họ đến Hội An và xây dựng nhà cửa, phố xá bên sông Hoài. Chữ Hoài nầy có nghĩa là hoài cổ, hoài cố hương, nhớ quê xưa như Lý Long Tường đã ngồi nơi “Vọng Quốc Đàn”để nhớ về cố quốc. Vả chăng quê cha đất Tổ là trên hết, dầu cho người ta đi đến đâu, làm đến ông gì, bà gì đi nữa thì có ngày cũng phải ngoảnh mặt lại để nhìn cái bản lai diện mục của mình để tạ lỗi với tiền nhân, tổ tiên, cha mẹ. Họ là những người sinh ra mình, nhưng mình chưa một lần đền đáp được ân sâu nghĩa nặng ấy! Đây là cái ân nặng nghìn cân, không ai trong chúng ta có thể trả được, như Đức Phật vẫn thường hay dạy trong kinh Tạp A Hàm như vậy. Kinh Vu Lan hay kinh Báo Ân Phụ Mẫu của Trung Quốc cũng đã dựa theo những mẩu chuyện xưa thời Đức Phật, mà tạo ra những lời kinh, nhằm xưng tán công cha nghĩa mẹ ở đời nầy cũng như bao nhiêu đời trong quá khứ lẫn vị lai.
Bản thân mình, tôi đã rời cố quốc Việt Nam từ năm 1972 đến năm 2017 là đúng 45 năm, nghĩa là gần nửa thế kỷ rồi. Trong nửa thế kỷ ấy tôi đã làm gì cho chính mình, cho tha nhân và cho người bản xứ, chắc quý vị đã rõ, nhưng trong tâm khảm của chính tôi, ở bất cứ một bài viết hay bài giảng nào cũng bàng bạc nỗi nhớ quê hương trong muôn thuở, không bút mực nào có thể tả hết được. Nếu viết thành văn, tả thành thơ, sắp thành núi…, thì tình cảm đối với quê hương vẫn không phai mờ, khi nhớ về cội nguồn và quê cha đất Tổ xa xôi trong muôn vạn dặm đất trời ấy. Ai biết được nỗi xót xa nầy? Phải làm thân phận xa quê như Hoàng tử Lý Long Tường, Lý Dương Côn, của Lý Thừa Vãn, của Lý Kính Huy v.v… hay cả hằng trăm hằng triệu người Việt Nam đã bỏ nước ra đi bằng nhiều lý do khác nhau, thì lúc ấy mới rõ được cội nguồn, vì sao lại như thế? Rõ ràng là do duyên sanh như Đức Phật thường dạy. Cái nầy sanh nên cái khác sanh, cái nầy diệt nên cái khác diệt. Cái nầy không có thì cái kia sẽ không có v.v… Đâu có ai nghĩ rằng khi sinh ra, chính mình phải rời xa Tổ quốc để mưu sinh đâu? Dầu cho xứ đó có vàng nhiều như Hoa Kỳ, Úc Châu hay Canada đi chăng nữa, thì đó chỉ là nơi mà cần phải đến, làm xong nhiệm vụ rồi lại về, chứ đâu có ai nghĩ là mình sẽ ở mãi lại một nơi cố định nào, ngoài nơi chôn nhau cắt rốn của mình?
Ra đi không phải để trốn tránh trách nhiệm của tiền nhân hay chạy khỏi một âm mưu thôn tính nào đó đối với cá nhân mình, mà mỗi người ra đi khỏi nước đều mang theo trong tâm khảm, trên đôi vai một nghĩa vụ, một ân tình, một nỗi niềm… khi phải sống xa đất mẹ. Ngày nay người ta đặt ra lắm danh từ để gọi những người ra đi như thế, nhưng đâu có ngờ rằng, khi hỏi lại cho kỹ cũng có rất ít người muốn bỏ nước ra đi. Ra đi lấy chồng xa xứ qua tận nước Chiêm Thành như trường hợp của Huyền Trân Công chúa, con Vua Trần Nhân Tông cũng là một nhân duyên, một nghĩa vụ. Hay ra đi như Ngọc Vạn Công chúa, con của chúa Nguyễn Phúc Nguyên về làm dâu Cao Miên cũng mang một ý nghĩa vô cùng to lớn. Nếu không có hai vị Công chúa của Đại Việt hay hai Hoàng hậu của Chiêm Quốc và Cao Miên thì chúng ta sẽ đã chẳng có 2 châu Ô, châu Lý và Sài Gòn, Gia Định ngày nay. Họ là những tấm gương tuyệt thế giai nhân, anh hùng dân tộc đã đem thân gái dặm trường mở mang thêm bờ cõi của Đại Việt về phía Nam. Nếu không như vậy thì chúng ta không có được một giang sơn gấm vóc có hình cong như chữ S ngày hôm nay.
Nhìn miền Nam của Đại Hàn vào những năm 1967, 1968, rồi nhìn Đại Hàn ngày hôm nay của năm 2017 so sánh với quê hương Việt Nam của chúng ta, quả là đáng xấu hổ vô song. Vì lẽ nó cách xa nhau một trời một vực. Lý do đơn giản là Việt Nam bị tụt hậu so với các nước láng giềng, chỉ vì không đi đúng lòng dân, hay nói gần hơn giữa Bắc và Nam Hàn cũng như vậy. Khi con người có Tự do thì mọi khía cạnh về Tôn giáo, Văn hóa, Chính trị, Giáo dục, Kinh tế v.v… sẽ được thăng hoa. Nếu không là vậy xã hội sẽ đi thụt lùi, chứ không thể tiến bộ được. Thuở xa xưa của năm 1226 chắc có lẽ Triều Tiên hay Cao Ly cũng không phát triển được gì nhiều. Vì đây là ảnh hưởng dây chuyền của các quốc gia quân chủ thời bấy giờ tại Á Châu. Tuy nhiên Phật giáo đã giữ một vai trò quan trọng trong vấn đề cai dân trị nước của các đấng Quân vương. Nếu thế kỷ thứ 13 ấy tại Nhật Bản không có những bậc Đại Sư như Nichiren Shonin (Nhựt Liên Thánh Nhơn), Dogen Zenshi (Đạo Nguyên Thiền sư) v.v… hay Việt Nam không có Phù Vân Quốc Sư, Điều Ngự Giác Hoàng hoặc Đại Hàn không có những bậc Chân Tăng thạc đức thì không thể giữ gìn bờ cõi nước non của mình được, mà dưới trận cuồng phong vũ bão của quân Nguyên Mông xâm chiếm đến đâu, thì các dân tộc kia phải đầu hàng đến đó rồi. Thế cờ đã đổi ngược, Mông Cổ phải quay về Trung Quốc để dưỡng binh và họ đã 3 lần chính thức đánh chiếm Đại Việt trong những năm 1258, 1285 và 1287, nhưng tất cả đều đại bại. Đó chẳng qua vì quân Nguyên Mông đã chẳng lượng được sức mình và coi thường thế nước lòng dân, trong đó Phật giáo giữ một vai trò quan trọng mà quân Nguyên Mông đã xem thường.
Ngày nay nếu ai đó đến chiêm bái chùa Hải Ấn (Heiin Sa), nơi lưu giữ hằng nghìn mộc bản được khắc thành Đại Tạng Kinh lên đó, mãi cho đến ngày nay vẫn còn, khiến cho thế giới phải khâm phục và tuyên dương công đức của người xưa, bằng cách xếp ngôi chùa Hải Ấn và những mộc bản kinh văn nầy thuộc về “Di sản văn hóa thế giới”. Nếu không có Phật giáo và những bậc quân vương biết thực hành Bồ Tát hạnh thì quê hương Đại Việt, Cao Ly hay Nhật Bản không còn tồn tại giá trị lịch sử được như ngày hôm nay. Chùa Bukkoku Sa (Phật Quốc tự) hay Tondo Sa (Thông Độ tự) v.v… Đây là những gia tài văn hóa khó tìm đâu ra được trên thế giới vẫn còn tồn tại cả ngàn năm như Nam Hàn ngày nay. Mãi cho đến bây giờ Bắc Hàn vẫn còn đóng khung, khép kín theo chủ nghĩa Cộng sản, nên ít ai được tự do lui tới, nghiên cứu về đền đài cung điện cũ của những vua chúa thời xa xưa hay những chùa viện đã xây dựng từ cả hơn 1.000 năm trước kể từ thế kỷ thứ 6, thứ 7 đến nay. Khi Phật giáo từ Trung Quốc mới được truyền sang Đại Hàn ở vào giai đoạn lúc ban đầu kia và chắc rằng trong 25 hay 26 đời Lý đã tồn tại ở Nam Bắc Hàn có lẽ cũng đã có nhiều vị xuất gia hay xây dựng chùa viện tại đó. Đây là một dấu hỏi to lớn còn bỏ trống. Mong rằng có cơ hội, chúng ta sẽ tìm hiểu thêm.
Cũng giống như trường hợp Chúa Nguyễn Ánh bôn tẩu ra ngoại quốc (Cao Miên và Thái Lan) trong thời gian Nguyễn Huệ lên làm vua từ năm 1786 đến năm 1792. Chỉ trong vòng 6 năm ngắn ngủi ấy, nhưng trước đó quân của chúa Nguyễn cũng như quân của Tây Sơn đã đọ sức quá nhiều lần. Cuối cùng Nguyễn Ánh thua và phải cùng gia nhân quyến thuộc chạy qua Thái Lan để tỵ nạn. Trong thời gian ở Thái Lan, Chúa Nguyễn Ánh cũng đã hỗ trợ cho Phật giáo và quốc gia Thái Lan không ít, khi giúp vua Rama Đệ nhị đánh thắng giặc Miến Điện đã quấy phá biên thùy Thái Lan vào thuở ấy. Bây giờ 18 đến 20 ngôi chùa Việt Nam được thành lập trên đất Thái vẫn còn đây và ở đó đã gởi hồn dân tộc của những người con xa quê hương Tổ Quốc, khi nhớ đến và nghĩ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Mặc dầu ngày nay trong những ngôi chùa nầy không còn bóng dáng một Sư Tăng Việt Nam nào nữa cả, thế nhưng sự truyền thừa của Phật giáo Bắc Tông chay tịnh trong cuộc sống tu hành cũng như hai thời công phu bái sám sáng chiều bằng tiếng Việt Nam ở đây vẫn còn gìn giữ. Đó là cái hồn của Dân Tộc Việt tại xứ người vậy.
Từ đó chúng ta có cái nhìn lùi lại với thời gian quá khứ xa xưa của Hoàng tử Lý Long Tường cùng 6.000 người ra đi tỵ nạn đến Đài Loan và Đại Hàn, không lẽ họ không tạo dựng được một ngôi chùa nào cả hay đã chẳng có một vị chân tu nào khả kính, khiến cho chúng ta phải có những thắc mắc thật không phải nhỏ trong đầu óc của mỗi người. Vì lẽ bắt đầu triều Lý năm 1010 là Ngài Lý Công Uẩn, tức là Lý Thái Tổ, người xuất thân từ cửa chùa, lại là con nuôi của Quốc Sư Vạn Hạnh và là học trò của Thiền sư Lý Khánh Vân. Suốt một triều đại hơn 200 năm lịch sử ấy đã có Lý Huệ Tông sau khi nhường ngôi cho Lý Chiêu Hoàng vào năm 1224, ông vào Chùa Bút Tháp rồi Chùa Chân Giáo để xuất gia và chính năm Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh vào năm 1226 cũng là năm ông bị bức tử và Hoàng tử Lý Long Tường cũng đã bỏ quê hương Đại Việt ra đi. Chắc rằng những hình ảnh của những ngôi chùa, những ngọn tháp cao chót vót như Chùa Bút Tháp hay những chùa viện khác tại Bắc Ninh sẽ không thể trong một sớm một chiều mà Hoàng tử Lý Long Tường lại quên đi đời sống tinh thần của các Tiên đế triều Lý được. Vậy chúng ta phải có bổn phận truy nguyên về giai đoạn lịch sử nầy để cho con cháu Đại Việt được thơm lây. Nó không phải chỉ có thời điểm của năm 1253 Hoàng tử Lý Long Tường đã lập công với vua Cao Tông Đại Hàn, đánh thắng được giặc Nguyên Mông, mà gia tộc Nhà Lý đó cho đến ngày nay năm 2017 vẫn còn tồn tại tại Nam Bắc Đại Hàn qua 25, 26 thế hệ như vậy. Quả là một dòng lịch sử, một chuỗi sự kiện thật là bất khả tư nghì.
Từ năm 1792 đến năm 1802, trong 10 năm trời ấy gọi là nhà Nguyễn trung hưng. Gia Long Nguyễn Ánh và bầu đoàn thê tử đã trở về lại Việt Nam, trú ngụ trên đất Gia Định, Sài Gòn ngày nay. Những ngôi chùa Khải Tường, Từ Ân hay Đại Giác ở Biên Hòa đều là những cơ sở tạm thời của Chúa Nguyễn trước khi an dân, trị quốc và xưng vương vào năm 1802 với đế hiệu là Gia Long. Nếu những ông vua nầy không cậy nhờ nơi Phật giáo, thì thử hỏi nhân dân có tin cậy mình không? Vì Phật giáo là bóng cây đại thọ, che chở cả hồn dân tộc Việt, chứ không phải chỉ che chở cho Hoàng gia mà thôi.
Câu hò:
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”
Đây có thể là tâm trạng của những cô gái mới lớn, rồi xuất giá theo chồng. Mỗi lần có chuyện không vui thì hay ra ngõ sau để nhìn về quê mẹ. Nơi đó có ai biết thấu cho nỗi đoạn trường của kẻ xuất giá tùng phu chăng? Còn ở đây, tâm sự như của Hoàng tử Lý Long Tường hay của Chúa Nguyễn Phúc Ánh thì:
… Trông vời cố quốc biết đâu là nhà...
Không phải chỉ có nhà cửa của mình, lăng miếu của Tiên đế, mà còn cả một quê hương xa thẳm trong muôn trùng… tất cả đều để lại sau lưng để cho những người đương quyền chi phối. Bây giờ thì sức mạnh đã quy vào kẻ có quyền rồi, còn những người sức yếu, thế cô chỉ ở vậy để chờ thời, một là quy cố hương trong vinh quang chiến thắng như Vua Gia Long, hay bôn tẩu nơi xứ người để tìm chỗ nương thân mà giữ tròn tiết tháo của mình như Hoàng tử Lý Long Tường đã hơn 900 năm qua vẫn chỉ một lòng với quê hương Đại Việt nầy. Hay gần đây hơn kể từ năm 1975 đến nay đã có hơn 3 triệu người bỏ nước ra đi, chỉ vì hai chữ Tự Do và có người đã quay về, nhưng cũng có rất nhiều người xin chọn nơi nầy làm quê hương, chứ không trở lại quê mẹ khi Việt Nam chưa thay ngôi đổi chủ.
Dân tộc nào cũng có nội loạn và ngoại xâm. Không có quốc gia nào luôn bình an trong muôn thuở, vì con người luôn bị tham, sân, si chi phối và vì tự mình không làm chủ lấy mình, nên mới như vậy. Nếu biết rằng: Tất cả đều vô thường và bị vô thường chi phối, ngay cả ngai vàng hay quyền cao tước trọng đi chăng nữa, vào một sớm mai khi thức giấc dậy, hai chân còn chưa xỏ vào đôi dép đang nằm ở đầu giường ấy được, thì chấp chặt làm chi những danh vọng hão huyền ấy. Do vậy nên mới có nhiều ông vua đi xuất gia học đạo. Ngay cả Thái tử Tất Đạt Đa ngày xưa cũng thế thôi. Vốn là một Đông Cung Thái tử, có thể nối nghiệp trị vì, đứng đầu cả thiên hạ như Vua Tịnh Phạn hằng mong ước, nhưng ngai vàng và tất cả quyền uy, danh vọng, vợ đẹp, con ngoan cũng chỉ là nguyên nhân của mọi sự khổ đau về sau nầy, nên Ngài đã từ bỏ tất cả. Muốn dẹp cái khổ của sanh, già, bệnh, chết đi thì phải biết tư duy như thế nầy. Đây không phải là tôi, đây không phải là của tôi và đây không phải là bản ngã của tôi. Người nào trên từ vua chúa, dưới cho đến thứ dân mà hiểu được nguyên lý nầy tức là hiểu Đạo và Đạo học Tam Pháp Ấn ấy vẫn luôn có giá trị cho đến muôn đời, dẫu cho con người có chết đi, sống lại trong nhiều năm tháng, cũng không bao giờ thay đổi được.
Lịch sử đã trôi qua, sự lặp lại không bao giờ giống như xưa nữa. Nếu có ôn cố tri tân về những bài học lịch sử như thế, không phải để luyến tiếc một thời đã qua, mà để chiêm nghiệm về cuộc thế vô thường. Ngay cả ngai vàng mà Vua Trần Thái Tông còn xem như “đôi dép bỏ”thì hà cớ gì mà người đời sau vì cái lợi nhất thời mà mắc bẫy lẫn nhau để tru di tam tộc người khác cho mình được sống? Cuối cùng cũng chỉ là tham vọng của cá nhân mà thôi! Nó cũng giống như Đào Cam Mộc ở triều Lý, Trần Thủ Độ của triều Trần, Nguyễn Trãi của triều hậu Lê v.v… Tất cả đều như thế và tất cả đều sẽ không còn gì ngoại trừ những việc thị phi, nhân ngã của miệng thế. Ví như Trần Thủ Độ, ông ta được gì? Dẫu cho có tiếng là một công thần, được làm đến chức Thái Sư, nhưng đến năm 1264 khi ông 71 tuổi, ông cũng phải trút hơi thở cuối cùng để trở về với cát bụi mà thôi. Ông được truy phong là Thượng Phụ Thái Sư Trung Vũ Đại Vương. Thế nhưng nhiều đời sau và mãi cho đến giờ nầy tiếng xấu mà ông đã tạo đối với con cháu Nhà Lý đâu có mất được. Không biết khi xa quê, lúc lên Vọng Quốc Đàn để hướng nhìn về cố quốc, lòng của Hoàng tử Lý Long Tường có bao giờ quên được thái độ của Thái sư Trần Thủ Độ?
Một người ra đi, rời xa cố quốc ngậm đắng nuốt cay khi Đông đến Thu về. Thế nhưng 1.000 năm sau Hoàng Tộc Nhà Lý ấy đã có người khôi phục lại, vẫn còn được nhắc nhở nhiều lần qua sách vở và truyền thông ở trong cũng như ngoài nước. Quả là điều lịch duyệt vô cùng.
Chương III
Chốn Kinh Thành
Kể từ đầu triều Nhà Lý kinh đô đã được dời từ Hoa Lư về Thăng Long và kinh thành nầy vẫn được duy trì sửa đổi qua các đời vua Nhà Lý. Đến khi Nhà Trần thay ngôi đổi chủ thì Thăng Long vẫn là chốn kinh thành hoa lệ và Nhà Trần suốt mấy trăm năm lịch sử cũng giữ lại chốn nầy, mãi cho đến khi nhà Hồ lên ngôi thì Thăng Long trở thành chốn hoài cổ, mà cuối thời Hậu Lê, Bà Huyện Thanh Quan đã làm một bài thơ Đường để đời, ai trong chúng ta khi đọc đến cũng chạnh lòng:
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương
Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường
Cảnh đời chẳng khác nào một sân khấu, luôn thay đổi, đổi thay. Kinh thành Thăng Long xưa kia là nơi nam thanh nữ tú đến đi, qua lại, học hành, thi cử, múa hát, ca ngâm v.v… Cho đến khi có mặt của Bà Huyện Thanh Quan thì Thăng Long cũng đã trải qua nhiều nắng sớm sương chiều như vậy. Nơi ấy đã hằng ghi lại bao nhiêu dấu tích của vết xe ngựa đã lăn qua, chúng làm mòn cả lối đi cho bao nhiêu mùa Thu của cây cỏ, và lầu vàng gác ngọc ngày xưa ấy quanh năm suốt tháng được che chở bởi những tàng cây xanh mát, để mặt trời khỏi dọi chiếu vào. Thế nhưng những cụm đá được xây thành lâu đài ấy bây giờ vẫn còn nằm im lìm bất động ở đó, chỉ có non sông gấm vóc nầy vẫn còn lạnh nhạt với bao nhiêu sự đổi thay của các triều đại, không khác nào bãi biển ngày xưa đó, nhưng bây giờ đã trở thành những ruộng dâu rồi. Nếu lấy một ngàn năm để làm tấm gương chiếu hậu, soi lại cho chính mình và cho nước nhà Đại Việt thì kẻ bên nầy hay người bên kia, kẻ đang được một triều đại tôn phong bao bọc bởi vinh hoa phú quý, rồi nhìn lại người ở đây bị thất sủng chầu rìa, bị bỏ rơi ra ngoài xã hội, thì nỗi đau nào còn sầu thảm hơn được như thế nữa chăng?
Chỉ 8 câu thơ Đường nầy thôi cũng đã nói lên được tâm trạng của người đến sau một lần thay ngôi đổi chủ như thế. Thăng Long đã một thời oanh liệt, nay còn đâu? Thăng Long của văn hiến, của ngàn năm văn vật. Trong những năm gần đây người ta đã cho khai quật lại chân dung của thành Thăng Long có từ đời Lý, Trần, cho đến thời Lê Mạt Nguyễn Sơ và đầu thế kỷ thứ 19 vào năm 1802 khi Gia Long lên làm vua thống nhất sơn hà đặt kinh đô tại Huế, thì Thăng Long chỉ còn là hoài niệm. Do vậy Bà Huyện Thanh Quan mới thở than như vậy.
Tâm sự của Bà Huyện Thanh Quan cũng là tâm sự của tất cả chúng ta khi chứng kiến một triều đại đã suy tàn và một người khác hay một tộc họ khác nổi lên để lãnh đạo quần chúng. Chúng ta có thể gọi đây là những phong trào. Phong là gió, mà gió thì không định hướng. Khi nào đất trời thịnh nộ thì phong ba bão táp lại nổi lên. Trào là triều. Ý nói mỗi ngày nước biển lên xuống hai lần, không có lần nào giống lần nào cả. Một triều đại đã thối nát thì cần một sự đổi thay. Đó là chuyện xưa nay là vậy. Nếu ông vua vô đạo mà ngự trị mãi trên ngai vàng thì dân chúng làm sao chịu nổi sự cai trị độc tài, dã tâm như thế được. Nếu ông không tự xuống ngai vàng thì dân chúng cũng nổi lên lật đổ, giống như thời Lê Long Đỉnh v.v… lịch sử đã tái diễn điều đó. Tuy không giống hệt nhau, nhưng tang thương ngẫu lục đều như nhau cả. Nghĩa là có sanh ra thì phải có già đi. Đã già thì phải bịnh, khi bịnh đến giai đoạn cuối cùng thì phải chết. Đâu có ai sống được 1.000 năm mà luôn muốn được xưng hô là “Vạn Tuế”.
Trong thời Nhà Trần chúng ta chỉ có thể đề cập đến 4 vị vua đầu và một số danh tướng cũng như Công chúa, Hoàng hậu, Tăng sư v.v… để điểm qua một giai đoạn lịch sử quan trọng như vậy. Còn những vị vua sau thì xin không được đề cập đến, vì sợ quyển sách nầy quá dày, khiến cho nhiều người không muốn đọc, khi phải nâng quyển sách trên hai tay một cách nặng nề.
- Đầu tiên chúng ta phải đề cập đến vị trí của Vua Trần Thái Tông, ông vua đầu Nhà Trần làm vua từ năm 1226 đến năm 1258.
- Kế tiếp là Vua Trần Thánh Tông làm vua từ năm 1258 đến năm 1278.
- Đời thứ ba là Vua Trần Nhân Tông từ năm 1278 đến năm 1293 và đời thứ 4 là Vua Trần Anh Tông từ năm 1293 đến năm 1314.
Trong 88 năm dài chỉ có 4 đời vua. Như vậy trung bình mỗi ông vua ở ngôi từ 22 năm trở lên. Dĩ nhiên là có ông ngồi trên ngai vàng ít hơn số trung bình ở trên và có ông ngồi gần gấp đôi số lần như thế. Vì tuổi thọ của các vua chúa đời xưa rất ngắn, vì đời sống với nhiều cung tần mỹ nữ, rượu ngon, của quý v.v… tất cả những thứ ấy là những loại độc dược, làm hại đến thân thể và tâm thức của mình, nhưng mấy ai làm chủ được mình, nhất là một đấng Quân vương, nằm trên thiên hạ và tự mình gọi là Hoàng đế hay Thiên hoàng. Hãy nhìn lại vua Lê Long Đỉnh của nhà Tiền Lê thì rõ và trong lịch sử của Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật Bản trong quá khứ cũng không thiếu những ông vua như vậy, nhưng đồng thời cũng có những ông vua thuộc loại “minh quân hiền đức” mà xưa nay ít ai có thể bì được như Vua Nghiêu, Vua Thuấn bên Trung Hoa hay như Lý Thái Tổ, Lê Thái Tổ của Việt Nam chúng ta thuở trước !!!
Nếu nhìn vào “Tộc Phả” các thế hệ vua và quan đời Nhà Trần của những thế hệ đầu thì ta thấy như thế nầy:
Trần Thừa sinh ra Trần Cảnh và Trần Liễu. Như vậy Trần Liễu ở vai anh và Trần Cảnh tức Vua Trần Thái Tông thuộc vai em. Trần Liễu sinh ra Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Quốc Tung, Vũ Thành Vương Doãn, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và Thiên Cảm Hoàng hậu. Thánh Tông nối ngôi Thái Tông, nhưng trên thực tế Thánh Tông cũng là con của Trần Liễu, chứ không phải là con của Thái Tông. Như vậy khi Thánh Tông lên làm vua lấy Thiên Cảm Hoàng hậu làm vợ mình. Vậy thì đây gọi là tình gì? Một cha khác mẹ hay như thế nào?
Rồi đến Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn sinh ra 4 người con trai là: Hưng Vũ Vương Quốc Nghiễn, Hưng Hiến Vương Quốc Uy, Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng, Hưng Trí Vương Quốc Hiển và Khâm Từ Hoàng hậu. Sau nầy Hoàng hậu lấy Vua Trần Nhân Tông sinh ra Anh Tông và Huyền Trân Công chúa. Như vậy Vua Trần Nhân Tông vừa gọi Hưng Đạo Đại Vương là Quốc Trượng (cha vợ), cũng vừa là cậu nếu đứng về phía mẹ của mình là Hoàng hậu Thiên Cảm vợ Vua Trần Thánh Tông, và cũng gọi là bác khi đứng về phía Trần Liễu.
Triều Trần thật ra là một triều đại quá rắc rối về vấn đề hôn phối cận huyết. Chỉ có một trong nhiều điều hay của Nhà Trần mà trước đó triều Nhà Lý không có, mà cả các triều đại sau nầy cũng như thế, là không ai có thể dám nhường ngôi cho con mình lúc còn trẻ trung để lên làm Thái Thượng Hoàng cả, ngoại trừ triều Trần.
Ở đây chúng ta thấy vào năm 1258 sau khi đánh thắng quân Mông Cổ lần thứ nhất xâm chiếm Đại Việt thì Vua Trần Thái Tông đã nhường ngôi cho con là Trần Thánh Tông để lên ngôi Thái Thượng Hoàng rồi. Có lẽ sau chiến công hiển hách ấy, Trần Thái Tông muốn lui về ở ẩn chép kinh, viết sách và thực hành ý nguyện ẩn cư như khi đương làm vua mà bỏ kinh thành Thăng Long, trốn vào núi Yên Tử để gặp Quốc Sư Phù Vân và chỉ muốn làm Phật, chứ không muốn làm gì khác và theo sử sách ghi lại rằng suốt cả mấy mươi năm ở ngôi vua như thế, ban ngày lo chăn dân, trị nước, tối lại đốt đèn xem kinh, tọa thiền, vấn đạo. Có lẽ như vậy mà ông đã ngồi trên ngai vàng được đến 32 năm chăng (1226 – 1258). Sau khi đánh bại đại quân của Ngột Lương Hợp Thai người Mông Cổ, Thái Tông truyền ngôi cho Hoàng tử Trần Hoảng và tự xưng là Thái Thượng Hoàng. Từ đấy, Nhà Trần theo lệ truyền ngôi sớm cho Thái tử. Thượng Hoàng tuy nhường ngôi, nhưng vẫn quán xuyến mọi việc, giúp vị vua trẻ quen dần với chính sự. Các vua mới phong vương đóng đô tại Thăng Long, còn các Thái Thượng Hoàng lui về ở tại Phủ Thiên Trường.
Dưới triều đại của Vua Trần Thánh Tông mọi việc chính sự vẫn đều chu toàn, Nhà Trần tiếp tục thịnh trị. Ông xưng là Nhân Hoàng và niên hiệu cải thành Thiệu Long. Ông ở ngôi vua từ năm 1258 đến 1278. Trong thời gian nầy Trần Thủ Độ qua đời vào năm 1264, thọ 71 tuổi. Bắt đầu từ Vua Trần Thánh Tông, Nho giáo đã thịnh hành và có ảnh hưởng mạnh trong bộ máy nhà nước. Ông cư xử trong hoàng tộc rất là chí tình, đối với những vương tôn công tử, trừ lúc thiết triều, ông đều hòa mình vào với họ để ăn uống, vui chơi, nên tình thân trong hoàng tộc lại càng bền vững hơn xưa rất nhiều. Ông ở ngôi vua được 20 năm thì nhường ngôi cho con là Trần Nhân Tông.
Năm 1277 Thượng Hoàng Trần Thái Tông băng hà, thọ 58 tuổi, trị vì được 33 năm, làm Thượng Hoàng được 19 năm. Cùng năm đó Trần Thánh Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Khâm, tức là Vua Trần Nhân Tông và lên làm Thái thượng hoàng với Tôn hiệu là Quang Nghiêu Từ Hiếu Thái Thượng Hoàng Đế. Vua Trần Nhân Tông lên ngôi xưng làm Hiếu Hoàng và đổi niên hiệu thành Thiệu Bảo. Khi ấy họa giặc giã từ quân Nguyên ở phía Bắc đang kéo đến. Năm đó quân Nguyên đánh diệt nhà Tống, Tả Thừa tướng nhà Tống là Lục Tú Phu cõng Tống đế nhảy xuống biển chết. Hậu cung và các quan chết theo rất nhiều. Qua 7 ngày có đến hơn 100.000 xác chết nổi trên mặt biển. Xác Tống đế cũng ở trong đó.
Để chuẩn bị cho chiến tranh chống ngoại xâm, Nhà Trần cho tiến hành xét duyệt sổ đinh, chuẩn bị lương thảo lực lượng. Phong cho Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn làm Quốc Công Tiết Chế, thống lĩnh quân đội toàn quốc, sai chọn các quân hiệu có tài chỉ huy, chia đi nắm giữ các đơn vị. Cuối cùng quân đội Nhà Trần toàn thắng vào năm 1285 và năm 1288. Đến đây, Nhà Trần bắt đầu bước vào thời thịnh trị lâu dài tiếp theo sau đó. Bản đồ của Đại Việt dưới thời Nhà Trần thuở ấy chỉ mới từ Tam Quan đến Hà Tĩnh, nghĩa là bằng khoảng gần phân nửa đất nước của chúng ta ở thế kỷ thứ 21 nầy. Dân số không biết là bao nhiêu, nhưng đa phần là nông dân nên chắc chắn sức mạnh rất cường tráng và việc làm phu đi đánh giặc, họ đã chẳng ngại ngùng gì.
Thời vua Trần Thánh Tông giặc phương Bắc chỉ mới ngắm nghé giang sơn bờ cõi Đại Việt mà thôi. Mãi cho đến khi Vua Trần Nhân Tông lên ngôi, từ năm 1278 đến năm 1293 có hai cuộc chống trả toàn thắng quân Nguyên Mông qua hai Hội Nghị Bình Than và Hội Nghị Diên Hồng đã thành công rực rỡ, khiến cho thế giới phải quan tâm. Đây có lẽ cũng là thời đại vàng son nhất của đời Nhà Trần, khi Nhân Tông vẫn còn Vua cha là Thánh Tông làm Thái Thượng Hoàng. Tuy không trực tiếp ra đánh giặc, nhưng những cố vấn quân sự của Thánh Tông cũng như sự giúp sức đặc biệt của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và Tuệ Trung Thượng Sỹ Trần Tung, hai người anh em ruột thịt nầy đã giúp cho gia phong của mình thêm lừng lẫy hơn nữa.
Lần thứ nhất vào cuối năm 1257, đầu năm 1258 tướng Mông Cổ là Ngột Lương Hợp Thai (Uriyangqadai) mang 30.000 quân tiến vào nước Đại Việt qua đường Vân Nam. Vua Trần Thái Tông đích thân cầm quân ra chiến trận. Quân Nhà Trần cố gắng chặn đường nhưng quân Mông Cổ vẫn tiến được vào Thăng Long. Nhân dân Thăng Long đã thực hiện mệnh lệnh của triều đình là “Vườn không nhà trống” rút về Thiên Mạc – Hà Nam. Ngột Lương Hợp Thai kéo quân vào Thăng Long chưa đầy 1 tháng thì bị thiếu lương thực. Nhân cơ hội đó, quân Đại Việt phản công ở Động Bộ Đầu - Từ Liêm Hà Nội. Quân Mông Cổ thua phải rút khỏi Thăng Long, đến vùng Quy Hóa của Yên Bái bị quân của Tộc trưởng Hà Bổng đánh tan tác, quân Mông Cổ thua rút chạy về phương Nam.
Lúc nầy thì Trần Thủ Độ vẫn còn và Vua Trần Thái Tông sau lần chiến thắng đầu tiên nầy, ông đã nhường ngôi cho con là Trần Thánh Tông lên làm vua và ông lên làm Thái Thượng Hoàng, lui về phủ Thiên Trường ngày đêm lo kinh kệ. Tuy nhiên những việc triều chính, quốc sự có gì khó khăn thì Thái Tông vẫn cố vấn cho Thánh Tông để việc nước suôn sẻ với vị vua trẻ mới lên ngôi.
Đến năm 1279 quân Mông Cổ diệt được Nam Tống. Từ năm 1280 vua Mông Cổ là Hốt Tất Liệt đã lập ra nhà Nguyên. Để lấy cớ đánh Đại Việt, nhà Nguyên cho Toa Đô mượn đường sang đánh Chiêm Thành. Sau nhiều hoạt động ngoại giao hòa hoãn bất thành, cuối cùng chiến tranh bùng phát.
Tuy ở ngôi Thái Thượng Hoàng, nhưng cuộc chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai vào năm 1285 và lần thứ ba vào năm 1287 vẫn có sự điều binh khiển tướng của Trần Thánh Tông để giúp Nhân Tông thành công trong việc đánh chống 2 cuộc xâm lăng của quân Nguyên Mông có tính cách lịch sử nầy. Họ lợi dụng việc đi đánh Chiêm Thành, mượn cả đường bộ lẫn đường thủy của Đại Việt, nhưng dưới sự anh minh của Nhân Tông qua sự cố vấn của Thánh Tông, họ không thể lấy cớ đó để cướp đoạt Đại Việt được.
Năm 1284 nhà Nguyên liền phái Hoàng tử Thoát Hoan và tướng Toa Đô mang quân đánh hai đường Nam, Bắc kẹp lại để chiếm Đại Việt. Thoát Hoan đi từ Quảng Tây, còn Toa Đô đi đường biển từ cảng Quảng Châu, trước hết đánh vào Chiêm Thành, rồi đánh “gọng kềm” thốc lên từ phía Nam Đại Việt.
Nhà Nguyên mang 50.000 tinh binh để xâm lăng Đại Việt. Đây là cuộc kháng chiến gian khổ nhất của Nhà Trần chống giặc phương Bắc, quyết định sự tồn vong của Đại Việt lúc đó. Cuối cùng rồi chiến thuật “Vườn không nhà trống” của Đại Việt đã thành công. Quân nhà Nguyên vào thành Thăng Long không có lương thực để dùng và bị bịnh dịch do không hợp với phong thổ của bản địa. Sau đó Nhà Trần tổ chức phản công vào cuối Xuân, đầu Hè năm 1285. Với những chiến thắng ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, quân Trần đại thắng, bắt giết được Toa Đô, Thoát Hoan thu tàn quân chạy về phương Bắc.
Trong lần kháng chiến thứ 3 chống Nguyên Mông dưới sự lãnh đạo của Tuệ Trung Thượng Sỹ Trần Tung và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cũng như Vua Trần Nhân Tông và các tướng tài, nên Hưng Đạo Đại Vương đã tâu với Vua Trần Nhân Tông rằng: “Quân ta đã quen việc chiến trận, mà quân nó thì phải sợ đi xa… Theo như thần thấy, phá được chúng là điều chắc chắn”. Nhà Trần tiếp tục chủ động áp dụng chiến thuật tránh thế mạnh, triệt lương thảo. Cuối cùng quân Nhà Trần đại phá quân Nguyên ở sông Bạch Đằng vào tháng 4 năm 1288, bắt sống Nguyên soái Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ. Thoát Hoan một lần nữa chạy trốn về phương Bắc.
Thật sự ra sau 3 lần thua xiểng niểng chỉ trong mấy chục năm liên tục, Nguyên Thế Tổ vẫn chưa dừng mộng đánh chiếm Đại Việt, nên những năm sau đó nhà Minh vẫn tiếp tục điều binh sang, nhưng chưa gặp thời cơ thuận tiện. Đến năm 1294 vào cuối thế kỷ thứ 13, Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt băng hà, nên cháu nội là Nguyên Thành Tông khi lên ngôi không muốn gây chiến với Đại Việt nữa. Do vậy việc chiến tranh với nhà Nguyên từ đó mới chấm dứt.
Khi nhà Minh ở Trung Hoa lên ngôi, Minh Thái Tổ liền cho xây Tử Cấm Thành và các cung điện phụ thuộc rất tráng lệ nguy nga. Năm 1400 đến năm 1417 nhà Minh chiếm lấy Đại Việt. Đây là Bắc thuộc lần thứ 3 của Đại Việt, sau 400 năm độc lập tự chủ nhờ vào tinh thần dân tộc và triết lý Phật giáo, cả vua tôi Nhà Lý cũng như Nhà Trần đều chọn Phật giáo làm quốc giáo. Ngay như Nhân Tông và Anh Tông đều thọ Bồ Tát giới tại gia cũng như Bồ Tát giới xuất gia sau khi Nhân Tông đã đi tu, nhờ đó nên sơn hà xã tắc mới về được một mối như vậy. Lần thứ 3 Bắc thuộc nầy, người nhà Minh đã cho mang kinh sách của Đại Việt về thiêu đốt tại Kim Lăng và theo tương truyền rằng ngọn lửa ấy đã trải qua 3 tháng nhưng vẫn còn cháy ngùn ngụt. Việc ấy chứng tỏ cho ta thấy rằng văn học, lịch sử, tôn giáo, giáo dục thịnh hành biết bao nhiêu trong cả hai triều đại Lý - Trần. Do vậy phía Nam thì Chiêm Thành quấy phá muốn xâm chiếm Đại Việt, phía Bắc thì quân Nguyên Mông rồi quân nhà Minh cũng muốn tiêu diệt, vì nhà Minh không muốn Đại Việt sánh ngang hàng với phương Bắc về mọi phương diện. Trong đợt Bắc thuộc lần thứ 3 nầy nhà Minh đã bắt những người tài giỏi của Việt Nam chúng ta làm tù binh và sau đó áp giải về Trường An, Bắc Kinh, trong nầy có một Kiến trúc sư người Đại Việt, đó là Nguyễn An. Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh xây dựng từ triều nhà Minh thế kỷ thứ 15 là do Kiến trúc sư Nguyễn An thiết kế và mãi cho đến bây giờ ở thế kỷ thứ 21 nầy các nhà nghiên cứu về lịch sử kiến trúc cũng như văn hóa đều đưa ra kết luận như trên và tên tuổi của ông được truyền thông Tây Phương nhắc đến rất nhiều.
Chữ Tử ở đây là màu tím, có nghĩa là đẹp. Cũng như Quảng Trường Đỏ ở điện Kremlin tại Moscow Nga Sô nó không có nghĩa là màu cờ đỏ, mà tượng trưng cho vẻ đẹp, nét đẹp của một thủ đô, một thành phố. Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh xây dựng thật là vĩ đại và tốn phí không biết bao nhiêu là của công. Ngày nay nếu ai đó có dịp đến đây để tận mắt xem cách kiến trúc đồ sộ của người xưa, chúng ta cũng phải ngã mũ xuống chào. Vì lẽ những Kiến trúc sư tài ba ngày nay chưa chắc gì thực hiện được những công trình kiến trúc vĩ đại như vậy, mặc dầu ngày nay có nhiều phương tiện hơn.
Tử Cấm Thành ngoài những điện chính để Vua thăng đường nghe tâu quốc sự ra, còn có rất nhiều chùa viện, am miếu cũng như chỗ ở của tam cung lục viện, chầu chực bên bệ rồng. Tòa lâu đài nơi Vua ngự có đến 999 phòng dùng để cho các bà Phi và cung tần mỹ nữ ở. Con số 9 là con số tốt, con số đẹp của người Trung Hoa và đồng thời cũng là con số linh thiêng cũng như con số hên của dân tộc nầy. Tương truyền rằng Vua trời có đến 1.000 bà vợ thì con trời, tức là Thiên Tử của Trung Hoa không được phép hơn Vua cha ở điểm nầy, nên những Thiên Tử của Trung Hoa chỉ xây 999 phòng mà thôi. Đây có thể là một truyền thuyết, một chuyện hài hước khi nói đến số phòng nhiều, khó đếm hết được. Mỗi năm chỉ có 365 ngày, nếu ngày nào ông Vua cũng đi thăm một bà Phi thì phải 3 năm như vậy mới đi hết 999 phòng nầy. Chế độ đa thê ngày xưa ở Châu Á hay các nước Hồi Giáo không cấm việc lấy vợ bé, nhất là những kẻ có lắm của nhiều tiền. Còn bây giờ ông Vua, bà Hoàng của Âu Mỹ họ sống cũng mực thước lắm. Tuổi thọ của họ cũng cao. Ví như bà Hoàng Thái Hậu Victoria, mẹ của Hoàng hậu Elizabeth của nước Anh sống đến hơn 100 tuổi, và Hoàng hậu Elizabeth bây giờ cũng đã 90 tuổi và ở ngai vàng đã 70 năm rồi, nhưng trông bà còn rất là phong độ. Mới đây vào năm 2016 Vua Thái Lan đã băng hà ở tuổi 88 và ở ngôi vua trên 60 năm. Như vậy việc thiểu dục tri túc rất cần thiết cho mọi con người, chứ không phải chỉ những người thường mới quan tâm, còn vua quan tướng tá thì không lưu tâm đến. Vì tất cả đều là con người, nên tài, sắc, danh, thực, thùy vốn là những chuyện bình thường và có thể trở thành tầm thường trong nhân thế. Những ai muốn mình trở thành phi thường thì phải kiêng cữ tiết dục mọi điều thì tài trí mới được hanh thông.
Đa phần mỗi ông Vua chỉ có một Hoàng hậu là Chánh cung cũng giống như những bà vợ của vua trời Đế Thích. Trong kinh điển nhà Phật bảo rằng ông ta có đến 3.000 bà vợ, nhưng trong đó chỉ có một bà là Chánh cung Hoàng hậu, còn những bà khác, đều do bà Chánh hậu nầy hóa thân ra. Đó là cõi Tiên, có nhiều chư Thiên họ có thể biến hóa được. Còn ở chốn Ta Bà, trần gian đầy tục lụy nầy, con người không thể biến hóa được, cho nên ông vua bằng người trần mắt thịt thường được các quan lại dâng hiến con gái của mình cho vua, để biết đâu mình sẽ trở thành Quốc trượng, khi con gái của mình được lập thành Chánh cung Hoàng hậu. Do vậy trong cung điện, khi Hoàng hậu chưa sinh được Hoàng nam thì đó là mối lo lớn của triều đình, vì không có người kế nghiệp ngôi vua. Nhiều khi sinh được con trai rồi, cũng phải lo nơm nớp, vì sợ như chuyện “linh miêu tráo chúa” của Trung Hoa, đó cũng là một nỗi khổ tâm của những bà Hoàng hậu.
Nếu ai đó có đọc tâm sự của Vua Gia Long, sau khi lên ngôi năm 1802 trong quyển “9 chúa 13 vua” của triều Nguyễn thì ta sẽ thấy được đời sống trong hoàng cung như thế nào. Nó nhiêu khê lắm, không phải chỉ là chuyện “xem hoa ngắm nguyệt” mà lắm chuyện thị phi nhân nghĩa nơi chốn cung đình. Do vậy Vua Gia Long than rằng: “Chúng như những con mèo hoang, tự cấu xé với nhau, khiến cho Trẫm phải bị đinh tai nhức óc!”. Ai mà không muốn Quân vương đoái hoài đến mình một lần trong đời làm con gái. Do vậy kế nầy chước nọ được bày ra trong chốn cung đình hòng để chị em thi thố với nhau, nhằm làm đẹp mắt đấng Quân vương của họ. Vua bảo rằng: “Ở chốn triều đình, hằng ngày ta nghe tấu trình bao nhiêu sự việc, thế mà ta có thể giải quyết được hết cả. Chỉ khi lui về lại cung son, gần với những cung phi mỹ nữ nầy, khiến ta ngao ngán vô cùng”. Họ là những người đẹp được tiến cung, suốt cuộc đời họ chỉ mong chờ được Đức vua đoái hoài, mong nhận được ơn vua lộc nước, nhưng cũng có nhiều nàng cung nữ bị chôn chặt đời mình trong 4 bức tường thành, nên nỗi oán ấy đã dệt thành thơ. Từ đó tác phẩm “Cung oán ngâm khúc” mới được hình thành. Nội dung mô tả một người con gái sống lâu năm trong cung son nhưng không được Vua đoái hoài đến, nên nàng đã mượn tâm sự của mình để viết thành thơ trên lá cây, rồi cho đường mật lên các chữ đã viết, khiến cho kiến ăn mật, đục thủng cả lá cây, đoạn nàng lấy lá cây ấy thả vào những con suối chảy từ trong thành ra ngoài, người ngoài thành nhặt được đọc, khi đó mới rõ biết được tâm sự của những người đã bị cô lập nơi lãnh cung cũng như những cung nhân không được nhà Vua đoái hoài đến.
Trở về lại những câu chuyện lịch sử bên trên của hai triều đại Lý - Trần trong gần 400 năm lịch sử ấy, chúng ta thấy rằng kinh thành Thăng Long là một cung điện chính được xây cất từ khi Lý Thái Tổ mới lên ngôi. Ông xuất thân là một người học trò nghèo, phải nương náu nơi chốn Thiền môn để học hành và tu niệm, làm con nuôi của Thiền sư Vạn Hạnh và là học trò của Lý Khánh Vân, đều là những bậc Danh Tăng thời đầu Triều Lý. Từ đó có câu ca dao:
“Con ai đem bỏ chùa nầy,
Nam Mô Di Phật! Con Thầy Thầy nuôi”.
Việc nầy cũng giống như việc của Thiền sư Eisei (Dinh Tây) của Nhật Bản ở vào thế kỷ thứ 13. Ngày nay chúng ta đọc lại, vẫn thấy có nhiều điểm tương đồng.
Nguyên là trong làng nọ có một nhà Trưởng giả rất giàu, có cô con gái lớn chưa gả chồng. Vì ông bà phú hộ còn muốn tìm chỗ “Môn đăng hộ đối”, nhưng chờ mãi cũng chẳng thể tìm ra người vừa ý, mà cô con gái thì càng ngày càng lớn, thân thể đẫy đà, cô cũng mong có được một tấm chồng. Ngày lại tháng qua tìm đâu cũng chẳng ra được như người trong mộng, cuối cùng nàng đã tư tình với một người làm công và mang thai. Thấy bụng con gái càng ngày càng lớn, cha mẹ cô ta sanh nghi mới gạn hỏi:
- Chủ nhân của cái bào thai kia là của ai?
- Dạ! Dạ! Dạ... nàng ngập ngừng không đáp.
- Là của ai?
- Thưa cha, là của… của ông Sư ở trên chùa.
- Vậy sao? Lâu nay ta vẫn tưởng ông ta là người đạo đức, liêm chính đấy chứ?
Đã đến ngày mãn nguyệt khai hoa, nàng thấy đứa bé bụ bẩm, muốn giữ lại nhà, nhưng sợ cha mẹ, vì con gái “không chồng mà chửa” là cái nhục của gia phong, nên nàng âm thầm bồng đứa trẻ lên chùa và lúc gặp Thiền sư Eisei cô ta bảo:
-Nó là con của ông đó!
-Thế à!
- Ông hãy nuôi nó đi!
- Thế à!
Nhà Sư lẳng lặng bồng đứa bé vào lòng với lòng từ bi vô hạn. Từ sáng sớm sau giờ thiền tọa, đọc kinh, nhà Sư bồng cháu vào xóm nhỏ để xin sữa cho cháu bú. Ai trông thấy cháu bụ bẩm cũng thương, nhưng sau đó lại trề môi nhún mỏ, chỉ trích nhà Sư rằng:
- Sao Sư tu hành mà như vậy?
- Thế à!
- Có phải con của Sư không?
- Thế à!
Ngày lại tháng qua đứa bé mau ăn chóng lớn, khôi ngô tuấn tú vô cùng. Ai thấy cũng mong được ẵm bồng và tập cho đi, tập cho nói.
Cô gái mẹ của chú bé hằng ngày vẫn quan sát con mình đã được nhà Sư chăm sóc ra sao. Nàng rất hài lòng, nhưng trong tâm nàng luôn có nỗi bứt rứt, giày vò khiến cho tâm nàng không an và nàng một lần nữa lại lên chùa với một tâm sự khác.
- Xin ông trả con lại cho tôi!
- Thế à!
- Đứa bé nầy không phải là con của ông… mà là con của…
- Thế à!
Từ đó nàng bồng con về nhà, ai nấy cũng trầm trồ khen sao mà nhà Sư có tay nuôi con, khiến cho đứa bé “mau ăn chóng lớn” như vậy. Và nàng thưa với cha mẹ rằng:
- Thưa ba mẹ, đây là con của con!
- Ừ! Chứ còn con của ai nữa?
- Nhà Sư Eisei chỉ là… chỉ là “Thế à” thôi, chứ không có gì khác.
- Vậy nó là con của ai?
- Dạ, con của người làm công ở phía sau nhà mình đó…
Sau khi nghe như vậy, cha mẹ nàng mới cho người gánh gạo muối lên chùa và chính ông bà đã quỳ xin sám hối về tội lỗi của con mình đã gán ghép đứa con hoang ấy cho nhà Sư. Thiền sư Eisei buột miệng thốt lên một lần nữa:
- Thế à!
Ngài cười thật lớn và biến vào trong am tranh tự thuở nào mà người đứng đó cũng không ai hay biết. Đó là câu chuyện Thiền của Nhật Bản ở vào thế kỷ thứ 13; còn vào đầu triều Lý, hằng ngày Thiền sư Vạn Hạnh vẫn ra vào nơi chốn cung son của các vua thời Tiền Lê, nhưng xét thấy Lê Long Đỉnh hoang dâm vô đạo, bệnh tật, đến nỗi khi thiết triều vì không ngồi được nên ông phải nằm để nghe các quan văn võ tấu trình việc nước, cho nên sử sách về sau nầy còn gọi ông là Lê Ngọa Triều.
Lý Công Uẩn lúc nầy cũng đã lớn khôn, nên đã được ông Đào Cam Mộc bàn bạc với Thiền sư Vạn Hạnh là nên thay đổi nhân sự lãnh đạo đất nước. Tuy Công Uẩn là đứa con hoang, nhưng Công Uẩn được lòng mọi người và có tài điều binh khiển tướng. Ông là đứa con rơi bị đem bỏ trước cửa chùa, Vạn Hạnh Thiền sư động lòng trắc ẩn, nên mới mang Công Uẩn vào nuôi và ngày lại tháng qua dù có bị gièm pha gì đó, thì Ngài vẫn an nhiên tự tại: “Nam Mô Di Phật! Con Thầy Thầy nuôi”.
Con của ai cũng không sao cả. Miễn sao người con ấy khi lớn lên, làm bất cứ điều gì mà có lợi cho dân cho nước, thì người con ấy hữu dụng rồi. Dầu có mặt trên quê hương như Lý Công Uẩn, hay xa quê hương đất nước vạn dặm như Lý Thừa Vãn, Tổng Thống của Nam Hàn là hậu duệ của Lý Long Tường hay Tổng Thống Lý Kính Huy của Đài Loan. Tất cả đều mang một ý nghĩa cao cả. Không ai dám bảo rằng: Người con ly hương ấy không làm được gì cho giống nòi của Đại Việt.
Sinh ra và lớn lên, ăn ở nương nhờ nơi chốn Thiền môn như Lý Công Uẩn như vậy, ông biết cái khổ của dân như thế nào rồi và sự chay tịnh cần khổ trong chùa ra sao, nên sau khi lên làm vua, ông luôn nghĩ đến cái khổ của kẻ khác cũng chính là cái khổ của mình; cho nên những chi tiêu cho quốc phòng, binh bị thì nghiêm mật, nhưng không thiếu kém. Còn chi cho việc xây dựng cung vua tại Thăng Long thời Lý lúc bấy giờ cũng rất khiêm nhường, vì nỗi khổ của nhân dân mới gượng dậy được qua bao nhiêu mùa chinh chiến và loạn 12 Sứ Quân của thế kỷ trước vẫn còn tồn đọng lại, nên Lý Thái Tổ rất e dè. Bây giờ khi khai quật thành Thăng Long tại Hà Nội, người ta thấy những văn bia, đá sỏi, gạch vôi v.v… còn sót lại, khiến cho mọi người phải ngưỡng mộ văn hóa của Đại Việt một thời như thế. Ngày xưa cả hằng ngàn năm về trước các vua chúa và triều thần Lý - Trần đã biết đào giếng, dùng hệ thống thoát nước, cống rãnh trong hoàng thành Thăng Long để đảm bảo vệ sinh và nuôi sống cả hằng trăm người nơi đó. Nào là vua, hoàng hậu, hoàng phi, thái tử, người hầu, kẻ hạ, thái giám, cung phi v.v… rồi chùa viện trong cung son để nhà vua và cung tần mỹ nữ đến lễ bái vào ngày Rằm, Mồng Một hay những ngày chay tịnh trong tháng, trong năm. Chỉ ngần ấy việc thôi, chúng ta cũng thấy được sự sinh hoạt của hoàng cung thuở ấy tấp nập biết là bao.
Ở bên ngoài Hoàng thành còn có trường Quốc Tử Giám để cho các hoàng tử và những sĩ tử vào đó để học hỏi thi thơ, trau giồi kinh sử. Các quan lại làm việc ở triều đình trong các Bộ cũng phải có nhà cửa ở gần Hoàng thành. Có như vậy khi vua ra sắc lệnh, kịp có mặt ngay mà ứng xử, kẻo mắc tội khi quân. Đến những ngày Tết, ngày Rằm, ngày làm lễ xuống ruộng cấy cày, ngày Trung thu, lễ vía v.v… tất cả là một quần thể văn hóa, mà con dân Đại Việt lúc bấy giờ đều tập hợp ở Thăng Long để thi thố tài năng của mình ở chốn kinh kỳ muôn thuở nầy. Người xưa cũng thường nói rằng:
Trai khôn tìm vợ chợ đông
Gái khôn tìm chồng ở chốn ba quân.
Những người dân bình thường muốn vợ mình trở thành người buôn bán tài giỏi, thì cũng hay lặn lội đến những nơi đông người như ở chợ vậy. Tại đó người con gái sẽ thể hiện khả năng nội trợ của mình giỏi giang như thế nào. Nếu hợp nhau, họ sẽ tiến hành đến chuyện hôn nhân về sau nầy. Còn con gái nếu có kén chồng thì nên lui tới thường xuyên những nơi tập luyện kinh sử, võ nghệ thì mới mong tìm được tấm chồng vừa ý để nương thân.
Ngày xưa thời vua chúa của Việt Nam cũng như của Trung Hoa đều coi trọng vai trò của người phụ nữ về phương diện “tam tùng, tứ đức”. Đó là tại gia tùng phụ, xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử, nghĩa là khi còn ở nhà thì sống theo sự dạy dỗ của cha mẹ sinh ra mình; khi lấy chồng rồi thì phải theo chồng và khi chồng chết thì theo con. Ngày xưa như vậy gọi là: Trung trinh liệt nữ và ngày nay sau mấy ngàn năm văn hóa đổi thay, chắc rằng cái tam tòng ấy không thấy dân tộc nào giữ cho trọn vẹn cả, kể cả dân tộc Trung Hoa, nơi sản sinh ra chủ thuyết nầy. Rồi công, dung, ngôn, hạnh nữa. Đây là nét đẹp của người phụ nữ Đông Phương. Ví dụ như thêu thùa, may vá, sắc đẹp tự điểm trang, lời nói dịu dàng và đức hạnh. Ngày xưa người phụ nữ thường bị coi rẻ, không cho đi học, đi thi nên chốn quan trường chỉ là đàn ông. Còn bây giờ ở thế kỷ 21 nầy, chính sách bình quyền giữa người nam và người nữ đã được thực hiện trọn vẹn ở một số nước văn minh trên thế giới, nên đã có lắm người nữ lên làm cả chức tổng thống hay thủ tướng. Điều nầy cũng đúng với lời Phật dạy rằng: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Với tánh ấy, tất cả nam nữ đều có thể thành Phật, nếu chúng ta biết gạn đục khơi trong và biết tự dọn sạch cái bản ngã của mình.
Và người con trai thì phải biết “Tam cương, ngũ thường”, đó là: Quân, Sư, Phụ và Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Đầu tiên là Vua rồi đến Thầy và kế tiếp mới đến Cha mẹ.
Nên ngày xưa có câu rằng:
Quân xử thần tử, thần bất tử, bất trung.
Phụ xử tử vong, tử bất vong, bất hiếu.
Nghĩa:
Vua bảo bầy tôi chết, bầy tôi không chết, bầy tôi bất trung.
Cha mẹ bảo con chết, nếu con không chết, con ấy là đứa con bất hiếu.
So ra chữ Trung và chữ Hiếu ngày xưa và nay khác nhau rất nhiều. Cái hiếu của ngày nay không phải chỉ cố gắng làm sao cho cha mẹ vui ở tuổi già mà còn hướng cho cha mẹ vào con đường thiện của Tứ chánh cần nữa. Nghĩa là:
Việc ác chưa sanh thì làm cho nó đừng sanh.
Việc ác đã sanh rồi thì làm cho nó không sanh ra nữa.
Việc thiện chưa sanh thì làm cho nó sanh.
Viện thiện đã sanh ra rồi thì nên làm cho nó tiếp tục sanh ra nữa.
Ngày xưa cha mẹ, con cái, cháu chắt, ông bà sống chung dưới một mái nhà gọi là “Tứ đại đồng đường” hay “Ngũ đại đồng đường”. Thế mới là hiếu, nhưng ngày nay con cái đều mong muốn được tự lập, đến 18 tuổi là chúng bắt đầu xin rời xa khỏi mái ấm của gia đình để học hành và làm việc. Như vậy so với ngày xưa là bất hiếu nhưng bây giờ thì không. Cha mẹ về già ngày xưa đem vào Viện dưỡng lão cho người dưng khác họ chăm sóc là chuyện bất hiếu, nhưng ngày nay chuyện ấy được xem là việc bình thường, vì con cái hằng ngày phải đi làm một ngày 8 tiếng đồng hồ, đâu có ai ở nhà suốt ngày với cha mẹ được. Đây cũng không thể gọi là điều bất hiếu, vì sự cấu tạo của xã hội ngày nay, con cái phải sống theo cái guồng máy quay đều của bảo hiểm xã hội theo luật pháp sở tại và ta không có quyền chối từ. Nên đây cũng không gọi là thiếu bổn phận được. Người đi làm đóng thuế và tiền ấy đem nuôi người đi trước và sau nầy người nhỏ lớn lên đi làm, đóng thuế để nuôi người đi sau, hay nuôi chính bản thân họ.
Còn Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín không biết là ngày nay có còn hữu dụng không?
Nhân là lòng từ - đời nào cũng cần đến. Nếu ông vua mà không có lòng nhân, luôn ác độc với mọi người thì ông vua ấy xem như bỏ đi.
Nghĩa này bao hàm ý về tình nghĩa, như nghĩa cha con, nghĩa Thầy trò, nghĩa chồng vợ, nghĩa bạn hữu. Nói chung nghĩa là sự thể hiện cái bổn phận trách nhiệm đối đãi giữa con người với con người và giữa con người với xã hội…
Lễ đây là lễ nghĩa, là sự tôn trọng trong cách đối xử với mọi người, lúc nào cũng phải biết kính trên, nhường dưới, lễ nghi phân biệt; không phải người hiền thì không nên làm bạn và phải biết thiện, ác phân minh.
Trí đây là đức dục, cái hiểu biết về đạo làm người. Làm người mà không có đạo đức, không lấy lý trí để xét soi mọi nẻo trong chốn đăng trình của cuộc sống thì xem ra anh chàng nầy “hữu dõng mà vô mưu” đấy!
Tín là lòng tin cậy lẫn nhau. Nếu giữa con người và con người mà không đem niềm tin ra để thể hiện, tin tưởng với nhau nhằm thực hiện một điều gì đó, thì không phải là kẻ sĩ. Kẻ sĩ là kẻ biết mình và biết người. Lấy chữ tín làm đầu. Dầu là trong triều, ngoài xã hội nếu người con trai hay người con gái, đàn ông hay đàn bà, ông già bà cả mà vẫn đối xử với nhau theo lối “ngũ thường” nầy thì làm gì mà xã hội không an vui, loài người không tiến bộ. Nó gần tương đương với 5 giới của người Phật tử tại gia khi quy y Tam Bảo đã phát ra lời thệ nguyện trước Tam Bảo để ruộng phước của mình được tô bồi thêm.
Tam tòng và tam cương so ra với đạo đức xã hội hiện tại không còn giá trị nhiều nữa; nhưng tứ đức và ngũ thường vẫn còn giá trị miên viễn với thời gian. Khổng Tử xuất hiện ở Trung Hoa, nhưng học thuật về Tứ Thư, Ngũ Kinh và thuật an bang xử thế của ông cả Trung Hoa và các nước lân bang ngày nay vẫn còn ứng dụng đến. Học thuyết của ông tuy không làm cho người ta thoát khỏi ra được sanh tử luân hồi như của Phật giáo, nhưng ông và đồ đệ của ông đã giúp cho thế nước lòng dân trong nhiều triều đại đã được an ổn và phát triển là nhờ vào những lý thuyết của chủ đạo nầy.
Ngày xưa Triều Lý và Triều Trần chủ trương Tam Giáo đồng quy. Nghĩa là Nho, Phật, Lão đều quy về một mối và chủ xướng tinh thần “Trung thần bất sự nhị quân”; nghĩa là: Tôi trung không thờ hai chúa. Do vậy mà ở cuối Triều Lý đầu Nhà Trần đã xảy ra nhiều nạn chém giết, thanh toán khó lường. Có lẽ cũng chỉ vì các chủ thuyết độc tôn nầy. Thế nhưng cũng là Nho gia, nhưng về sau nầy có những bậc tôi trung thờ đến 3 đời chúa. Đó là trường hợp của cụ Nguyễn Du, một đại thi hào của đất nước. Con của cụ Nguyễn Nghiễm. Vào thời vua Lê chúa Trịnh thì cụ Nguyễn Nghiễm và cụ Nguyễn Du làm quan vào giữa thế kỷ thứ 18. Đến khi vào Đàng Trong gặp lúc Quang Trung xưng Đế, thấy cụ Nguyễn Du người tài giỏi, nên anh hùng áo vải Tây Sơn cũng đã mời cụ ra làm quan. Khi Gia Long lên ngôi Hoàng đế, ông muốn về quê cư nhàn, nhưng vua quan và triều thần nhà Nguyễn cố thuyết phục ông trở lại chốn quan trường. Nếu không làm quan trong thời gian nầy, thì ông đâu có cơ hội đi sứ sang Trung Hoa trong khoảng thời gian 1812 đến 1814 ấy. Và sau khi về lại quê hương Đại Việt nầy, không biết ông dùng chay tịnh được bao nhiêu năm, nhưng ông đã có hơn 300 lần tụng đọc kinh Kim Cang một cách miệt mài, cho đến khi cái “ngã” không còn nữa, ông mới sáng tác nổi truyện Kiều vào khoảng thời gian năm 1814 – 1816. Sau khi viết xong truyện Kiều, ông thán rằng:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Nghĩa:
Không biết ba trăm năm về sau
Trong thiên hạ có ai khóc Tố Như chăng?
Có một tài liệu của Nguyễn Sĩ Đại đã nói về ý nghĩa hai câu thơ trên như sau:
Với tác phẩm của Nguyễn Du, có thể nói sự tìm tòi của chúng ta là vô tận. Hai câu thơ
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
Đó là hai câu kết trong bài thơ chữ Hán Độc Tiểu Thanh ký. Nguyên văn như sau:
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
Bài thơ được ông Vũ Tam Tập dịch là:
Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn
Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
Tiểu Thanh là một người con gái tài sắc sống vào thời nhà Minh ở tỉnh Chiết Giang, làm lẽ cho một người họ Phùng. Vợ cả ghen, đuổi lên sống trong một ngôi nhà nhỏ trên núi, nàng buồn đến chết ở đó, khi chưa đầy 20 tuổi, nay vẫn còn mộ. Khi nàng chết, vợ cả chưa hết ghen tức, còn đem đốt những gì Tiểu Thanh viết. Nguyễn Du đọc được những bài thơ còn sót lại của nàng, mới xúc động làm bài thơ này.
Ở câu cuối, xưa nay người ta hiểu: Nguyễn Du sống cách Tiểu Thanh ba trăm năm, vì thế ông mới hỏi, ba trăm năm sau, có ai thương xót ông mà nhỏ lệ.
Cái học nhà Nho ấy nó cũng chỉ kéo dài đến đầu thế kỷ thứ 20 là hết và nhiều người Việt Nam đã học tiếng Pháp, tiếng Anh để thi vào trường nầy, trường nọ để sau nầy học hành đỗ đạt, ra làm quan cho Tây cho Mỹ. Cho nên cụ Trần Tế Xương mới mỉa mai cái học ấy rằng:
Cái học nhà Nho đã hỏng rồi
Mười người đi học, chín người thôi
Cô hàng bán sách lim dim ngủ
Thầy Khóa tư lương nhấp nhỏm ngồi
Sĩ khí rụt rè gà phải cáo
Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi
Tôi đâu dám mỉa làng tôi nhỉ
Trình có quan tiên thứ chỉ tôi.
(Cái học nhà Nho)
Đọc xong 8 câu thơ Đường luật nầy ta thấy rằng nhà Nho cũng đã một thời vang bóng nơi cửa Khổng, sân trình như vậy. Nào khoa thi Tam trường để chọn người tài giỏi ra làm quan như ông Nghè, ông Cống, ông Trạng, ông Cử. Ở làng thì ngồi chiếu trên, chiếu dưới, mâm trước, mâm sau v.v… tất cả đều nhờ cái học của Nho gia mà có được. Còn bây giờ ở thế kỷ thứ 20, 21 nầy chữ Hán, Nho sinh v.v… là những danh từ khi gọi lên, khiến trẻ nhỏ phải ngơ ngác, chẳng biết đó là những người học cái gì. Cho nên cái tốt của ngày xưa, chưa hẳn đã là cái tốt của đời nay, nhưng cũng phải nói thêm rằng: Nếu không có xưa thì làm sao có nay được. Quá khứ đã tốt thì hiện tại sẽ tốt và hiện tại tốt thì tương lai sẽ tốt. Cho nên Kinh Nhứt Dạ Hiền Giả trong Nikaya có dạy rằng:
Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng
Quá khứ đã đoạn tận
Tương lai thì chưa đến
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính là đây
Không động không rung chuyển
Biết vậy nên tu tập
Hôm nay nhiệt tâm làm
Ai biết chết ngày mai
Không ai điều đình được
Với đại quân thần chết
Trú như vậy nhiệt tâm
Đêm ngày không mỏi mệt
Xứng gọi Nhứt Dạ Hiền
Bậc an tịnh trầm lặng.
Kinh nầy do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra khi Người còn tại thế, cách nay (2017) hơn 2.560 năm và cách thời cuối Lý đầu Trần của Việt Nam độ 1.600 năm. Cho hay lời tụng ấy vẫn có giá trị với muôn đời, chứ không phải chỉ trong một thời gian ngắn của 100 năm hay 1.000 năm hay còn lâu hơn thế nữa. Lâu đài cung điện đã trở thành hoang phế, trải bao nhiêu cảnh thư hùng của một dân tộc như Đại Việt đã đối đầu với quân Nguyên Mông ở thế kỷ thứ 13, nhưng lời Kinh nầy thì vang vọng mãi mãi cho đến tự ngàn sau.
Chương IV
Nhà Vua
TRẦN NHÂN TÔNG
Sau khi thắng hai trận đánh lịch sử với Nguyên Mông vào năm 1285 và 1288 Vua Trần Nhân Tông đã nhường ngôi cho con mình là Trần Anh Tông để đi xuất gia tìm đạo. Thầy của ông là Tuệ Trung Thượng Sỹ Trần Tung, cũng vừa là cậu bà con bên mẹ. Vì Tuệ Trung Thượng Sỹ và Thiên Cảm Hoàng hậu là em ruột của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Trần Nhân Tông gọi Trần Quốc Tuấn là cậu và cũng là bác vì Trần Quốc Tuấn là con của Trần Liễu, còn Nhân Tông là con của Vua Thánh Tông, cháu nội của Vua Trần Thái Tông (tức Trần Cảnh). Nhân Tông lấy Khâm Từ Hoàng hậu, con của Hưng Đạo Vương, sinh ra Trần Anh Tông. Như vậy ông và Khâm Từ Hoàng hậu là bà con cô cậu lẫn chú bác, nên đây cũng là trường hợp hôn nhân cận huyết.
Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm, sinh ngày 11 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ niên hiệu Thiệu Long thứ 1 (nhằm 7 tháng 12 năm 1258. Ông là con trai trưởng của Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng hậu Trần Thị Thiền. Theo mô tả của Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Trần Khâm ngay từ khi sinh ra đã được tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng, nên Vua cha và ông nội – Thái Thượng Hoàng Trần Thái Tông gọi ông là Kim Tiên Đồng Tử. Từ nhỏ ông đã được dạy rất kỹ về những hệ thống tư tưởng của Phật, Nho, Lão và rất am hiểu tường tận giáo lý nhà Phật. Ông cũng đạt được trình độ cao về các lãnh vực như quân sự, âm nhạc, lịch số học và thiên văn học.
Trong nhiều kinh điển khác nhau, Đức Phật cũng thường hay nói về phước đức của đời trong hiện tại hay nhiều đời trong quá khứ đã gieo trồng. Khi chiêm ngưỡng dung nhan của Đức Phật có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp, chúng ta biết đến phước báu của Ngài đã gieo trồng từ bao đời nay nên mới được như vậy. Còn một bậc Chuyển Luân Thánh Vương khi sinh ra trong đời nầy cũng phải nhờ đến phước báu của bao đời trước đã gieo trồng, nên kiếp nầy mới làm được bậc nhân chủ, ngồi trên ngai vàng và đứng đầu trong thiên hạ. Khi Thái tử Tất Đạt Đa sinh ra ở Ấn Độ, có vị tiên tri là A Tư Đà tiên đoán rằng: “Nếu Thái tử ngày sau đi xuất gia, sẽ trở thành một vị Phật; một bậc giác ngộ, toàn trí toàn năng. Còn nếu Thái tử ở lại với đời, Ngài sẽ trở thành một bậc Chuyển Luân Thánh Vương trong thiên hạ”. Khi vua Tịnh Phạn nghe lời tiên đoán ấy ông không vui và chỉ muốn con mình trở thành Vua chứ không muốn con mình trở thành Phật. Vì vậy trong suốt tuổi thơ, Thái tử đã được Vua cha cho những vị Bà La Môn giỏi về toán số, chính trị, thơ văn, võ nghệ dạy cho, cốt làm sao Thái tử phải tập trung tư duy về cách nhìn của một vị vua thì Tịnh Phạn Vương mới an lòng. Nhưng càng lớn lên Thái tử tư duy nhiều hơn về mặt tâm linh, nhất là sau khi đi dạo chơi bốn cửa thành, đã tận mắt chứng kiến hết các cảnh sanh, già, bệnh, chết. Từ đó Thái tử càng suy tư hơn về cuộc đời vô thường đối với nhân thế.
Nếu xưa kia Thái tử Tất Đạt Đa không đi xuất gia tầm đạo, chỉ sống một cuộc đời êm đềm lặng lẽ nơi chốn hoàng cung rồi sinh con đẻ cái, rồi già, rồi chết… dẫu có minh quân hiền đức đến đâu đi chăng nữa, thì cuộc đời trị thế của Tất Đạt Đa cũng chỉ có giá trị trong cõi nước Ấn Độ mà thôi. Nhưng ở đây, Ngài đã xả bỏ tất cả để được tất cả. Chính nhờ công năng quả mãn và tìm ra giáo lý thượng thừa giúp cho chúng sanh thoát khổ ấy, mà con người vĩ đại kia ngày nay không phải chỉ tồn tại nơi Ấn Độ, mà cả năm châu bốn biển trên quả địa cầu nầy ai ai cũng nghe đến hồng danh của Đức Phật và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài.
Còn Thái tử Trần Khâm, con Vua Trần Thánh Tông được ông nội là Thái Thượng Hoàng Trần Thái Tông nhìn vào tướng đi, điệu đứng, nụ cười, cách cư xử v.v… đã đặt cho cái tên với 4 chữ là: “Kim Tiên Đồng Tử”. Kim là vàng, quý như vàng hay có làn da óng ánh như vàng. Tiên đây là cốt cách của tiên nhơn, người ở cõi trời giáng sinh vào ngôi vua, chứ không phải là một kẻ bình dân sinh được vào đây. Đồng Tử là đứa bé trai ngoan hiền, bụ bẫm. Trần Khâm không những chỉ được dạy về Nho học mà còn học cả Lão giáo cũng như Phật học nữa. Vậy thì đây chính là điều kiện cốt yếu để sau nầy ông thấu rõ lý vô thường mà đi xuất gia học đạo, nhất là sau 2 lần chiến thắng quân Nguyên Mông, có bao nhiêu kẻ bị tai bay họa gởi, nơi chiến trường các chiến sĩ đã chết không toàn thây. Lúc còn nhỏ học Phật là cái nhân và khi chứng kiến những cảnh khổ đau của nhân thế qua hai trận thư hùng ấy, Vua Trần Nhân Tông đã quyết chí xuất gia tầm đạo để sau nầy trở thành một vị Phật của Việt Nam. Đó là cái quả mà thôi.
Năm 1274, khi Trần Khâm 16 tuổi, ông được vua Trần Thánh Tông chỉ định làm Thái tử nối ngôi. Theo sách Thánh Đăng Ngữ Lục (một tác phẩm khuyết danh về sự nghiệp tu Phật của 5 vị vua đầu thời Trần, được viết vào khoảng thế kỷ thứ 14) thì Trần Khâm đã nhiều lần từ chối ngôi Thái tử và thuyết phục Vua cha Trần Thánh Tông lập em lên thay, nhưng không được Vua cha chấp thuận. Thậm chí có lần định trốn lên núi Yên Tử để ẩn tu, khiến Vua Trần Thánh Tông phải sai quan quân đi tìm và thỉnh cầu ông về kinh đô. Trần Khâm đành chấp nhận ngôi Thái tử, nhưng ông vẫn duy trì nếp sống thanh tịnh trên tinh thần Phật giáo. Ông cũng dùng nhiều thời gian để đàm đạo với Thiền sư Tuệ Trung Thượng Sĩ (tức Hưng Ninh Vương Trần Quốc Tung, anh họ của Trần Thánh Tông và là vai cậu của ông trong hoàng tộc) và tôn xưng vị nầy làm Thầy của mình.
Khi xưa Trần Thái Tông, tức Trần Cảnh là ông nội của Trần Khâm, vì không chịu đựng nổi những việc do Trần Thủ Độ chủ trương, nên ông cũng đã trốn vào núi Yên Tử để đi xuất gia, nhưng sau đó Quốc sư Phù Vân khuyên can cũng như những trận đòn tâm lý ép uổng Thái Tông của Trần Thủ Độ, nên ông phải về lại với triều đình. Còn Trần Khâm mới 16 tuổi, cái tuổi thanh niên còn căng đầy nhựa sống, ăn chưa no, lo chưa tới mà đã nghĩ đến chuyện ẩn tu, quả là một câu chuyện không phải tầm thường so với những người muốn cướp đoạt ngai vàng để làm của riêng cho mình trong bao thế kỷ xưa nay. Vậy Yên Tử là chốn như thế nào? Ta hãy nghe nhà thơ Chu Mạnh Trinh tả cảnh nầy như sau:
Bầu trời, cảnh Bụt
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
Kìa non non, nước nước, mây mây
Đệ nhất động hỏi là đây có phải?
Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái
Lững lờ khe Yến cá nghe kinh
Thoảng bên tai một tiếng chày kình
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng
Nầy suối Giải Oan, nầy đền cửa Võng
Nầy am Phật Tích, nầy động Tuyết Quynh
Nhác trông lên, ai khéo vẽ hình
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt
Chập chờn mấy lối uốn thang mây
Chừng giang sơn còn đợi ai đây
Hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt?
Lần tràng hạt niệm “Nam Mô Phật”
Cửa từ bi công đức biết là bao
Càng trông phong cảnh càng yêu!
Chu Mạnh Trinh một Tiến Sĩ, một nhà nho, một nhà thơ sinh ra và đi thi Tam trường cùng thời với cụ Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến vào cuối thế kỷ thứ 19, đầu thế kỷ thứ 20. Ông thích thơ nên tìm đến thiên nhiên để ngoạn cảnh, trong đó có núi Yên Tử. Ngày nay nếu có ai đến Yên Tử để trẩy hội Chùa Hương, có lẽ không còn cảm nhận được cái thanh bình yên ả như thời của Chu Mạnh Trinh vào cuối thế kỷ thứ 19 nữa, lại càng không giống phong cảnh ở thế kỷ thứ 13 khi Quốc sư Phù Vân và sau nầy Vua Trần Nhân Tông tu tại Ngọa Vân Am nầy. Cho hay “Cảnh đấy người đây luống đoạn trường” như tâm sự của bà Huyện Thanh Quan khi nhìn thấy thành Thăng Long đổ nát vào thời Lê mạt Nguyễn sơ mà thôi. Cái may của Việt Nam và Ấn Độ là cả hai nước đã có một vị Vua và một Thái tử vì lợi ích cho dân tộc và chúng sinh mà quên đi hạnh phúc cá nhân.
Vua Trần Nhân Tông, sau khi nhường ngôi báu cho con là Trần Anh Tông, lên núi Yên Tử tu hạnh đầu đà và cuối đời trở thành Điều Ngự Giác Hoàng, và Ngài là vị Sơ Tổ của phái Thiền Việt Nam, đó là Trúc Lâm Thiền Phái, sau các phái Thiền từ Ấn Độ sang Trung Hoa rồi được truyền sang Việt Nam như: Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường v.v… Đây là cái phúc của dân tộc Việt Nam đã có được một ông Vua biết hy sinh hạnh phúc cá nhân của mình để đi tìm cái chung cho dân tộc là vậy. Dĩ nhiên ông không thể so sánh với Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni của Ấn Độ được vì ông chỉ là một học trò của hàng cháu chắt của Ngài từ Thiên Trúc đến Trung Hoa rồi Việt Nam qua cả mấy chục đời như vậy, nhưng ông là một ông Vua tuyệt vời trên tất cả những sự tuyệt vời khác.
Đến Yên Tử để thấy một rừng núi bạt ngàn, mênh mông với mây trời và cây núi, nên Chu Mạnh Trinh mới gọi là “Bầu trời cảnh Bụt”; còn Từ Hy Thái Hậu ở thế kỷ thứ 19 từ Trung Hoa sang Mã Lai du hành thì có 4 chữ ở chùa Cực Lạc tại Peanang là “Hải Thiên, Phật Địa”. Biển của trời tức là của Thiên tử, của vua; còn đất thì thuộc về Phật. Còn Việt Nam chúng ta có câu tục ngữ là “Phép vua thua lệ làng” cũng như: “Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt” cũng đã nói lên được tất cả tính cách công lao như trời như biển ấy của Phật. Chu Mạnh Trinh lâu nay đã ao ước và bây giờ mới được đi. Còn kẻ viết sách nầy cũng chỉ biết Yên Tử qua hình ảnh, văn thơ… chứ chưa bao giờ đặt chân đến đó. Ước gì sẽ có một ngày, tôi đặt chân lại trên đất mẹ thân yêu để thăm đây đó từ Bắc chí Nam. Lúc đó mới thỏa chí tang bồng hồ thỉ. Thế giới có trên 200 quốc gia và tôi đã có cơ duyên đi đến, thăm viếng trên 73 nước; nghĩa là hơn một phần ba của thế giới, trong đó có quê hương đất nước của mình nhưng chưa được ngắm những cảnh như Chu Mạnh Trinh đã giới thiệu về núi Yên Tử qua bài thơ nầy. Những danh từ như: Rừng mai, khe Yến, suối Giải Oan, đền cửa Võng, hang Phật Tích, động Tuyết Quynh… quả là tuyệt vời với cảnh trí thiên nhiên đẹp như thế.
Tháng 8 năm 1299, Trần Nhân Tông lên núi Yên Tử tu khổ hạnh. Theo truyền thuyết, Vua Trần Anh Tông sợ cha cực khổ nên cho nhiều cung nữ đến Yên Tử chăm sóc, nhưng Trần Nhân Tông từ chối, bảo các cung nữ trở về. Một số cung nữ đã trầm mình xuống suối tự vẫn. Trần Nhân Tông thương tiếc, làm lễ cầu siêu, đặt tên suối là suối Giải Oan.
Ngày xưa ở Trung Hoa trong một số triều đại, khi vua chết, hoàng hậu và thứ phi phải ra lăng tẩm để sống ở đó, cư tang đúng 3 năm mới được trở về nhà. Có nhiều bà phi cũng nguyện chết theo vua. Còn Chiêm Thành có tục lệ là khi vua băng hà, chánh cung hoàng hậu tự nguyện thiêu thân cùng vua trên giàn hỏa. Đó là đạo vợ chồng chung thủy của ngày xưa. Bây giờ ít ai thấy được những tấm gương trung trinh tiết liệt như vậy.
Vua Trần Nhân Tông từ nhỏ đã được học giáo lý Đạo Phật từ Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Quốc Tung, là anh ruột của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (ông ngoại của Vua Nhân Tông). Tuệ Trung Thượng Sĩ là một Thiền sư nhưng là một người có tài an bang tế thế.
Trong hai cuộc chiến thắng quân Nguyên Mông năm 1285 và 1288 qua Hội Nghị Bình Than và Hội Nghị Diên Hồng đều có sự tham gia đóng góp ý kiến của Tuệ Trung Thượng Sĩ cho Vua Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông. Tuy ông đang tu trên núi Yên Tử, nhưng khi quân Nguyên Mông đến, ông cũng đã “xếp áo nhà tu mặc chiến bào” để ra nghinh chiến với giặc. Khi giặc giã xong, ông trở về núi sống đời tĩnh lặng của mình, chỉ tiếc rằng trong lịch sử Việt Nam ít người viết sử chú tâm về điểm nầy, chỉ quẩn quanh bên danh tướng Trần Hưng Đạo, mà quên đi Trần Quốc Tung, chính là Tuệ Trung Thượng Sĩ. Nếu không có Tuệ Trung Thượng Sĩ, nếu không có hình ảnh của Thượng Hoàng Trần Thái Tông cũng đã một lần thân chinh xuất gia tầm đạo, thì sự ra đi của Nhân Tông sau nầy nó mang một ý nghĩa khác chứ không phải là một sự truyền thừa có ý chỉ từ trước như vậy.
Vào ngày 22 tháng 10 âm lịch năm Mậu Dần (tức ngày 8 tháng 11 năm 1278) Trần Khâm được Vua cha truyền ngôi, trở thành Vua Trần Nhân Tông. Ông tự xưng làm Hiếu Hoàng và lấy niên hiệu Thiệu Bảo vào mùa Xuân năm 1279. Thánh Tông lên làm Thái Thượng Hoàng và cùng trị vì với Nhân Tông cho đến khi mất năm 1290. Trong suốt thời kỳ trị vì của mình, Nhân Tông đã xử dụng hai niên hiệu là Thiệu Bảo (1279-1285) và Trùng Hưng (1285-1293). Ngày xưa khi vua lên ngôi hay xưng đế hiệu nhất nhất đều phải được các chiêm tinh gia, bốc sư, bói toán, xem ngày đoán mộng để chọn điều lành, cốt làm sao cho dân được yên, nước được thịnh. Có lẽ vì vậy mà Vua Nhân Tông đã thay đổi niên hiệu. Với niên hiệu Thiệu Bảo là giới thiệu những việc trân quý của bản thân mình và sau khi đại thắng quân Nguyên Mông lần thứ hai năm 1285 nhà Vua đã đổi niên hiệu lại là Trùng Hưng. Trùng có nghĩa là thêm cao, thêm dày hơn một lần nữa và Hưng chính là hưng long đế nghiệp. Điềm nầy đã ứng với việc đại thắng quân Nguyên Mông lần thứ ba vào năm 1288 vậy.Trước khi Vua Trần Nhân Tông xuất gia, ông đã xây dựng mối quan hệ tích cực với nước Chiêm Thành ở phía Nam. Tháng 12 năm 1282 nhà Vua đã gởi 20.000 quân cùng 500 chiến thuyền để hỗ trợ người Chiêm chận đánh quân Nguyên của Toa Đô tấn công vào đường biển. Nhưng trong các văn thư gởi cho nhà Nguyên, triều đình Nhân Tông một mực phủ nhận việc nầy. Đây chính là thủ thuật của chính trị trong khi ngoại giao, vì Nhân Tông hiểu rằng: Nếu Chiêm Thành mất vào tay nhà Nguyên thì Đại Việt trước sau gì cũng mất theo. Do vậy nếu có nói thật cho nhà Nguyên nghe là Nhân Tông đã giúp cho Chiêm Thành như thế, liệu có ích gì cho việc giữ gìn bờ cõi của Đại Việt về phương Nam cũng như phương Bắc chăng? Giúp cho Chiêm Thành quân lính và chiến thuyền để đối đầu với quân Nguyên phía Nam, thì Nhân Tông và các tướng tài của Nhà Trần có thời gian cũng như dồn hết sức lực để phản công vào mặt trận ở phía Bắc, đánh cho quân Nguyên Mông tơi tả mới thôi. Thế nhưng cũng như lần thắng trước vào năm 1258, chính quyền của Trần Nhân Tông đã học gương của Thái Tông, vẫn cho người sang triều cống nhà Nguyên, nhưng nhất quyết là không thần phục và khi xưng vương Đại Việt, các vua Nhà Trần không phải tấu trình việc nầy trước với Nguyên Mông. Ngay cả khi các vua Nguyên Mông cho lệnh sang chầu, các vua Nhà Trần của Đại Việt chỉ gởi cống sứ và phẩm vật đến biếu tặng, chứ chưa có một ông vua Trần nào, trước hay sau khi đăng quang, theo lời dụ dỗ của nhà Nguyên mà phải thân chinh qua triều kiến. Điều nầy đã làm cho Nguyên Thế Tổ bực dọc và có những cuộc tấn công Đại Việt sau nầy, ngoài mục đích chiếm thêm đất đai và mở rộng giang sơn Trung Quốc ra, họ còn muốn trị tội vua quan Đại Việt là bất kính đối với Thiên Triều. Giữa xưa và nay cách ngoại giao khác nhau quá nhiều.
Trước khi va chạm thực tế với quân Nguyên Mông lần thứ hai (1285), vua Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông cho quan quân, tướng lãnh và triều đình họp tại một ngôi chùa, gọi đây là Hội Nghị Bình Than và lần thứ ba (1288) gọi là Hội Nghị Diên Hồng. Ngày xưa cũng như nay ngôi chùa đối với dân tộc Việt Nam rất là quan trọng trong lúc đất nước hưng thịnh cũng như suy vong. Ngày nay Chùa Quán Sứ còn tồn tại ở Hà Nội là một bằng chứng. Nếu có ai đó hỏi người dân Hà Nội là tại sao gọi là Chùa Quán Sứ thì ít có người biết. Quán có nghĩa là nơi ở và Sứ là sứ thần. Các sứ thần của Ai Lao, Cao Miên, Chiêm Thành, Trung Quốc trước khi vào chầu vua, họ đều phải đến kinh đô Thăng Long trước đó nhiều ngày và trong những ngày nầy các sứ thần phải tá túc tại chùa trước khi gặp vua để bệ kiến. Sau nầy nơi chốn rộng rãi hơn, trong triều ngoài nội đã có nơi nghinh tiếp các sứ thần, nên chỗ ở ấy đã biến thành chùa cho dân chúng tới lui lễ bái nguyện cầu do đó gọi là Chùa Quán Sứ.
Vua Gia Long khi bôn tẩu tránh quân Tây Sơn truy nã, cũng đã trốn ở chùa Ông Nồi, chùa Đại Giác ở miền Nam và sau khi về lại nước để trung hưng nhà Nguyễn từ năm 1792 đến 1802 Vua và triều thần đã nương náu nơi chùa Từ Ân và Khải Tường tại Sài Gòn Gia Định. Khi Vua Gia Long băng hà, năm 1819 Minh Mạng lên nối ngôi, ông Vua nầy được sinh ra tại chùa Khải Tường ở Gia Định trong những năm loạn lạc chiến chinh. Như vậy ngôi chùa đã giữ một vai trò quan trọng đối với lịch sử cũng như nhân dân, dân tộc Việt Nam từ thời lập quốc đến nay, nên chúng ta phải trân quý những giá trị vật thể nầy. Nào Chùa Lý Quốc Sư, Chùa Kiến Sơ, Việt Nam Quốc Tự v.v… đã nói lên đầy đủ tư cách của dân tộc Việt đã phụng thờ Tam Bảo qua hình ảnh của những ngôi chùa như thế nào rồi.
Ngày 24 tháng 6 năm 1285 Thánh Tông và Nhân Tông tiến đánh quân Toa Đô tại Tây Kết (Khoái Châu). Toa Đô bị chém chết tại trận. Quân của vua Trần đã bắt sống 50.000 quân Nguyên và tịch thu vô số khí giới. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, khi Nhân Tông thấy thủ cấp của Toa Đô đã nhận xét “Người làm tôi phải nên như thế nầy”, rồi cởi áo ngự phủ lên và sai người khâm liệm tử tế. Đây là hành động nhân từ của một bậc quân vương thấm nhuần giáo lý của nhà Phật. Câu “Người làm tôi phải như thế nầy” của Vua Nhân Tông có ý khen cho con người Toa Đô tuy đã chết, nhưng đã trung với vua Nguyên, nên mới bị hy sinh như vậy và hành động cởi áo ngự của mình đắp lên Toa Đô có nghĩa là: Chết thì không còn ta hay địch nữa. Nghĩa tử là nghĩa tận đã đúng với hành vi tử tế của Vua, lại còn cho người tẩn liệm nữa. Quả thật hành động của Vua Trần Nhân Tông xưa nay chưa có ai bằng được.
Cũng mùa Đông năm ấy lạnh cắt da, ông nhìn Công chúa Thiệu Trân con của mình và nói với các quan đứng hầu bên cạnh rằng: “Con ta sống trong chăn êm nệm ấm mà cái lạnh còn buốt da, hà huống gì là những tù nhân, vì họ không hiểu luật, nên mới sai phạm, các quan nên chu cấp thêm mùng mền và lương thực cho họ”. Đây là câu phán của một bậc quân vương có lòng độ lượng từ bi ít ai sánh kịp. Ông thương dân như con ruột của mình. Không may cho họ là vì không rành luật lệ của triều đình ban ra, nên họ đã phạm phải, cũng chỉ vì cái tội ít học, nghèo khó mới sinh ra như vậy. Nhân Tông rõ biết tất cả lòng dân, dầu cho là những người đang bị tù tội đi nữa. Cho nên dân rất thương và rất quý Ngài. Sau đó những mùa đói kém liên tục lại tiếp diễn, nhất là sau những lần chiến chinh loạn lạc với quân Nguyên Mông của năm 1285 và 1288. Ông đã cho quan ngự kho mở cửa và mang những lương thực còn dự trữ của triều đình ra để ban phát cho những người đói khổ. Từ đó về sau Nhà Trần luôn được người dân tin yêu và ủng hộ.
Trong những vị tướng tài giúp vua Thánh Tông và Nhân Tông trong hai trận chiến trên, ngoài Hưng Đạo Đại Vương ra còn có Tướng Phạm Ngũ Lão và Tướng Trần Bình Trọng cũng như Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Quốc Tung nữa. Trần Bình Trọng giữ đạo quân ở Thiên Mạc để chận đường rút của Toa Đô, nhưng tại đây vào năm 1258 ông đã bị quân giặc bắt, muốn ông đầu hàng, nhưng ông đã khẳng khái nói không, và câu “Thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc” vẫn còn truyền lại cho đến ngày nay. Người ta truy tán công đức của ông qua bài thơ sau:
Trần Bình Trọng
Trần Bình Trọng anh hùng ngàn thu trước
Đem tấm thân bảy thước chống sơn hà
Mảng lo đền nợ nước trả thù nhà,
Trong tâm khảm nặng tình yêu tổ quốc,
Nhưng than ôi tài trai dầu thao lược,
Hùm thiêng kia khôn địch một bầy hồ
Vì sa cơ nên bị bắt cầm tù
Tan mộng đẹp, anh hùng đành thất thế!
Tướng giặc thấy người tài nên rất nể
Đem quan sang, chức trọng, dụ Ngài hàng.
Quân bay lầm! Dù đem cả ngai vàng,
Khó lay chuyển lòng ta thờ tổ quốc!
Đừng tưởng bả vinh hoa mà mua được
Lòng trung quân ái quốc của ta đâu.
Bắt được ta thôi chớ nói gì lâu
Cứ đem chém ta không hề than tiếc.
Hễ còn sống ta là dân nước Việt,
Chết thà đành làm quỉ nước non ta!
Ôi anh hùng tử, khí hùng nào tử
Soi gương trong sách sử để ngàn thu!
Á Nam Trần Tuấn Khải
Đó là cái dũng của một bậc làm tướng nơi trận địa. Nghe tin Trần Bình Trọng bị bắt và với dũng khí đã trả lời lại quân Nguyên như vậy, tuy Thánh Tông và Nhân Tông nghe đến xót xa không ít, nhưng hai vua cũng rất hài lòng và khi so sánh cái chết của Toa Đô đối với nhà Nguyên và việc bị bắt của Trần Bình Trọng nếu đem lên bàn cân để cân thì phải nói rằng: Tất cả đều trên cả tuyệt vời! Đây là bài học của nhân thế, mà ngày nay mọi người có thể soi chung.
Hai anh em Trần Quốc Tuấn và Trần Quốc Tung (Tuệ Trung Thượng Sĩ) đã mở nhiều cuộc tấn công lớn trên bờ sông Hồng và quét sạch cánh quân của Thoát Hoan khỏi đất nước Đại Việt. Ngày 9 tháng 7 năm 1285 hai vua ca khúc khải hoàn trở về Thăng Long. Đây là một chiến công hiển hách lần thứ hai và đến ngày 19 tháng 4 năm 1288 quân Nguyên đã bị đánh bật ra khỏi Đại Việt qua trận thủy chiến Bạch Đằng Giang mà muôn đời sử sách cũng còn ghi lại cho con cháu soi chung.
Nếu vua giỏi mà không có tướng tài thì cũng khó mang đến thắng lợi vẻ vang cho dân tộc. Nếu tướng mà không có quan quân ứng tiếp chầu hầu; lâm trận thì đó cũng là những bại tướng. Tuy chưa ra chiến trường mà đã thất bại ngay giữa ban ngày. Trong 3 cuộc chiến của Nguyên Mông trong những năm 1258, 1285, 1288 Nhà Trần đã có những dũng tướng phò vua giúp nước như:
- Trần Tự Khánh (Kiến Quốc Đại Vương) 1175–1223
- Tô Trung Từ (Đại Tướng Quân) ? – 1211
- Trần Thị Dung (Linh Từ Quốc Mẫu) ? – 1259
- Trần Thủ Độ (Thượng Phụ Thái Sư Trung Vũ Đại Vương) 1194 – 1264
- Trần Quốc Tuấn (Hưng Đạo Đại Vương) 1232 – 1300
- Trần Quang Khải (Chiêu Minh Vương) 1242 – 1294
- Trần Nhật Duật (Chiêu Văn Vương) 1255 – 1330
- Trần Bình Trọng (Bảo Nghĩa Vương) 1259 – 1285
- Phạm Ngũ Lão (Điện Súy Thượng Tướng Quân quan nội hầu) 1255 –1320
- Trần Quốc Toản (Hoài Văn Hầu) 1267–1285
- Trần Khánh Dư (Nhân Huệ Vương)? – 1340
Những vị đã nêu danh bên trên là những tướng tài trong những triều vua đầu Trần, kể từ Thái Tông đến Thánh Tông, Nhân Tông và Anh Tông. Những vị nầy hoặc trực tiếp hay gián tiếp có công dẹp giặc Nguyên Mông trong 3 lần. Còn những vị sau đây cũng có công rất lớn với Nhà Trần, nhưng không liên hệ trực tiếp với 3 cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông như bên trên. Đó là:
- Chu Văn An (Văn Trinh Công) 1292 – 1370
- Mạc Đĩnh Chi (Tả Bộc Xạ Hầu Tước) 1280 – 1346
- Đoàn Nhữ Hài (Tri Khu Mật Viện Sự) 1286 – 1335
- Trương Hán Siêu (Thái Phó) ? – 1354
- Trần Khắc Chân (Đại Tướng Quân), mưu trừ Hồ Quý Ly mà thất bại) 1370 – 1399.
Vua Trần Nhân Tông lên ngôi năm 1279 và ở ngôi được 14 năm cho đến năm 1293 thì lên làm Thái Thượng Hoàng và năm 1296 nhà Vua chính thức xuất gia ở chùa Chân Giáo. Như vậy từ cuối thế kỷ thứ 13 cho đến cuối thế kỷ thứ 14, cả hằng 100 năm như thế, nhưng không thấy có tướng tài nào xuất hiện. Chỉ có Đoàn Nhữ Hài và Trần Khắc Chân. Cả hai ông nầy đều không có những chiến công hiển hách đánh với Chiêm Thành hay Ai Lao, như những vị tiền nhiệm dưới thời Thái Tông, Thánh Tông và Nhân Tông. Chu Văn An, Mạc Đĩnh Chi, Trương Hán Siêu đều thuộc về những bậc văn tài xuất chúng của Đại Việt, chứ không phải là những võ tướng. Tuy vậy họ cũng đã đóng góp cho quê hương những công trạng to lớn mà lịch sử không bao giờ quên.
Đời Ngô Quyền chiến đấu với quân Nam Hán, hay Nhà Lý với quân Nhà Tống, sau khi thắng trận Bắc Phương, các vua chúa của Đại Việt trong những thế kỷ trước vẫn tiếp tục cho người sang triều cống các vua Trung Hoa để cố giữ lấy chữ Hòa và chữ Nhẫn. Thật ra kẻ thắng người bại, sau một trận thư hùng nẩy lửa giữa hai cánh quân, khi tàn cuộc và tiếng pháo trận chấm dứt, ấy là xong một trận đánh. Ai thua ai thắng đã rõ ràng, nhưng Đại Việt ta cũng vẫn thế dù đã chiến thắng Nguyên Mông, nhưng các vua chúa Nhà Trần vẫn phải cống lễ hằng năm. Nào vàng, nào bạc, nào ngà voi, sừng tê giác, quế, trầm hương và những món trân bảo của quê hương Đại Việt như lụa là gấm vóc đều phải hiến dâng, Nhà Vua đau lòng lắm, nhưng vì muốn giữ hòa khí chứ không phải vì thuần phục. Có lần Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi được cử làm sứ giả dẫn đoàn tùy tùng sang nhà Nguyên để triều cống ông đã được vua dặn rằng:
- Việc Đại Việt sang triều cống Nguyên triều vì lẽ muốn hai nước luôn giữ hòa khí an bình để dân hai nước an cư lập nghiệp và không gây chiến với nhau nữa. Chắc các Khanh hiểu ý ta?
- Muôn tâu Thánh thượng! Chúng hạ thần đã hiểu, nhưng nếu họ hỏi rằng: Tại sao Thánh thượng không đến chầu thì hạ thần phải trả lời sao đây?
- Nầy Trạng Nguyên! Ông là người đứng đầu trong nền văn học của nước nhà, lẽ nào không thể nào trả lời câu hỏi ấy của Nguyên triều?
- Muôn tâu! Nhưng tôn ý của Thánh thượng thì như thế nào?
- Từ xưa đã có câu “Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư”.
- Thần đã hiểu. Xin phụng mạng.
Thế rồi ngày đi đêm nghỉ, ngày lại tháng qua, cuối cùng đoàn tùy tùng đã đến Vân Nam và quân biên phòng cho người báo về Trường An là Phái đoàn của Đại Việt triều cống đã đến biên cương và muốn đến bái kiến Thiên triều. Tất cả mọi việc đều trôi chảy, chỉ có vài điều xảy ra ngoài ý muốn mà Nguyên triều chẳng lấy gì làm vui.
- Tại sao Thánh Tông hay Nhân Tông không chầu?
- Muôn tâu! Nước một ngày không thể không vua, nên…
- Ai phong vương cho chúng?
- Muôn tâu! Đất nước của hạ thần đã rõ ràng từ thế kỷ thứ 9, sau khi quân Nam Hán đã rút khỏi Đại Việt.
- Nhưng Việt tộc cũng gốc từ Bách Việt mà ra?
-Thế nhưng các Việt khác không còn tồn tại nữa, chỉ còn có Lạc Việt và họ đã có văn hóa, ngôn ngữ, phong tục riêng, đâu có dính dấp gì với Thiên quốc?
- Ngươi bảo không dính dấp?
- Muôn tâu! Thưa vâng!
- Các ngươi vẫn dùng chữ của nhà Hán mà?
- Thế thì Nhật Bản, Triều Tiên cũng là người của nhà Hán?
- Khen thay cho Trạng Nguyên.
Mạc Đĩnh Chi luôn luôn ứng đáp những câu hỏi và sự thử thách do Thiên triều đặt ra một cách tài tình khiến cho Thiên Triều khâm phục. Cũng có lần trong thời gian sứ bộ lưu ở Yên Kinh có một công chúa nhà Nguyên chết, sứ thần Việt, Mạc Đĩnh Chi được cử đọc văn tế. Để thử tài sứ giả nước Việt, quan Bộ Lễ trao cho ông trang giấy chỉ có 4 chữ Nhất. Thật là một tình thế hết sức hiểm nghèo, nhưng rồi ông rất bình tĩnh ứng khẩu đọc:
Thanh thiên nhất đóa vân,
Hồng lô nhất điểm tuyết,
Thượng uyển nhất chi hoa,
Dao trì nhất phiến nguyệt.
Dịch nghĩa:
Một đám mây trên trời xanh
Một bông tuyết trong lò lửa đỏ
Một nhành hoa trong vườn thượng uyển
Một vầng trăng Dao trì
Ôi! May tán, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết!
Quả là tuyệt vời! Chỉ có một chữ nhất mà đã làm được một bài thơ Đường thuộc loại ngũ ngôn tứ tuyệt đầy ý nghĩa. Câu tự thán nếu phân tách ra thì giống như một bài thơ Haiku của Nhật Bản:
Ôi!
Mây tán
tuyết tan
hoa tàn
nguyệt khuyết
Chỉ chừng ấy chữ và chừng ấy câu thôi, cũng đủ hàm ý là công chúa không còn nữa.
Nhờ Mạc Đĩnh Chi có tài trí ứng phó trôi chảy nhiều thử thách do Thiên Triều đưa ra nên nước Đại Việt được Thiên Triều nể vì và chính bản thân Mạc Đĩnh Chi cũng được phong làm “Lưỡng quốc Trạng Nguyên”.
Người đời sau ở thế kỷ thứ 20 muốn truy tán công đức của tiền nhân, cũng có 2 câu thơ, như sau:
Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán
Thi đáo Tùng, Tuy bất thịnh Đường
Thật là quá tuyệt vời!
Văn mà giống như Trương Hán Siêu và Cao Bá Quát thì trước đời nhà Hán không ai được như vậy.
Thơ thì cho đến như Tùng (Thiện Vương) và Tuy (Lý Vương) không phải thời thịnh của nhà Đường thì không có được.
Quả thật ông cha ta, những người con của nước Đại Việt phải khí phách như vậy, chứ không phải là Trần Ích Tắc của nhà Trần và Lê Chiêu Thống đời Hậu Lê hay những người quỳ gối khom lưng, uốn lưỡi với Thiên triều của đời nay.
Vua Minh Mạng con Vua Gia Long có trên 100 người con và chia ra nhiều dòng phả hệ khác nhau, trong đó có Tùng Thiện Vương tức là Ưng Bình Thúc Giạ Thị và Tuy Lý Vương là 2 nhà thơ chữ Hán siêu đẳng của Việt Nam vào cuối thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ thứ 20. Sau nầy hậu duệ của những vị nầy là bà Tôn Nữ Hỷ Khương và Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải là những người chân tu thực học, thi phú, văn thơ trên cả tuyệt vời!
Việc thưởng phạt của Thánh Tông và Nhân Tông cho những người có công và có tội cũng rất công bình, như vào tháng 4 năm 1289, nghĩa là sau khi đại thắng quân Nguyên Mông lần thứ 3, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn được thăng lên Đại Vương. Còn Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Quốc Tung, anh ruột Hưng Đạo Vương cũng có công cùng em tham gia 2 trận đánh vào năm 1285 và 1288 nhưng không thấy sử sách nhắc tới. Hoặc giả hai vua có phong chức tước, nhưng ông nghĩ rằng mình là người tu hành đâu có cần đến những hư danh giả huyễn đó làm gì, nên không nhận chăng? Trong khi cháu ông, con của Hưng Đạo Vương như Hưng Vũ Vương Quốc Nghiễn được phong là Khai Quốc Công; Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng nhận chức Tiết Độ Sứ; Nguyễn Khoái được phong tước Liệt Hầu và được cấp hẳn một hương làm thực ấp. Hai Vua cũng phong quan tước cho các Tù Trưởng người thiểu số có công như Lương Uất và Hà Tất Năng. Bên cạnh đó, Nội Minh tự Đỗ Hành là người đã bắt Ô Mã Nhi trong trận Bạch Đằng, nhưng chỉ được phong Quan Nội Hầu, vì không đem Ô Mã Nhi nộp cho Hoàng Đế đương triều mà nộp cho Thượng Hoàng Thánh Tông. Ở đây cũng có thể nhận dạng thêm được đại cuộc của các vua Nhà Trần thuở ấy. Tuy là những ông Vua cha đã nhường ngôi cho con lên làm Thái Thượng Hoàng và lui về ở Thiên Trường chứ không ở Thăng Long, nhưng quyền bính vẫn còn không nhiều thì ít lúc thời bình cũng như trong khi tao loạn, nên quan quân cũng khó xử sự trong những tình huống như vậy. Trong khi đó Đỗ Hành nghĩ rằng đem dâng kẻ địch bắt được cho Thái Thượng Hoàng Thánh Tông có lẽ được trả công to hơn, mà ở đây thì ngược lại.
Hưng Trí Vương Quốc Hiện con Hưng Đạo Vương cũng không được thăng chức, vì cố chận đánh tàn quân Nguyên ở biên giới, vì nhà Vua đã ra lệnh không truy kích. Có lẽ hai Vua cũng nghĩ rằng: “Đánh kẻ đến chứ ai lại đánh người thua” cho nên ông nầy không được phong tước là vậy. Điều nầy nó cũng chứng tỏ được lòng từ của hai Vua, khi mình đã toàn thắng đại cuộc rồi. Đối với những người từng đầu hàng quân Nguyên, quan lại thì bị xử tử hoặc bắt đi đày, còn quân dân thì được tha chết, nhưng phải chịu những loại hình phạt khổ sai như: “Chở gỗ đá, xây cung điện để chuộc tội”, hoặc phải làm lính hầu, nô tỳ cho Vương hầu và Tể tướng.
Đây là việc ân đền oán trả của người xưa. Trường hợp của Thúy Kiều ở triều nhà Minh bên Trung Hoa cũng như vậy. Sau khi về với Từ Hải, việc đầu tiên là ân cũ phải đền, trong đó có Sư Giác Duyên và Lão bà; oán phải trả như Khuyển Ưng, Khuyển Phệ, Bạc Bà, Bạc Hạnh đều bị bêu đầu; còn Hoạn Thư thì nửa công, nửa tội nên cuối cùng Kiều cũng tha cho. Chúng ta thấy việc ân thưởng của người xưa rất rõ ràng và minh bạch, không vì ở thế mạnh mà áp đảo người ở thế cô. Không phải có quyền bính muốn phong hàm tướng, tá cho ai cũng được. Đây cũng đúng với thuyết nhân quả của nhà Phật là “nhân nào quả nấy” vậy. Nhân không tốt thì cái quả liền sau đó trong đời nầy hay đời sau nữa, không thể nào tốt được. Nếu ai cũng đều biết được rằng cái nhân của đời nầy là cái quả của đời sau và cái quả của đời nầy là cái nhân của đời trước, thì không ai dám tạo ra những điều bất thiện cả.
Về guồng máy chính quyền Vua Trần Nhân Tông cũng giới hạn tối đa những người làm quan chức, vì sợ hao tốn tiền thuế má của dân, nên sau khi làm Thái Thượng Hoàng có lần ông đã bảo với Trần Anh Tông rằng: “Sao lại có một nước bé bằng bàn tay, mà phong quan tước nhiều như thế?”. Vì lẽ Anh Tông bổ nhiệm quá nhiều quan chức. Đây là cái nhìn của một vị Bồ Tát tại gia vì chúng sanh, chứ không phải vì mình. Khi chúng sanh khổ thì mình phải ra sức gánh chịu cái khổ đó, cho đến khi nào chúng sanh hết khổ thì mình mới vui. Ví dụ như năm 1289 – 1290 nông nghiệp sản xuất bị đình trệ, vì sự chuyển biến thất thường của thời tiết thì Vua Nhân Tông chỉ thị phát chẩn thóc cho người dân và bãi bỏ thuế nhân đinh. Đây chính là những việc đi sát và đi vào lòng dân của Vua Trần Nhân Tông, nên khi nền công nghiệp và nông nghiệp phát triển mạnh sau những trận đói được vua quan lưu tâm như vậy, họ đã giúp triều đình tu bổ, xây mới toàn bộ những cầu cống, đường sá và cung điện đã bị đốt phá trong chiến tranh. Đây mới chính là:
Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh.
Nghĩa là:
Dân là quý, đất nước thứ nhì, vua lại là nhẹ.
Nếu nhà Vua biết hy sinh hạnh phúc riêng của mình cho đất nước và dân tộc thì dân suốt đời sẽ hỗ trợ trong những cung bậc của nhà Vua khi suy cũng như khi thịnh.
Sau khi nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông và ngày 16 tháng 4 năm 1293 rồi lên làm Thái Thượng Hoàng, có nơi thì bảo rằng đến năm 1296 Nhân Tông mới đi xuất gia tại chùa Chân Giáo, nhưng có nơi lại bảo năm sau 1294 Thượng Hoàng xuất gia tu Phật tại hành cung Vũ Lâm (Ninh Bình) và Anh Tông truy tặng cho Vua cha là Hiếu Nghiêu Quang Thánh Thái Thượng Hoàng Đế. Dựa trên dữ liệu của “Thánh ngữ đăng lục”, Giáo sư Tiến sĩ Trí Siêu Lê Mạnh Thát phỏng đoán rằng Nhân Tông đã nhận được tâm ấn từ Tuệ Trung Thượng Sĩ. Bên cạnh đó Nhân Tông vẫn tham gia cùng Anh Tông trị nước.
Tháng 8 năm 1294 quân Ai Lao xâm lăng Đại Việt lần thứ hai và Thượng Hoàng lại thân chinh đánh dẹp. Quân Việt do Nhân Tông chỉ huy đã đánh tan quân Ai Lao, đồng thời thu được nhiều tù binh và chiến lợi phẩm.
Năm 1295 vẫn chủ trì tiếp đón phái bộ Lý Trọng Tân – Tiêu Phương Nhai của nhà Nguyên và năm sau 1296 hai vua Nhà Trần đã sai Trần Khắc Dụng và Phạm Thảo qua Nguyên để thỉnh Đại Tạng Kinh về Đại Việt và được Nguyên Thánh Tông chấp nhận.
Khi người xuất gia làm lễ thế phát, Thầy Bổn Sư có đọc bài kệ rằng:
“Hủy hình thủ khí tiết
Cát ái từ sở thân
Xuất gia hoằng thánh đạo
Thệ độ nhứt thiết nhân”
Nghĩa:
“Thay hình, giữ chí khí
Cắt ái, bỏ người thân
Xuất gia làm việc Thánh
Nguyện độ hết mọi người”
Ý nghĩa của việc xuất gia có 3 phần. Đó là xuất thế tục gia, xuất phiền não gia và xuất tam giới gia. Cái nhà thế tục mà Vua Trần Nhân Tông đang ngự trị đó có cả hoàng hậu, công chúa, thái tử, thứ thi, bá quan văn võ v.v… thế mà Vua đã bỏ tất cả như Thái tử Tất Đạt Đa xưa kia tại Ấn Độ đã làm, thì quả là điều thế gian nầy hiếm có và khó gặp. Trong cái nhà ấy không biết bao nhiêu là não phiền, giận hờn, ân oán với nhau, thế nhưng Nhân Tông vì lòng từ bi mà đã vượt lên trên tất cả. Có lúc cạo đầu làm người Tăng sĩ tu hạnh đầu đà, nhưng khi giặc ngoài vào thì nhà Vua đã đổi áo nhà tu để khoác chiến bào lâm trận. Đây là hành động của những người xuất gia đặt tinh thần Dân tộc, Tổ quốc lên trên Tôn giáo hay lý tưởng của mình đang hành trì.
Cho đến cuối đời của Vua Trần Nhân Tông qua các việc trước tác, thiền định, dạy chúng v.v… nhất là lưu lại xá lợi sau khi trà tỳ, điều ấy chứng tỏ là nhà Vua đã ra khỏi 3 cõi xuống lên của Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Vua được người đời sau xưng tán là Giác Hoàng Điều Ngự hay Trúc Lâm Đại Sĩ. Giác Hoàng là bậc vua đã giác ngộ. Điều Ngự chính là Phật, là Thế Tôn. Cho nên có người gọi là Phật Hoàng Trần Nhân Tông cũng không ngoài ý nghĩa nầy. Trúc Lâm là rừng Trúc nơi núi Yên Tử. Am của Ngài tu gọi là Ngọa Vân Am (Am mây ngủ), nghĩa là mây bay la đà sát am tranh ấy. Sau nầy Huyền Trân Công chúa từ Chiêm Quốc trở lại thăm Vua cha và nàng cũng đã được Thượng Hoàng dạy đạo tại Ngọa Vân Am nầy. Đại sĩ là bậc Thầy thuộc 4 hạng trong đạo Phật, 4 hạng đó là: Hạ Sĩ tiếng dùng để gọi những người mới nhập Đạo; Trung Sĩ là những người đã tu lâu năm; Đại Sĩ là những bậc Thánh Tăng; và Thượng Sĩ là những người trong đời ít có ai sánh bằng.
Hai Vua lại cho người sang Trung Hoa thỉnh Đại Tạng Kinh bằng chữ Hán về Đại Việt nữa. Đây là một việc làm có ý nghĩa vô cùng của những bậc quân vương biết quy hướng về Tam Bảo. Thật ra trong thời thịnh Lý, thịnh Trần, Việt Nam chúng ta vẫn chưa sáng tạo được gì nhiều, ngoại trừ việc dựa vào Trung Quốc qua văn tự chữ nghĩa, học thuật và ngay cả điều hành quốc sự, thi cử v.v… Tất cả đều rập khuôn giống như Trung Quốc, chỉ có phát âm là Việt ngữ, nhưng khi viết phải dùng chữ Hán chứ không có chữ nào khác để thay thế. Tại Trung Quốc, Phật giáo đã có mặt trên 1.300 năm rồi, nên một số chư Tăng như Ngài Nghĩa Tịnh, Huyền Trang, Khuy Cơ đời nhà Đường đã cho phiên dịch trực tiếp từ tiếng Sanskrit sang chữ Hán, nên đời Đường đã dịch đủ cả kinh, luật và luận rồi. Sau đó đến đời nhà Tống, rồi nhà Nguyên. Mỗi thời kỳ, Đại Tạng Kinh đều được bổ sung và sửa đổi, nên giá trị văn học của Đại Tạng chữ Hán đã được định hình từ những thế kỷ của thịnh Đường như vậy. Riêng Việt Nam thì chinh chiến triền miên, nên sách vở, nhân tài, Tăng tài v.v… khó mà tập hợp thành một cơ ngơi thống nhất được, nên nhất nhất đều phải rập khuôn theo Trung Hoa. Từ thế kỷ thứ 13 chúng ta đã đọc Đại Tạng Kinh bằng chữ Hán và mãi cho đến thế kỷ thứ 20 chúng ta vẫn phải đọc chữ Hán, chỉ khi vào cuối thế kỷ thứ 20, đầu thế kỷ thứ 21, có một bậc Danh Tăng thạc đức người Việt Nam du học tại Đài Loan từ năm 1967, đến năm 2016 chủ trương phiên dịch Đại Tạng nầy ra chữ Việt hoàn toàn và điều đó đã trở thành hiện thực ở đầu thế kỷ thứ 21 nầy.
Để triển khai phần nầy một cách chi tiết, nhân đây cũng xin giới thiệu cả Đại Tạng Nam Truyền được dịch từ tiếng Pali và Anh văn sang Việt ngữ từ năm 1964 đến nay, do Cố Hòa Thượng Tiến Sĩ Thích Minh Châu, Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn đề xướng và nay thì Đại Tạng Nam Truyền nầy đã có mặt khắp nơi trên thế giới gồm 3 tạng: Kinh, Luật, Luận với 13 quyển, tổng cộng gần 10.000 trang kinh sách, đó là:
Trường Bộ Kinh 1 quyển
Trung Bộ Kinh 2 quyển
Tương Ưng Bộ Kinh 2 quyển
Tăng Chi Bộ Kinh 2 quyển
Tiểu Bộ Kinh 6 quyển
Tất cả 7 quyển đầu đều do chính tay của Cố Hòa Thượng Tiến Sĩ Thích Minh Châu, Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh phiên dịch từ tiếng Pali sang tiếng Việt và độ chính xác hầu như không còn nghi ngờ gì nữa, vì Ngài giỏi cả Hán văn, Pháp văn và Anh văn, lại du học ở Tích Lan và tốt nghiệp văn bằng Tiến Sĩ tại Đại Học Nalanda ở Ấn Độ, nên đọc qua những bản văn trên của Ngài dịch, chúng ta có thể cảm nhận được điều nầy. Công đức thật là bất khả tư nghì.
Sáu quyển còn lại của Tiểu Bộ Kinh đã được nữ cư sĩ Giáo Sư Nguyên Tâm Trần Phương Lan dịch thẳng từ Anh văn sang tiếng Việt. Đây cũng là những tài liệu tiêu chuẩn khi nghiên cứu về tiền thân của Đức Phật cũng như những Đệ tử của Ngài. Như vậy chỉ trong vòng cuối thế kỷ thứ 20 và đầu thế kỷ thứ 21 nầy chúng ta đã có một bộ Đại Tạng Kinh Nam Truyền hoàn toàn bằng Việt ngữ, mà bao đời nay bao nhiêu người cưu mang, nay mới thành tựu được. Lại nữa chư Tăng Ni và các vị Cư Sĩ đã cất công đọc vào băng tất cả Kinh tạng Nikaya nầy và chính tôi đã nghe mỗi ngày 24 tiếng đồng hồ, suốt cả một tháng trời mới xong gần 10.000 trang kinh ấy. Dĩ nhiên là khi ngủ không nghe nhưng máy vẫn chạy, cho nên phải nghe đi nghe lại nhiều lần như thế mới thâm nhập được.
Sau khi Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời tại Việt Nam từ năm 1964 các Ngài trong Hội Đồng Lưỡng Viện - Viện Tăng Thống và Viện Hóa Đạo đã bắt đầu chủ trương cho phiên dịch Đại Tạng Bắc Truyền bằng Hán văn sang Việt ngữ. Đây là một công trình cần phải có nhiều người mới thực hiện được. Bước đầu là những bộ kinh lớn như: Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Niết Bàn, Địa Tạng, Di Đà, Đại Bảo Tích v.v… đã được Cố Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch ra Việt ngữ từ lâu và Phật tử cũng như chư Tăng Ni trong các chùa lâu nay vẫn hành trì, sẽ sung vào phần Kinh Tạng. Ngoài ra Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm đã dịch 600 bộ Bát Nhã. Hòa Thượng Thiền Tâm đã dịch những kinh văn liên quan về Tịnh Độ. Cố Hòa Thượng Viên Đức đã dịch những kinh văn bên Mật Tông ra tiếng Việt. Hòa Thượng Hành Trụ, Hòa Thượng Đổng Minh, Hòa Thượng Phước Sơn đã dịch Luận Tạng. Ngoài ra các bộ sớ giảng cũng như Luận Tạng đã có một số quý vị Pháp Sư dịch thuật rồi. Nhưng mãi cho tới năm 1994 thì việc nầy mới trở thành hiện thực.
Năm 1967 Cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh đã được Bộ Giáo Dục quốc gia Đài Loan cấp học bổng qua đó học chương trình Cao Học và Tiến Sĩ, sau nhiều năm tu học ở Đài Loan, Ngài đã tốt nghiệp học vị Tiến Sĩ và làm giáo sư tại Đại Học Sư Phạm Đài Bắc trong nhiều năm. Đến năm 1994 Hòa Thượng trở về nước gặp các vị Trưởng Lão trong nước mong muốn thực hiện tiếp tục công việc phiên dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) qua Việt ngữ. Bộ nầy gồm 100 tập, mỗi tập dày độ 1.000 trang trở lên, có chia 3 bậc thượng, trung, hạ trong mỗi trang, chữ nhỏ li ti. Nếu dịch mỗi trang chữ Hán trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh ra tiếng Việt thì phải trở thành 4 đến 5 trang đánh máy khổ A4. Thuở bấy giờ Tăng Ni sinh học trong các Phật Học Viện không ít và chư vị nầy cũng không đủ phương tiện tài chánh để lo cho việc học hành, nên Hòa Thượng đã nhờ các Tăng Ni sinh trong các lớp Hán Nôm hay Hán Văn dịch ra Việt ngữ và Hòa Thượng trả khuyến khích cho mỗi trang chữ Hán là 10 đến 15 USD để giúp đỡ về công dịch thuật ấy. Ngoại trừ những bản kinh căn bản bên trên đã được các bậc Tôn túc dịch từ xa xưa, nay chỉ cần giảo chánh lại và cho vào Đại Tạng Kinh tiếng Việt, mà Ngài Tịnh Hạnh lấy tên là Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh. Ngay từ khi Ngài còn hiện tiền, đợt đầu tiên in được 69 quyển, đợt thứ 2 in từ quyển thứ 70 đến quyển 93, đợt thứ 3 in từ quyển 94 đến quyển 187. Tất cả những quyển nầy được in ấn lúc Ngài còn khỏe cho đến khi Ngài lâm bịnh và xả báo thân vào năm 2016 vừa qua, hưởng thọ trên 80 tuổi. Bây giờ còn lại từ bộ 188 đến bộ cuối 203 sẽ được các Đệ tử xuất gia cũng như tại gia ở Đài Loan in ấn và gởi đi đến các nơi để cúng dường.
Việc đại sự nầy ngày xưa phải tốn hằng thế kỷ. Bây giờ chỉ trong 20 đến 30 năm chúng ta đã có một Đại Tạng Kinh tiếng Việt Bắc Truyền có độ dày mỗi quyển trên dưới 1.000 trang. Nếu tính tổng cộng lại cũng không dưới 250.000 trang kinh sách. Nếu ai đó dành thời gian mỗi ngày đọc 200 trang như thế trong mỗi năm 365 ngày không ngừng nghỉ, thì phải cần đến 15 năm liên tục như vậy mới trì tụng bộ Đại Tạng Kinh nầy xong. Cá nhân tôi cũng được một phước duyên là trước đây trong những mùa An Cư Kiết Hạ tại chùa Viên Giác Hannover, tôi dành 5 mùa An Cư, mỗi năm 3 tháng như thế để dịch xong quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn, nếu in hết, ngoại trừ Đại Trí Độ Luận và Đại Thừa Khởi Tín Luận, thì phần dịch của tôi cũng đến 5.000 trang A4 đánh máy. Công việc nầy phải kiên trì hằng ngày, hằng tháng, hằng năm mới có thể thành tựu được. Nếu mỗi ngày cứ đứng lên ngồi xuống nhiều lần và di chuyển đi đây đi đó, thì không mong gì có được những dịch phẩm như ý. Có lẽ nhờ được phước báu dịch Đại Tạng Kinh nầy mà chỉ trong một đời sống ngắn ngủi nầy, cá nhân tôi đã được đảnh lễ, trì tụng, nghe băng của hai Đại Tạng cả Bắc lẫn Nam Truyền như thế nầy. Đúng là một phước báu vô ngần. Nếu không có nơi Tam Bảo để nương tựa thì làm sao cá nhân tôi có những hạnh duyên và cơ hội tốt như vậy được. Phước báu nầy con xin dâng tất cả lên mười phương chư Phật chứng minh và gia hộ.
Nếu nhìn lại quá khứ từ xa xưa đến nay, Việt Nam chúng ta đã trải qua nhiều triều đại huy hoàng như Lý Trần hay hưng thịnh như nhà Nguyễn, và trong hằng trăm năm đó chúng ta vẫn có những bậc Danh Tăng thạc đức, nhưng để làm một việc đại sự là in ấn phát hành Đại Tạng Kinh ngay cả bằng chữ Hán vẫn chưa kham nổi, đừng nói chi là tiếng Việt. Còn bây giờ bắt đầu chỉ một cá nhân Cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh đề xướng, chư Tôn Đức và Tăng Ni ở trong cũng như ngoài nước trợ duyên vào, nay thì mọi việc đã thành tựu. Việt Nam Phật giáo ngàn đời sau vẫn còn ghi ân Hòa Thượng và những bậc Đại Tăng đã làm nên lịch sử phiên dịch nầy. Nếu những chiến công hiển hách triệt phá quân Nguyên Mông của vua Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông là lịch lãm trong đường gươm chiến đấu thành công, thì gia tài Pháp Bảo Đại Tạng Kinh tiếng Việt nầy còn cao cả, giá trị hơn nghìn lần sự chiến thắng kia. Nếu không phải vậy thì Vua Trần Nhân Tông tại sao phải đi xuất gia làm gì cho nhọc công, tốn sức, mà nên ở lại ngai vàng cũng như cung điện và cung phi mỹ nữ để hưởng những sự phú quý vinh hoa về vật chất vẫn hơn? Dĩ nhiên phải có những điều cao thượng hơn cả ngai vàng nên Ngài mới xuất gia học và hành đạo.
Vào tháng 10 năm 1299, Nhân Tông rời núi Yên Tử (Quảng Ninh) lấy Pháp danh là Hương Vân Đại Đầu Đà và tu theo “Thập nhị đầu đà” (mười hai điều khổ hạnh). Ông còn có đạo hiệu là Trúc Lâm Đại Đầu Đà hay Trúc Lâm Đại Sĩ và Giác Hoàng Điều Ngự. Từ khi Đức Phật còn hiện thế, Ngài Ma Ha Ca Diếp là Tổ sư của hạnh tu khổ hạnh nầy. Ngài thường ngồi hay ngủ tại các nghĩa địa, đêm về thường quán đến các tử thi hay xác chết (bạch cốt) để hiểu rõ lý vô thường mà Đức Phật đã dạy cho các Đệ tử nghe hằng ngày. Đến cuối đời già yếu, Đức Phật và các vị Đại Đệ tử như Ngài Xá Lợi Phất và Ngài Mục Kiền Liên khuyên Ngài là ban đêm nên về Tịnh Xá để tịnh tu thiền tọa, nhưng một mực Ngài nhất quyết là không. Ngài giữ hạnh đầu đà như thế cho đến cuối đời. Đây có lẽ là quan điểm của Ngài, cho nên trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất tại động Thất Diệp, sau khi Đức Phật nhập diệt 100 ngày, thì Ngài chỉ triệu tập 500 vị Đệ tử A La Hán có cùng quan điểm tu khổ hạnh và Thiền định như Ngài mới được tham dự, và theo Ngài Thánh Nghiêm, Tiến Sĩ Phật giáo Nhật Bản cho rằng: Chính vì thế mà những vị chứng A La Hán có khuynh hướng Đại Thừa trong kỳ kết tập Kinh Điển lần thứ nhất nầy vắng mặt, chỉ đến lần thứ 2 và thứ 3 cách đó cả 100, 200 năm sau khuynh hướng Đại Thừa mới được phát biểu trong những lần kết tập về sau nầy.
Từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 13 tại Đại Việt chủ yếu được cấu tạo bởi những dòng Thiền lớn như: Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường. Điều Ngự đã hợp nhất các dòng Thiền nầy vào Trúc Lâm. Đây được xem là một Tông Phái thống nhất đầu tiên của Đạo Phật tại Việt Nam. Thiền phái Trúc Lâm vừa tiếp thu nền tảng Phật giáo Ấn Độ, Trung Hoa, vừa xử dụng văn hóa Việt Nam và khuyến khích Phật tử cống hiến cho xã hội trên nền tảng Từ Bi – Trí Tuệ của Phật giáo. Bản thân của Điều Ngự không phải chỉ ở yên nơi Yên Tử, mà còn tổ chức nhiều buổi thuyết pháp cho Tăng chúng ở các chùa như Phổ Minh ở Thiên Trường, Sùng Nghiêm tại Chí Linh, Vĩnh Nghiêm ở Lạng Sơn và Báo Ân – Siêu Loại, nay thuộc Gia Lâm – Hà Nội. Ông xây dựng nhiều tự viện và đi giáo hóa khắp nơi trong nước từ thôn quê đến thành thị. Trên cương vị là Thượng Hoàng Thiền Sư, ông đã dạy dân bài trừ các tập tục mê tín, dị đoan và tu dưỡng đức hạnh theo giáo pháp Thập Thiện. Ông cũng khuyên bảo Anh Tông từ bỏ rượu chè, đồng thời đóng góp ý kiến cho các quốc sách của nhà Vua.
Một điều đặc biệt của những Tông phái Thiền ở Việt Nam là vừa ngồi thiền vừa lấy hạnh đầu đà hay giới làm căn bản. Vừa ngồi thiền vừa niệm Phật như tâm Thiền Lâm Tế về sau nầy. Điều nầy chỉ ở Việt Nam mới có, còn các nước như Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên thì Thiền chỉ chuyên Thiền mà thôi. Nếu có tụng kinh thì chỉ là Kinh Bát Nhã, còn tông Tịnh Độ chỉ niệm Phật và tụng kinh A Di Đà chứ không tụng những bản kinh văn khác. Trong khi đó Phật giáo Việt Nam lại không phải vậy, kinh cũng tụng, thần chú cũng đọc, Thiền vẫn ngồi và Phật vẫn niệm. Đây là một tổ chức Phật giáo tổng hợp của các Tông Phái. Cho nên ta thấy rằng Giáo Chủ của Thiền Phái Trúc Lâm mà Ngài có dạy Thiền cho dân chúng là chính đâu, vì lẽ căn cơ của dân chúng không đủ để tiếp nhận tâm Thiền nầy, nên Ngài đã chỉ dạy Thập Thiện, tức là 10 giới căn bản của người tại gia, gồm có: 3 giới thuộc về Thân là không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm; Miệng có 4 giới là không nói dối, không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời thêu dệt và không nói lời hung ác; Ý có 3 giới đó là không tham, không sân và không si. Nếu một dân tộc mà giữ tròn 10 điều lành nầy thì dân tộc đó rất hạnh phúc, giống như dân chúng nước Bhutan trong hiện tại. Còn ngược lại với các điều trên là Thập Ác. Ở đây giới nó không có nghĩa là trừng phạt mà là một sự bảo hộ cho mỗi người. Chính nhờ việc giữ Giới mà ta sinh Định và từ Định sẽ phát Huệ. Thượng Hoàng với hình thức là Tăng nhơn, đi đến đâu cũng bình dị, nên gần gũi dân chúng. Đây là cơ hội để thăm dân, để tiếp nhận những lời thật mà khi ngồi trên ngai vàng với áo mão, long bào nơi chốn hoàng cung ít ai dám gần gũi để thố lộ. Cũng như thế, Đức Phật không nhất thiết phải đi khất thực hằng ngày, nhưng chính bản thân Ngài mong được gần gũi dân chúng, tạo cho dân chúng có cơ hội học căn bản về thân khẩu ý cũng như ý nghĩa của sự bố thí được phước báu như thế nào, nên Ngài mới thực hành hạnh khất thực như vậy. Trong khi bố thí nếu:
Người bố thí thanh tịnh, kẻ nhận của bố thí cũng thanh tịnh.
Người bố thí không thanh tịnh, kẻ nhận bố thí thanh tịnh.
Người bố thí thanh tịnh, kẻ nhận bố thí không thanh tịnh.
Cả người nhận bố thí và người bố thí đều không thanh tịnh.
Ba phần đầu đều có phước báu khác nhau nhứt định, chỉ có phần sau cùng là cả người cho và kẻ nhận đều không tạo ra một phước báu nào cả.
Đức Phật nguyên là một Đông cung Thái tử quyền quý cao sang mà Ngài còn từ bỏ tất cả để đi đến từng xóm làng để khất thực, chắc hẳn không vì sự nghèo đói, mà chỉ vì lòng từ bi muốn cho tất cả chúng sanh được trồng vào mảnh đất tâm linh những điều lương thiện. Điều Ngự Giác Hoàng cũng giống như thế, Ngài từ bỏ vương vị lên làm Thái Thượng Hoàng từ năm 1293, sau hai lần đại thắng quân Nguyên Mông vào năm 1285 và 1288. Đây cũng là hạnh Đầu Đà mà Ngài muốn thực hiện. Đi đến đâu Ngài khuyên dân thực hành chánh tín, quy y Tam Bảo để được lợi mình và lợi người, bài trừ những sự tin càn, hiểu sai giáo lý của nhà Phật. Thái Thượng Hoàng chỉ làm một số động tác như thế thôi cũng đủ làm cho nhân dân quy ngưỡng muôn đời rồi. Thiền tuy trực tiếp không dạy cho dân chúng nhưng qua thân giáo, khẩu giáo và ý giáo nầy của Thượng Hoàng đã làm cho dân chúng phải khâm tuân và không trái với ý chỉ. Chắc rằng Thiền học và Thiền tập, Ngài đã dạy cho Pháp Loa, cho Huyền Quang khi tham học với Ngài. Hai vị nầy kế nghiệp làm Tổ thứ hai và thứ 3 của Trúc Lâm, nên người đời sau gọi là Trúc Lâm Tam Tổ.
Tháng 3 năm 1301, Giác Hoàng Điều Ngự du hóa đến Bố Chính - một vùng đất địa đầu phía Nam của Đại Việt và cho dựng am Trì Kiến. Từ Bố Chính, ông sang Chiêm Thành và ở lại đây 9 tháng. Bài của Trần Quang Chỉ trong tranh Trúc Lâm Đại Sĩ xuất sơn đồ, đã mô tả về chuyến đi nầy rằng: Có lúc Ngài viễn du hóa độ cho các nước lâng bang, phía Nam đến tận Chiêm Thành, đã từng khất thực ở trong thành. Vua nước Chiêm Thành biết được điều đó, hết sức kính trọng thỉnh mời, dâng cúng trai lễ, sắp sẵn thuyền bè nghi trượng, thân hành tiễn Ngài về nước.
Địa lý, Mê Linh và Bố Chính vẫn còn là những địa đầu ở Quảng Bình, Quảng Trị ngày nay. Sau khi Anh Tông gả Huyền Trân Công chúa về đó thì Đại Việt mới có thêm châu Ô và châu Lý. Hai châu nầy là đất Thuận Hóa và một phần của Quảng Nam Đà Nẵng bên đèo Hải Vân ngày nay. Vì lẽ Mỹ Sơn gần Trà Kiệu hiện nay vốn là Kinh đô cũ của Chiêm Thành vào những thế kỷ thứ 3 thứ 4, có rất nhiều cung điện và chùa tháp, nên Chế Mân lấy ranh giới ở phần nầy để làm sính lễ cưới Huyền Trân Công chúa, con Vua Trần Nhân Tông, em Vua Anh Tông về làm vợ của mình. Thuở ấy Kinh đô chính thức của Chiêm Thành là Đồ Bàn, nay thuộc Bình Định. Ngày ấy xa xưa lắm rồi, ngày đi đêm nghỉ và chắc là Thượng Hoàng không đi ngựa, vì đang vận trên mình chiếc áo nhà tu, đầu cạo nhẵn, hai tay bưng bình bát đi khất thực hằng ngày để thể hiện hạnh đầu đà của mình đồng thời tạo cơ hội gần gũi dân chúng. Đó là ý chỉ của Thượng Hoàng, cho nên kiệu cáng hay xe ngựa của quan dân trên đường đi đến nước Chiêm, chắc chắn sẽ bị Thượng Hoàng từ chối. Từ Bố Chính đến Mỹ Sơn chắc đi bộ đường trường cũng hết một tháng, rồi từ Mỹ Sơn đi đến Kinh đô Đồ Bàn cũng phải hơn một tháng nữa và ở lại đó đến 9 tháng sau khi gặp Chế Mân. Lúc ấy không biết là Thượng Hoàng có cần người thông dịch đi theo hầu, hay Ngài nói chuyện với Chế Mân và triều đình Chiêm Thành bằng Chiêm ngữ? Hoặc giả Chế Mân biết Hán văn và cả hai bậc quân vương đều dùng bút đàm để nói chuyện với nhau? Dĩ nhiên là tốn thời giờ lắm! Nếu không thân tình và không hiểu nhau thì ở chi đến 9 tháng? Chắc rằng cảnh sắc của Chiêm Thành phải đặc biệt lắm, nên Chế Mân mới cùng Thượng Hoàng đi thăm viếng hết xứ sở của Chiêm Bang. Lúc ấy chắc hẳn phải đi đến Nha Trang, Phan Rang, Phan Rí? Ngày nay khi gọi tên những địa phương nầy, ta vẫn còn mường tượng tiếng Chiêm Thành vẫn còn sót lại đâu đây?
Đến đâu Thượng Hoàng cũng đều đi khất thực, ai cho gì ăn nấy, không bận bịu như ở chốn hoàng cung phải sắm sửa nào cao lương mỹ vị, nào hải yến, cao sâm… Tất cả đều tự do, tự tại, tiêu diêu, phiêu bồng để ngắm cảnh non nước trời mây. Không biết là Thượng Hoàng có làm bài thơ nào để lại trong thời gian 9 tháng ở tại Chiêm Quốc không? Hay chỉ trà đàm, bút đàm cũng như tham dự những lễ nghi của dân chúng? Ngày xưa và nay khác nhau nhiều quá. Bây giờ cái gì cũng ghi lại thành lời, viết thành sách để đời sau nếu ai đó có muốn tìm lại điều gì thì dễ dàng tra cứu, còn ngày xưa ngay cả các vị Đại Thiền Sư, các Ngài đến đi như chim trời, cá nước và chẳng để lại vết tích gì, cho nên người đời sau muốn tìm lại dấu chim Di xưa kia, thì thật không phải là điều đơn giản.
Khi thâm tình đã thấm sâu, thì những câuchuyện chính mới trải lòng ra và vì quá cảm mến Chế Mân nên Thượng Hoàng đã hứa gả Huyền Trân Công chúa cho, lúc ấy Công chúa còn nhỏ lắm. Điều nầy Vua Anh Tông cũng chưa biết và chính Huyền Trân Công chúa lại càng chẳng hiểu gì cả khi nghe được tin nầy. Tại sao lại thế? Nhưng lúc đó, một lời hứa của những bậc quân vương không thể một sớm một chiều mà thay đổi được. Việc xin dâng châu Ô và châu Lý để làm sính lễ cưới Huyền Trân sau nầy là do phái bộ của Chế Mân cũng như hảo ý của Chế Mân, hay sự sắp xếp áp đặt của Anh Tông thì không rõ, nhưng với tâm từ bi của Thượng Hoàng lúc ấy có lẽ Ngài không bao giờ đề nghị đến việc nầy. Vì đó không phải là mục đích chính của chuyến đi nầy.
Sau cuộc vân du Chiêm Thành, Điều Ngự về lại phủ Thiên Trường vào tháng 1 âm lịch năm 1303 để mở hội Vô Lượng Pháp ở chùa Phổ Minh, bố thí vàng bạc, tiền lụa để chẩn cấp cho dân nghèo trong nước và giảng kinh giới thí (Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư). Điều Ngự đã được Vua Chiêm là Chế Mân trọng đãi, tiếp đón và đưa tiễn về Đại Việt bằng thuyền buồm. Từ Đồ Bàn ở Bình Định đi đến Thăng Long nếu không có gió Đông Bắc thổi, thì cũng cần nhiều tháng mới đến. Đó là chưa kể những cơn dông bão bất thường trên biển cả mênh mông kia mang lại. Khi ở Champa chắc chắn Điều Ngự đã tiếp xúc với các truyền thống văn hóa Phật giáo khác nhau như: Bà La Môn, Hồi Giáo, Phật giáo Nam Truyền và Phật giáo Bắc Truyền. Vì Chiêm Thành thuở ấy có biên giới phía Nam, không xa nước Phù Nam là mấy, mà nước Phù Nam như trong Đại Tạng Kinh Bắc Truyền bằng Hán văn, thỉnh thoảng ta vẫn thấy những vị Tăng sĩ Ấn Độ đến đây và dịch kinh viết sách để lại cho đến ngày nay. Lại cũng có nơi gọi là Lâm Ấp. Lâm Ấp thuộc vùng đất miền Trung của Việt Nam bây giờ. Đời Tần gọi là nước Lâm Ấp, qua đời Hán gọi là huyện Tương Lâm, đến đời Hậu Hán thì độc lập hẳn từ Trung Hoa. Từ đời Đường trở về sau, người ta thường gọi là Champa. Lâm Ấp có nhiều trầm và đóng vai trò mậu dịch trung gian giữa Ấn Độ và Trung Hoa. Từ khoảng năm 758 cho đến những năm 850, nước Lâm Ấp đổi thành Hoàn Vương, một cái tên mới rất đỗi xa lạ (Phan Rang ngày nay), nằm về phía Nam; sau những năm 850 Hoàn Vương lại đổi thành Chiêm Thành. Vì những bia mộ sau thế kỷ thứ 4 thường được viết bằng chữ Sanskrit, nên chúng ta có thể phỏng đoán tiếng Lâm Ấp bắt đầu được Ấn hóa từ lúc đó.
Phật Triết là một người được sinh ra tại đây và năm 736 Ngài đã sang Nhật Bản với vị Cao Tăng người Ấn Độ là Bồ Đề Tiên Na (Bodhisena) 704-760, Ngài Phật Triết đã sang Ấn Độ (bằng cách gì chưa rõ) có thể đi bằng thuyền từ Phan Rang đến Bombay hay Calcutta chăng? Hay đi bộ qua Cao Miên rồi Miến Điện và cuối cùng thì đến đất nước Ấn Độ? Ngài nhận Bồ Đề Tiên Na làm Thầy, học Phật Pháp và thông mật chú. Giữa năm Khai Nguyên, Ngài cùng với Bồ Đề Tiên Na qua nước Trung Hoa (thời Đường), rồi cùng sang Nhật Bản. Đó là năm Thiên Bình (Tempei) thứ 8, tức năm 736. Ngài ngụ tại chùa Đại An (Daian) và được các quan rất sùng kính. Đời Thiên Bình Thắng Bửu (Tempyò Shôhô) thứ 4, tức năm 752 lúc đó có lễ khai nhãn cúng dường Đại Phật Tỳ Lô Giá Na bằng đồng tại chùa Đông Đại (Todaiji) ở Nara, Ngài thừa lệnh cùng Bồ Đề Tiên Na dự pháp hội và nghe tấu vũ nhạc. Ngài được tôn làm Sư của các điệu múa Bồ Đề, Bạt Đầu và nhạc Lâm Ấp, những điệu múa và âm nhạc ấy là do công phu của Ngài cả. Không biết Ngài mất khi nào và tại đâu, hưởng thọ bao nhiêu tuổi? Ngài đã viết sách Tất Đàm (Thành Tựu Cát Tường), Chương Thứ Nhất. Tiểu truyện của Ngài có đăng ở Todaiji Yòroku dai 2, Wamei ruijushò dai 4, Genkyò Yakusho dai 15.
Như vậy có thể nói Ngài Phật Triết người nước Lâm Ấp, sau nầy là Chiêm Thành, bây giờ là Việt Nam sinh lúc nào và mất lúc nào không ai rõ, nhưng chúng ta biết chắc một điều là Ngài phải nhỏ hơn Thầy mình là Ngài Bồ Đề Tiên Na người Ấn Độ (704-760). Có thể Ngài sinh sau Thầy mình chừng 5 đến 10 năm và mất sau Thầy một thời gian ngắn. Cũng có thể nói Ngài là người đầu tiên sang Ấn Độ từ Lâm Ấp sau thời của Ngài Huyền Trang chăng? Thuở ấy Phật giáo rất thịnh hành và Đại Học Nalanda có khi lên đến 10.000 Tăng Sĩ lưu trú và tu tập học hỏi tại đó. Tại Ấn Độ Ngài học tiếng Phạn và khi cùng Thầy mình về lại Lâm Ấp, Ngài cùng Thầy đã truyền lại Phạn Chú cho chư Tăng tại đó. Tại Lâm Ấp Ngài cũng đã học những điệu múa và nhã nhạc hoàng cung, nên sau khi đến Nhật, mới có cơ hội dạy lại cho những tăng nhân và cung nữ tại chùa Đông Đại (Todaiji) ở Nara vào thời điểm trước và sau năm 752.
Như vậy ta có thể nói rằng: Khi Điều Ngự Trần Nhân Tông đến thăm Champa vào thế kỷ thứ 13, nghĩa là cách thời của Ngài Phật Triết đến 600 năm, nên Phật giáo, đặc biệt là những nghi lễ liên quan đến chú thuật đã được truyền bá rộng rãi trong dân gian nước Chiêm Thành lúc bấy giờ rồi. Khi Điều Ngự được vua Chiêm Thành là Chế Mân mời đi thăm các chùa viện tại Chiêm quốc, thấy họ đã làm được nhiều việc cho dân chúng như bố thí cho người nghèo và mở những Pháp Hội để cho dân chúng đến lễ bái nguyện cầu. Pháp Hội ở đây có thể hiểu là những Đàn Tràng Thủy Lục, chư Tăng tụng kinh siêu độ cho những người quá vãng và cũng là nơi bố thí Pháp bởi những vị giảng sư nổi tiếng được thỉnh mời. Ngay cả Điều Ngự cũng được thỉnh thăng tòa thuyết pháp, Ngài kể lại những chuyện mắt thấy tai nghe tại Chiêm Thành qua 9 tháng vân du và cư trú tại đây, đồng thời lồng những lời dạy của Đức Phật vào những câu chuyện đời thường mà Điều Ngự đã gặp khi đi khất thực đó đây, để cho dân chúng dễ thu thập; trong đó có Thập Thiện giới v.v… Điều nầy cũng giống như Ngài Thạch Liêm Thích Đại Sáng vậy, nghĩa là sau khi thăm Đại Việt hay nói đúng hơn là xứ Đàng Trong vào giữa thế kỷ thứ 17, Ngài về lại Trung Hoa viết nên tập “Hải Ngoại Ký Sự” bằng Hán văn rất bổ ích cho những ai muốn nghiên cứu về phong tục, tập quán, tôn giáo của xứ Đàng Trong vào thời các Chúa Nguyễn trị vì. Nếu không có chuyến đi đầu của Ngài gặp Chúa Nguyễn Phúc Chu, thì cũng sẽ không có việc nhà chùa cho thỉnh mời Ngài Nguyên Thiều, cùng 10 vị Đại Sư đến Việt Nam vào cuối thế kỷ thứ 17, để truyền giới cho chư Tăng Ni cũng như vua chúa tại các chùa Thập Tháp ở Bình Định, Di Đà ở Hội An hay ở kinh đô Huế. Chính ở Giới đàn vào cuối thế kỷ thứ 17 nầy tại Phú Xuân, Chúa Nguyễn Phúc Chu đã thọ Bồ Tát giới tại gia với Đạo hiệu là Thiên Tùng Đạo Nhân.
Ngày xưa Việt Nam chúng ta theo chế độ Quân chủ, nông nghiệp vốn là nghề chính, vua chúa, quan lại sống nhờ vào thuế thân, thuế đất đai và thuế nông, lâm, hải sản. Chế độ vua chúa gọi là chế độ “phong kiến” bao hàm ý “phong tước và kiến địa”, nghĩa là nhà vua có quyền hành trên tất cả, phong chức tước cho các quan và lấy hương điền, hương thổ cấp cho từng vị quan theo từng chức vụ và dựa vào đó để đánh thuế dân qua các nông, hải, lâm sản thu được. Năm nào được mùa thì cất vào kho và khi đói kém theo lệnh của vua phải mang ra cấp phát lại cho dân nghèo, nếu không thì dễ bị nổi loạn. Nếu ông vua đạo đức, ông vua có thọ Bồ Tát giới tức là giới vì người chứ không phải cho mình, thì việc cho đi của cải để thể hiện tấm lòng từ bi, vốn cũng là chuyện bình thường nơi cửa Phật. Chỉ có những ông vua và quan lại tham nhũng, không thương dân, ngay cả khi dân bị đói khổ, tất cả đều chỉ muốn vơ vét vào túi tham của mình cho đầy, thì dân sẽ không nể vì, mà còn tạo nên nội loạn nữa. Có lẽ vì thế mà Điều Ngự vào năm 1304 khi đến kinh đô Thăng Long đã tiến hành lễ thọ giới Bồ Tát cho Vua Trần Anh Tông cùng các vương hầu, quan lại trong triều đình. Việc nầy đối với các triều đình Nhà Trần ngày xưa không phải hiếm, vì Vua cha đã là một Thiền sư, phải thọ giới Tỳ Kheo, mà giới Tỳ Kheo vốn thuộc Thanh Văn thừa, nên tất cả những vị xuất gia sau khi thọ giới Tỳ Kheo theo truyền thống Tứ Phần Luật, đều phải thọ Bồ Tát giới xuất gia gồm 10 giới trọng và 48 giới nhẹ. Đây gọi là Đạo Tục Thông Hành giới. Từ đó việc thể hiện lòng từ mới dễ dàng, và khi truyền giới cho Vua Anh Tông có lẽ các Thiền sư bậc Thầy của Điều Ngự đã cho Anh Tông thọ 10 giới trọng và 48 giới nhẹ. Sau nầy có một số các vị Đại Sư căn cứ theo Ưu Bà Tắc Giới Kinh mà cho các Đệ tử tại gia thọ 6 giới trọng và 28 giới nhẹ. Nhưng theo Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật dạy rằng: “Là Bồ Tát, không thể thiếu lòng từ bi đối với chúng sanh, nên cuối cùng cần phải giữ cho đủ những giới trọng nầy”.
Thiền Phái Trúc Lâm khởi nguyên từ các vị như:
- Đạo Viên, Thông Thiền, Nhật Thiền, Tức Lự
- Chí Nhàn, Ứng Thuận, Tiêu Dao
- Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Thái Tông
- Trần Nhân Tông, Thạch Kim
Chắc hẳn Điều Ngự đã cho thỉnh những vị Đại Sư còn sống thời ấy như Tuệ Trung Thượng Sĩ, Thạch Kim và ngay cả Ngài nữa, ngồi chứng minh trong đàn tràng Bồ Tát giới nầy. Nếu đứng về phương diện huyết thống thì Tuệ Trung Thượng Sĩ là Thầy và cũng là cậu của Vua Trần Nhân Tông (Điều Ngự Giác Hoàng). Và Nhân Tông là thân phụ của Anh Tông, nên Vua Anh Tông thọ Bồ Tát giới tại gia theo sự khuyến thỉnh của Thân phụ mình cũng là điều hữu lý thôi.
Đến năm 1304 khi đang hoằng hóa tại huyện Nam Sách (Hải Dương), Điều Ngự đã gặp và thâu nhận Pháp Loa (Đồng Kiên Cương 1284-1330) làm đệ tử xuất gia của mình. Sau đó Ngài đào tạo cho Pháp Loa trở thành người kế thừa Trúc Lâm Thiền Phái. Lễ truyền đăng cho Pháp Loa được cử hành tại chùa Báo Ân Siêu Loại và được tường thuật qua sách Tam Tổ Thực Lục như sau:
“Ngày Mồng Một tháng Giêng năm Mậu Thân, Hưng Long năm thứ 16 (1308) Sư vâng lệnh làm Trụ Trì nối dòng pháp ở Cam Lộ đường, chùa Siêu Loại. Để khai đường và làm lễ trao truyền, Vua cho đặt bài vị của liệt Tổ, tấu đại nhạc, đốt hương thơm. Điều Ngự dẫn Sư lên lễ Tổ đường xong. Sau khi ăn cháo, sai tấu nhạc, đánh trống pháp, tập hợp đại chúng lên Pháp đường. Bấy giờ Anh Tông xa giá đến chùa. Sau khi đặt ngôi chủ khách xong, Vua Anh Tông vì là đại thí chủ của Phật Pháp, đứng vào ngôi khách ở Pháp đường, Thượng Tể sắp bá quan ở dưới sân. Điều Ngự lên tòa thuyết pháp. Giảng xong, bèn đi xuống đỡ Sư lên tòa. Điều Ngự đứng đối diện chắp tay hỏi han. Sư đáp lễ xong, nhận Pháp y mặc vào. Điều Ngự bèn bước sang một bên, ngồi trên giường khúc lục, nghe Sư thuyết pháp. Đem chùa Siêu Loại của sơn môn Yên Tử sai Sư kế thế trụ trì làm đời thứ hai của dòng phái Trúc Lâm. Lại đem ngoại thư kinh sử 100 hộp và Đại Tạng 20 hộp nhỏ chép bằng máu chích ra, để mở rộng việc học nội và ngoại điển” (theo Tam Tổ thực lục).
Như vậy chúng ta thấy Điều Ngự thật là phước báu vô cùng. Lần thứ nhất Ngài đã truyền ngôi cho con mình là Anh Tông, lên ngôi Thái Thượng Hoàng vào năm 1293, sau đó mấy năm thì xuất gia tu học, không màng đến danh lợi gì cả. Cuối cùng là Sáng Tổ của Trúc Lâm và đã có người truyền thừa, kế pháp để giáo pháp ấy mãi lưu truyền đến ngày nay. Lần truyền thừa ngôi vị Tổ thứ 2 của Trúc Lâm thật là trang trọng như chúng ta vừa đọc bên trên. Bên Sơn Môn chùa Siêu Loại thì có chư Đại Pháp Sư và các vị Đại cư sĩ hộ đạo. Bên triều đình có cả Hoàng đế đương triều Trần Anh Tông cũng xa giá cùng bá quan văn võ đến đây để tham dự lễ truyền trao tâm ấn nầy. Đó là Y áo cà sa, là Kinh điển, là Phật pháp là nguồn Thiền. Lần đầu Vua Trần Nhân Tông truyền ngôi cho Anh Tông là ngai vàng là triều đình và bá quan văn võ. Lần nầy Điều Ngự truyền cho Pháp Loa là tâm Thiền là pháp phục của cửa không. Thượng Hoàng lúc đó chắc là an lạc lắm, vì ngôi báu lâu nay đã có người thừa kế và chùa viện thuộc Sơn Môn Yên Tử cũng có người để mà truyền thừa. Niềm vui của Điều Ngự bây giờ thật không có niềm an lạc nào có thể so sánh được.
Ngày xưa khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền tâm ấn cho Ngài Ma Ha Ca Diếp chỉ bằng một cái mỉm cười, khi Ngài Ca Diếp thấy Đức Phật đưa lên một cành hoa sen và từ hình ảnh ấy, Phật giáo đã hiện hữu suốt hơn 2.500 năm đây đó, chưa bao giờ có sự gián đoạn cả. Sau nầy tùy theo mỗi Tông Phái mà có cách truyền thừa khác nhau, nhưng đại loại là khi Thầy truyền cho trò, người học trò ấy phải hội đủ những điều mà người Thầy mong muốn. Cho nên trong Thiền môn cũng có câu là:
“Đệ tử tầm Sư dị, Sư tầm Đệ tử nan”
Nghĩa:
Trò tìm Thầy dễ, Thầy tìm trò thật khó.
Vì sao vậy? Vì đã là Thầy thì phải hội đủ nhiều điều kiện mới được làm Thầy, cho nên là Đệ tử tìm ra một vị Thầy để nương thân, không phải là việc khó. Chỉ khi nào trong cả trăm, cả ngàn người Đệ tử, vị Thầy thấy chỉ có một vị xứng đáng, lựa chọn ra để truyền thừa mạng mạch của Phật pháp, nên đây gọi là khó.
Bây giờ ở Việt Nam đa phần việc truyền thừa cũng có nhiều cách khác như: Khi còn sống, vị Thầy không còn làm Trụ Trì một ngôi chùa lớn, một Tổ Đình liền trở về ngôi Viện Chủ, giống như một chức vụ đã về hưu. Ở Trung Hoa thì gọi là Phương Trượng và vị Đệ tử được chỉ định lên kế thế Trụ Trì với sự giám sát, giúp đỡ tinh thần của vị Thầy Viện Chủ nầy. Riêng phần tôi, vào năm 2003, sau 25 năm làm Trụ Trì và sáng lập chùa Viên Giác tại Đức Quốc, tôi đã trở về ngôi Phương Trượng và giao quyền Trụ Trì lại cho Thầy Thích Hạnh Tấn là Đệ nhất Trụ Trì Viên Giác tự cho đến năm 2008. Lễ truyền thừa gồm có Y áo và một bản Kinh Kim Cang làm Pháp Bảo với sự chứng minh của các bậc Trưởng Lão trong Giáo Hội, của Môn Phong Pháp Phái Lâm Tế Chúc Thánh trong cũng như ngoài nước và của những tử đệ xuất gia và tại gia. Đến năm 2008 Thầy Hạnh Tấn truyền chức Trụ Trì lại cho Thầy Hạnh Giới làm Đệ nhị Trụ Trì Viên Giác với Pháp Y và Pháp Bảo cũ của lần đầu. Năm nay 2017 sau gần 10 năm Thầy Hạnh Giới làm Trụ Trì, Thầy Hạnh Bổn sẽ được truyền thừa làm Trụ Trì đời thứ 3 của Viên Giác tự tại Hannover, Đức Quốc. Tôi trở thành sáng lập Trụ Trì và sẽ là người Tăng Sĩ đầu tiên có mặt cũng như xiển dương Phật Pháp tại xứ Đức nầy từ năm 1977 đến 2017, đúng 40 năm như vậy và cũng được hân hạnh là chứng minh cho cả 3 đời truyền thừa Trụ Trì tiếp theo sau đó khi tôi còn sinh tiền. Năm 2015 khi chúng tôi ghé Waldbröl để thăm Thiền sư Nhất Hạnh tại Viện Phật Học Ứng Dụng Âu Châu, Ngài cũng đã tuyên dương trước đại chúng hôm đó về việc nầy và ngôi chùa Viên Giác tại Hannover được thành lập từ năm 1977, nay trở thành ngôi Tổ Đình của Phật giáo Việt Nam tại xứ Đức và cho tất cả những ngôi chùa Việt Nam khác được thành lập tại đây sau năm 1978.
Sự truyền thừa nó mang một dấu ấn khó quên đối với người Đệ tử, và người xuất gia ấy lúc nào cũng phải tâm tâm niệm niệm lo giữ gìn cũng như phát triển nền đạo, để Phật Pháp còn tồn tại mãi trên thế gian nầy.
Sau Pháp Loa là Hương Sơn, Pháp Cổ
- Huyền Quang, Cảnh Huy, Quế Đường
- Chuyết Chuyết, Chân Nguyên, Liễu Quán, Hương Hải
Đệ Tam Tổ Trúc Lâm cũng là một vị Sư đặc biệt. Ngài tên thật là Lý Đạo Tái, Pháp hiệu là Huyền Quang. Lúc nhỏ Ngài theo Nho học, thi đỗ đến Tiến sĩ và sau một thời gian làm quan, lại từ bỏ chốn quan trường mà học Phật.
Khi Ngài còn là một Nho sinh, hàn vi, thiếu thốn, nhưng có ai ngó ngàng gì đến đâu. Mãi đến khi đỗ Trạng Nguyên, ngày vinh quy bái Tổ, thì cả nghìn mối tơ duyên không biết từ đâu mà xuất hiện, nay mối nầy, mai mối khác. Bữa nay người đẹp nầy được giới thiệu, mai mỹ nữ kia đến diện kiến, thưa trình v.v… rồi Ngài thấy không vui ở chốn quan trường. Đó chỉ là chỗ “tranh bá đồ vương” nên đã khoác áo nhà tu và sau nầy được Pháp Loa truyền tâm ấn, trở thành Đệ Tam Tổ của môn phong nầy. Cho nên người đời thuở ấy đã có hai câu thơ để diễn tả tâm trạng của những người đỗ đạt:
“Khó khăn thì chẳng ai nhìn
Đến khi đỗ Trạng tám nghìn nhân duyên”
Ở Việt Nam vào giữa thế kỷ thứ 20 và đầu thế kỷ thứ 21 nầy, Thiền sư Thanh Từ, vốn xuất thân từ Phật Học Đường Lưỡng Xuyên, học trò của Cố Hòa Thượng Thiện Hoa, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất từ năm 1966 đến năm 1973. Ngài Thiện Hoa là Đệ tử của Cố Hòa Thượng Thích Khánh Anh, chuyên tu về Pháp môn Tịnh Độ và xuất thân từ môn phái Chúc Thánh ở Quảng Ngãi, sau truyền vào Trà Ôn, nhưng đến đời Ngài Thanh Từ thì Ngài chọn Thiền Trúc Lâm Yên Tử để nối dòng Thiền nầy. Trên thực tế dòng Thiền nầy đến đời Ngài Hương Hải, thời Trịnh Nguyễn phân tranh không còn tồn tại nữa. Vì lẽ Thiền Tông nầy đa phần dành cho người có tư duy cao và những bậc vua chúa quan lại, nên khó phổ cập vào quần chúng, do đó đã thất truyền. Bây giờ Hòa Thượng Thanh Từ khôi phục lại cũng là điều quý hiếm, nhưng nếu đứng về dòng kệ Lâm Tế Chúc Thánh thì Ngài sẽ có pháp danh là chữ Thị đứng đầu và nối dòng pháp đời thứ 42 từ Ngài Lâm Tế Nghĩa Huyền và Đệ tử của Ngài lẽ ra phải cho Pháp danh là chữ Đồng để đến Pháp tự sẽ đặt là Thông, thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh truyền thừa đời thứ 43. Trong tương lai nếu Ngài viên tịch thì thuộc dòng thứ mấy của Yên Tử? Vì lẽ trong hiện tại Ngài xây dựng rất nhiều chùa Trúc Lâm tại Đà Lạt, Yên Tử và một số chùa thuộc miền Bắc Việt Nam. Điều ấy hẳn tốt, nhưng chúng ta cần nên phân định lại xuất xứ của mỗi vị đệ tử ngày sau dễ truy tầm.
Trong cuốn “Lịch sử Phật giáo Đàng Ngoài” (xuất bản năm 1995 của tác giả Nguyễn Hiền Đức nhận định rằng: “Trúc Lâm muốn rằng Vua Anh Tông và các đại thần trong triều đình phải chánh thức tôn kính Pháp Loa như bậc Thầy, giống như tôn kính Trúc Lâm vậy. Ngoài ra, Trúc Lâm cũng muốn cho biết rằng: Từ Vua, triều thần cho đến tất cả chư Tăng Ni, Phật tử cả nước phải công nhận Pháp Loa là vị Tổ thứ hai, thay thế cho Trúc Lâm lãnh đạo Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất từ thời Trần, tức lãnh đạo phái Thiền Trúc Lâm do Trúc Lâm Đầu Đà khai sáng”. Còn sách Trần Nhân Tông toàn tập xuất bản năm 2006 của Giáo sư Tiến sĩ Trí Siêu Lê Mạnh Thát còn có nhận xét rằng việc ban tặng “Ngoại thư kinh sử” cho Pháp Loa chứng tỏ Điều Ngự yêu cầu Đệ tử phải biết kết hợp lý tưởng Bồ Tát của Phật pháp với lý tưởng trượng phu của thế gian. Thật ra cả 2 nhận xét của hai sử gia Phật giáo nầy không sai. Tuy nhiên theo tôi, cái uy quyền tinh thần sẵn có nơi Điều Ngự trao thẳng cho một người có năng lực nội tại như Pháp Loa là điều phải thể hiện nơi chốn công cộng có cả bá quan văn võ triều thần cũng như Phật tử như thế, để chứng tỏ uy đức của một bậc quân vương và cái nhiệm mầu của lẽ đạo để mọi người khi tiếp nhận một giáo chỉ nào từ Pháp Loa sau nầy sẽ không cần phải phân vân gì cả.
Tháng 12 năm 1308, Điều Ngự Trần Nhân Tông viên tịch trên đỉnh Ngọa Vân của Yên Tử sơn. Về ngày mất của Điều Ngự, sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép rằng Ngài thị tịch vào ngày 3 tháng 11 năm Mậu Thân (nhằm ngày 16.12.1308); trong khi Thánh Đăng ngữ lục viết là ngày 1 tháng 11 âm lịch (tức ngày 14 tháng 12). Trong Thánh Đăng ngữ lục đã tường thuật về cuộc đối thoại cuối cùng giữa Điều Ngự với Thị giả Bảo Sát như sau:
“Ngày mồng 1 tháng 11, nửa đêm sao trời sáng tỏ, Điều Ngự hỏi: Hiện giờ là giờ gì?
Bảo Sát thưa: Giờ Tý
Điều Ngự đưa tay mở cánh cửa sổ nhìn ra bảo: Chính là giờ ta đi!
Bảo Sát hỏi: Tôn Đức đi đâu?
Điều Ngự đáp:
Tất cả pháp chẳng sanh
Tất cả pháp chẳng diệt
Nếu hay hiểu như thế
Chư Phật thường hiện tiền
Nào có đến đi gì?
Bảo Sát thưa:
- Chỉ như khi chẳng sanh chẳng diệt thì như thế nào?
Điều Ngự liền vả vào miệng Bảo Sát, bảo:
- Chớ nói mớ!
Nói xong Ngài nằm theo thế sư tử lặng lẽ mà tịch.
Qua đêm thứ hai, Bảo Sát vâng theo lời di chúc, làm lễ hỏa táng ngay nơi am Ngài ở, có mùi hương lạ xông lên thoảng ra xa, nhạc trời trên không, mây năm sắc che trên giàn hỏa.
Ngày xưa khi Đức Phật còn tại thế, một hôm Ngài Asista (A Thuyết Thị) chậm rãi đi khất thực trong thành. Lúc ấy Ngài Xá Lợi Phất còn tu theo ngoại đạo, thấy vị Thầy nầy sao mà an nhiên tự tại quá, nên mới cất tiếng hỏi rằng:
-Thầy tu theo pháp môn gì? Và Thầy của Ngài là ai vậy?
-Thầy ta là Đức Cồ Đàm Gautama, đã chứng thành Phật quả, hiệu là Phật Thích Ca, dòng dõi Vua Tịnh Phạn ở núi Ca Tỳ La Vệ và Thầy ta đã dạy cho ta pháp duyên sanh.
-Thế nào là duyên sanh?
- Nghĩa là:
“Tất cả các pháp đều do nhân duyên sanh
Tất cả các pháp đều do nhân duyên diệt
Tự tánh của các pháp vốn là không”.
Sau khi nghe xong 3 câu kệ nầy, Ngài Xá Lợi Phất đã nhập vào quả Dự Lưu, một trong 4 Thánh Quả và tiếp tục hỏi pháp Ngài A Thuyết Thị, nhưng Ngài A Thuyết Thị viện dẫn pháp học của mình còn kém nên khuyên Ngài Xá Lợi Phất trực tiếp đến gặp Đức Phật để thưa trình. Sau nầy Ngài Xá Lợi Phất đến trước Đức Phật xin quy y không phải duy nhất chỉ một mình, mà còn cả Ngài Mục Kiền Liên và mấy trăm Đệ tử của họ nữa.
Thuyết Duyên Sanh chỉ do Đức Phật lặp lại lời chư Phật dạy trong quá khứ, chứ không phải của Ngài lập nên. Đó là: Cái nầy sanh nên cái khác sanh. Cái nầy diệt nên cái khác diệt. Nếu cái nầy không có thì cái kia sẽ không có và tự tánh của Vạn Pháp là không sanh, không diệt, không còn, không mất, không đến, không đi v.v… Bây giờ sau mấy ngàn năm thì Điều Ngự Giác Hoàng cũng chỉ nói ngần ấy việc, chứ chẳng nói gì khác. Pháp ấy là tất cả mọi hiện tượng, kể cả có hình và không hình tướng. Tất cả những pháp ấy thật ra chúng không đến, không đi, không còn, không mất. Sở dĩ đến, đi, còn, mất là do con người chứ không phải do Pháp. Ví dụ như người ngồi trong phòng đi ra bên ngoài phải qua một cánh cửa thì bảo rằng: Đi ra và ngược lại một người từ ngoài đi vô bên trong thì gọi là đi vào. Vào, ra là hai động tác khác nhau, nhưng cánh cửa là một vật, một pháp, nó bị động, nó không vào mà cũng chẳng ra gì cả. Nếu có, chẳng qua là do sự chấp trước của con người, chứ tự thể của nó không có. Vì tự thể của mỗi pháp vốn là không, nhưng nhờ duyên nên nó thành tựu và nhờ duyên nên chúng tan hợp, đến đi. Nếu ai đó trụ vào chỗ tan, hợp, đến, đi đó, nghĩa là người ấy chưa liễu đạo. Cho đến khi nào sự đến đi kia chỉ là một trò lừa bịp của nhãn quan của tâm thức mà người hành đạo nhận thấy được qua tánh của mình, thì lúc ấy gọi là liễu đạo hay đạt đạo.
Phật thì luôn hiện hữu, còn chúng sanh thì hay thay đổi. Lúc làm người, lúc làm thú, lúc làm chư Thiên, chư tiên, lúc ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh… thường là vô định và không tự làm chủ mình. Khi ở cảnh giới nào thì nhìn Phật theo cái thị giác của cảnh giới ấy. Còn Phật thì tuyệt nhiên không thay đổi: Không đến, không đi, không còn, không mất, không tăng, không giảm, không một mà chẳng phải khác một. Như vậy thì chỉ chỗ chẳng sanh, chẳng diệt mà làm gì? Điều Ngự giờ cuối trong đời mà còn tỉnh táo lấy tay vả vào miệng Thị giả Bảo Sát và bảo là đừng mớ ngủ. Vậy thì kẻ chưa hiểu đạo, có mắt cũng như mờ. Kẻ đã liễu đạo rồi thì dù ở cảnh giới nào cũng thấy mình luôn được an tịnh giải thoát. Do vậy giữa chứng đạo và chưa chứng đạo, nó khác nhau là như thế.
Ngày thứ tư Tôn giả Phổ Tuệ (Pháp Loa) từ núi Yên Tử vội vã đến, dùng nước thơm rưới lên giàn hỏa làm lễ. Xong, Pháp Loa thu lấy ngọc xá lợi, được xá lợi năm màu hơn 500 hạt lớn, còn hạt nhỏ cỡ hạt lúa, hạt cải thì nhiều vô số kể. Vua Anh Tông, Quốc Phụ Thượng Tể cùng đình thần đem thuyền rồng đến lễ bái dưới chân núi, gào khóc vang trời, sau đó đón ngọc cốt và xá lợi xuống thuyền rồng đưa về kinh. Từ triều đình đến thôn quê đều rất mực thương tiếc.
Bên trên chúng ta cũng đã rõ, khi Bảo Sát vâng mệnh làm lễ hỏa táng ngay nơi am Ngài ở thì có mùi hương lạ xông lên, lại thoảng bay ra xa và nhạc trời trên không chúc tụng, mây năm sắc che trên giàn hỏa. Đây là những điềm lành của những người khi sinh ra cũng như lúc mất đi. Nhớ lại khi xưa mới sinh ra, Ông nội Thái Tông và Phụ hoàng Thánh Tông nhìn thân hình ông sáng sủa mà đặt cho tên là Kim Tiên Đồng Tử, nay khi mất đi lại được nhạc trời chúc tụng và mây 5 màu vần vũ bay che trên hư không cũng như mùi thơm thoảng bay ra từ nơi giàn hỏa, sau khi thiêu xong lại có vô số xá lợi nữa. Việc nầy ngày xưa Thế Tôn đã từng có và hiện tượng ấy đã được nhắc nhở lại trong sách vở rất nhiều là xá lợi có nhiều loại và nhiều màu sắc khác nhau.
Loại lớn hơn đầu đũa, loại trung bình như hạt gạo và loại nhỏ nhất như hạt mè. Xá Lợi của Đức Phật một phần tự di chuyển về lăng cung, một phần các Vua Trời đến xin mang về và phần còn lại chia ra làm 8 phần để vua các xứ trong Ấn Độ mang về nơi của mình thờ phụng và cung chiêm Xá Lợi. Đây là kết quả của sự tu hành trong mấy mươi năm của Đức Phật cũng như của các Đệ tử của Ngài. Ngày nay Vua Nhân Tông tức Điều Ngự Giác Hoàng, đã lìa ngôi báu đi xuất gia sau hai trận chiến thắng Nguyên Mông vào năm 1285 và 1288 và chính thức tu học từ năm 1296 đến năm 1308. Trong 12 năm đó nhà Vua quyết tâm đoạn tận những thứ như không chấp thủ, không chấp ái và không chấp ngã, nên Niết Bàn an lạc đã đến với Ngài; khi chết lại còn lưu xá lợi và người đời sau muốn tôn vinh Ngài nên gọi là Phật Hoàng Trần Nhân Tông cũng không sai lời dạy của Đức Phật. Bởi lẽ sau 45 năm thuyết pháp độ sanh, Đức Thích Ca Mâu Ni đã dạy cho tất cả chúng sanh phương pháp tu học để thành Phật và thành Tổ, nên Phật và Tổ hiện thân bằng nhiều hình thức khác nhau, xuất hiện trong cõi Ta Bà nầy cũng như những cõi khác.
Xá Lợi của Điều Ngự được Anh Tông chia ra làm ba phần: Một phần được tôn thờ trong Bảo tháp Huệ Quang (Yên Tử), ngày nay nếu ai lên Yên Tử Sơn vẫn còn cơ hội để đảnh lễ mộ tháp của Đức Điều Ngự; một phần được chôn cất chung với lăng tẩm của Thái Tông và Thánh Tông ở Quy Đức (Phủ Long Hưng), và phần còn lại được lưu giữ tại Chùa Phổ Minh (Thiên Trường), nơi mà các Thái Thượng Hoàng hay lui về ở đó sau khi truyền ngôi cho con mình. Chùa Phổ Minh hay tháp Phổ Minh bây giờ vẫn còn, mặc dù không được tốt đẹp như xưa, vì ít người chăm sóc, nhưng tất cả cũng đều đã trải qua một thời kỳ vàng son rực rỡ của một đấng Quân vương như thế. Trên đây là 3 nơi mà lúc sinh thời Đức Điều Ngự đã từng gắn bó, lưu dấu.
Vua Anh Tông, còn cho đắp hai pho tượng Điều Ngự bằng vàng để thờ ở chùa Vân Yên (Yên Tử) và chùa Báo Ân (Siêu Loại). Vàng tượng trưng cho vật quý giá, hiếm có, bền vững qua năm tháng và thời gian. Thân Phật cũng phát ra 2 lần hào quang trong sáng là sau khi thành đạo dưới cội Bồ Đề ở thành Gaya và lúc Đức Phật nhập Niết Bàn, nên từ xưa đến nay chúng ta đi đến bất cứ chùa nào thuộc các nước Phật giáo trên thế giới đều thờ hình tượng của Ngài có màu vàng hay bằng vàng thật, để nói lên sự tôn kính của các Đệ tử đời sau đối với giáo pháp của Ngài như vậy. Ở đây Anh Tông vì là vua, đồng thời là con ruột, lấy của kho xuất ra mấy ngàn lượng vàng đúc 2 tượng của Giác Hoàng để thờ ở hai chùa nói bên trên cũng không sai tinh thần Bồ Tát hạnh của Anh Tông đã thọ Bồ Tát giới vào năm 1304 là mấy. Triều đình dâng Điều Ngự miếu hiệu là Nhân Tông và Thụy hiệu là Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hóa Dân Long Từ Hiển Hiệu Thánh Văn Thần Võ Nguyên Minh Duệ Hiếu Hoàng Đế. Bây giờ chúng ta thử tìm hiểu từng bốn chữ một của Thụy hiệu bằng Hán văn nầy để tỏ tường hơn về một bậc minh quân, hiền đức như vậy.
Pháp Thiên Sùng Đạo có nghĩa là giáo pháp ấy, cao tận thiên cung cũng được sùng bái đạo mầu kia; Ứng Thế Hóa Dân là một bậc quân vương ra đời, xuất hiện nơi cõi phàm trần nầy để hóa độ nhân dân khắp nơi trong thiên hạ; Long Từ Hiển Hiệu có nghĩa là lòng từ bi cao cả thịnh hưng được biểu hiện ra ở mọi chốn và mọi nơi. Hãy nhớ lại việc vua đem ngự bào của mình đắp lên thể xác của Toa Đô thì đủ rõ; Thánh Văn Thần Võ là văn chương chữ nghĩa của Ngài như bậc Thánh và võ nghệ của Ngài giống như một vị Thần. Điều nầy cũng phải thôi. Vì lẽ hai trận đánh thắng quân Nguyên Mông cũng đã nói lên được thần trí và mưu lược của Ngài như thế nào rồi; Nguyên Minh Duệ Hiếu là vị vua đó sáng suốt, hiền từ, hiếu thuận; Hoàng Đế là ngôi vị của một đấng quân vương. Đây có thể là do Pháp Loa truy phong lẫn triều đình bá quan văn võ hội ý, nên mới có được một Thụy hiệu mang đầy đủ ý nghĩa của việc nhập thế cũng như xuất thế của Đức Điều Ngự Giác Hoàng như vậy.
Thông thường các bậc Chơn Tăng ra đi không ghi lại dấu vết, nên người đời sau muốn truy tìm những vết tích ấy phải dựa vào những hành tung và tác phẩm của người xưa để lại. Từ đó mới cảm nhận được tấm lòng của một kẻ đã xuất hiện nơi đời. Huống gì ở đây Vua Trần Nhân Tông xuất hiện tại Đại Việt vào một thời điểm không thiếu những Tiến Sĩ văn học và những nhà tướng đại tài, nên vua tôi đã nhiều lần có cơ hội đàm đạo văn chương chữ nghĩa với nhau, nhờ vậy mà người đời sau đã viết thành những tác phẩm nhằm tưởng niệm một bậc Thầy vĩ đại đã ra đi. Có những sách tự mình viết, mà cũng có những sách vở do người đời sau sưu tầm, nghiên cứu và ghi lại. Trong đó có:
-Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục (Ngữ lục về trùng độc thiết chủy trong rừng Thiền). Đây có thể là những câu nói của các Thiền sư Trung Hoa hay Việt Nam trước thời của Nhân Tông, mà cũng có thể là những lời dạy của chính ông khi thuyết pháp hay dạy chúng, nên gọi là ngữ lục.
-Tăng Già Toái Sự (chuyện vụn vặt của Sư Tăng). Những chuyện ấy là những chuyện gì? Chắc chắn không đi ra ngoài 250 giới như: Bốn tội Ba La Di, 13 tội tăng tàng, 2 pháp bất định, 30 tội xả đọa, 90 tội đọa, 4 pháp hướng bỉ hối, 100 pháp chúng học và 7 pháp diệt tránh. Thời của Vua Thái Tông hay Thánh Tông cũng phải căn cứ vào những giới luật của Phật chế cho người xuất gia mà tu hành, nhưng trong đó có một số giới thuộc phần oai nghi như 100 pháp chúng học hay 30 xả đọa nói về y áo v.v… thì quê hương Đại Việt chúng ta theo Phật giáo Đại Thừa nên cũng có những giới luật không phù hợp với chư Tăng chăng? Hoặc giả những chuyện bình thường khi sinh sống trong chùa như hái rau, gánh nước, bửa củi v.v… cũng là những toái sự?
- Thạch Thất Mị Ngữ (Lời nói mê trong nhà đá). Thông thường những vị Sư tu Thiền lâu năm muốn mình nhập thất nơi hang động để thiền tọa. Có thể là 10 ngày, 20 ngày hay một tháng, nhẫn đến một năm, hai năm, ba năm v.v… và trong khi thiền tọa như thế những lời nói phát xuất lúc hôn trầm, tâm không định tĩnh, nên gọi là mị ngữ.
- Đại Hương Hải Ấn Thi Tập (Tập thơ ấn chứng của biển lớn nước thơm). Đây là sự tập hợp lại những bài thơ của Điều Ngự lúc đi vân du nơi Chiêm Thành hay khi ở trên Yên Tử hoặc Thiên Trường. Sau nầy các Đệ tử gom lại để xuất bản, nhằm ghi lại những văn bản của Thầy mình. Thơ thời nầy đa phần làm theo lối 8 câu, mỗi câu 7 chữ hay 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Người đời thường gọi là thơ Đường. Vì những âm, vận ấy phải theo niêm luật hẳn hoi của 2 câu đề, 2 câu thực, 2 câu luận và 2 câu kết. Luật thơ rất gò bó, nhưng ý thơ rất dồi dào.
- Trần Nhân Tông thi tập (Tập thơ Trần Nhân Tông). Trong nầy chắc chắn là những bài thơ được làm khi Nhân Tông còn là Thái tử, hay khi chiến thắng quân Nguyên Mông, hoặc lúc ngao du sơn thủy khi chưa đi xuất gia đầu Phật.
- Trung Hưng Thực Lục (2 quyển). Chép việc chống quân Nguyên xâm lược. Sau lần đầu thắng trận vào năm 1285, Trần Nhân Tông và quan quân thứ dân đều vui mừng khôn xiết, chính ông đã đặt bút ghi lại những sự kiện của chiến trường, nơi ông thân chinh cầm quân hay lúc thua trận chạy tơi tả để trốn mặt quân thù. Tiếp đến năm 1288 một lần nữa ông và quân Đại Việt đại thắng quân Nguyên Mông tại sông Bạch Đằng sau thời gian Hội Nghị Diên Hồng là “nên Hòa hay nên Chiến”. Cuối cùng mọi người đều thừa thắng xông lên qua sự điều binh khiển tướng của tướng tài Trần Hưng Đạo và Trần Quốc Tung (Tuệ Trung Thượng Sĩ). Chính hai Vua Thánh Tông và Nhân Tông đã chứng kiến cảnh Toa Đô bị giết, các tướng sĩ quy hàng và cả 50.000 quân Nguyên đều bị bắt sống. Có lẽ vua cũng đã ghi lại những việc truy phong cho những khai quốc công thần và có lẽ ông cũng đã thuật lại hình ảnh của những người làm tôi mọi cho giặc và bây giờ kẻ được thăng quan và người bị giáng chức, bị đày đi rừng thiêng nước độc hay vào tù ra khám nơi chốn biên thùy.
Nhưng rất tiếc là tất cả những tác phẩm trên đều thất lạc. Lý do vì sao cũng dễ hiểu thôi. Vì lẽ khi quân nhà Minh sang xâm chiếm nước Đại Việt chúng ta vào đầu thế kỷ thứ 15 họ đem tất cả những sách vở có được trong thời Lý, thời Trần trong suốt 400 năm lịch sử ấy về tận Kim Lăng bên Trung Quốc để thiêu rụi. Vì họ không muốn thấy những thành tích vẻ vang của vua tôi Nhà Lý phá Tống bình Chiêm hay vua tôi Nhà Trần đại thắng quân Nguyên Mông đến 3 lần vào những năm 1258, 1285 và 1288, nên những gì được ghi lại bằng chữ viết đều bị đốt hết. Do vậy mà ngày nay chúng ta chỉ còn lại những tên gọi qua khẩu truyền trong dân gian về những tác phẩm ấy mà thôi. Đây thật là một điều trớ trêu của lịch sử. Không phải chỉ riêng Đại Việt của chúng ta thuở ấy, mà hầu như tất cả những nước nào bị thua trận hay bị làm thuộc địa của một nước lớn, thì việc xâm thực văn hóa bản địa là nhiệm vụ của những người đi chiếm lãnh lúc bây giờ. Ngày nay chỉ còn sót lại 32 bài thơ, kệ chép trong Thánh Đăng Ngữ Lục, Thiền Tông bản hạnh, An Nam chí lược, Nam Ông mộng lục, Việt âm thi tập và Toàn Việt thi lục, cộng thêm 3 đoạn phiến trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư và An Nam chí lược. Theo đánh giá trong Thơ văn Lý Trần (tập 2 quyển thượng) do Nguyễn Huệ Chi và Trần Thị Băng Thanh, Đỗ Văn Hỷ và Trần Tú Châu biên soạn, thì thơ Trần Nhân Tông mang tính chất “kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm quan triết học và cảm quan thế sự, có tinh thần lạc quan, yêu đời, tấm lòng vị tha của một nhân cách cỡ lớn và sự rung động tinh tế, lòng yêu tự do thích thanh thản của một nhà nghệ sĩ”. Sự nhận xét như vậy cũng không sai chút nào khi chúng ta điểm qua 3 bài thơ tiêu biểu dưới đây. Một bài tả về phong cảnh của một sáng sớm mùa Xuân, một bài thơ tả phủ Thiên Trường và một bài phú về Cư Trần Lạc Đạo.
Xuân Hiểu
Thụy khởi khải song phi
Bất tri Xuân dĩ quy
Nhất song bạch hồ điệp
Phách phách sấn hoa phi.
Buổi sớm mùa Xuân
Ngủ dậy ngỏ song mây
Xuân về vẫn chửa hay
Song song đôi bướm trắng
Phất phới sấn hoa bay.
(Bản dịch của Ngô Tất Tố)
Thức dậy vào một buổi sáng, mở khung cửa sổ, nhìn thấy bướm lượn vờn hoa… Những hình ảnh ấy báo hiệu sự hiện hữu của mùa Xuân, nhưng tự bao giờ tác giả đã chẳng hay. Phải chăng tác giả đã có sự an lạc bình yên nội tại, nên quên đi tất cả những cảnh vật chung quanh mình, dù cho đó là mùa Xuân, một trong những mùa đẹp nhất của đất trời. Nhưng nếu tư duy sâu sắc hơn cho bài thơ của một vị chân tu, có lẽ chúng ta sẽ thấy hình ảnh mở cửa, nhận biết mùa Xuân đến, đôi bướm phơi phới bay, tìm đến đóa hoa, dường như có hàm ý diễn đạt về hành trình của một đời tu qua các từ “mở cửa”, “nhận biết”, “bay tìm” “đóa hoa”. Hoa chính là tâm phật.
Đến bài thứ hai thuộc loại tả chân về sự vật, loại Đường thi thất ngôn, bát cú như sau:
Thiên Trường Phủ
Lục ám hồng hi bội tịch liêu
Tể vân thôn vũ thổ hoa tiêu.
Trai đường giảng hậu Tăng quy viện,
Giang quán canh sơ nguyệt thượng kiều.
Tam thập thiên cung hoành dạ tháp,
Bát thiên hương sát động xuân triều.
Phổ Minh phong cảnh hồn như tạc,
Phảng phất canh tường nhập mộng Nghiêu.
Phủ Thiên Trường
Lục rậm, hồng thưa cảnh quạnh hiu,
Mây quang, mưa tạnh đất tan rêu.
Phòng trai gián đoạn, Sư về viện,
Cầu bến canh đầu, bóng nguyệt treo.
Ba chục cung tiên, giường ngủ đặt,
Tám nghìn bóng tháp, nước triều reo.
Phổ Minh phong cảnh, chùa như cũ,
Trong giấc mơ màng Thuấn thấy Nghiêu.
(Bản dịch của Ngô Tất Tố)
Dịch giả vừa giỏi Hán văn, vừa giỏi cách gieo vận của thơ Đường và giỏi về tứ thơ cả Đời lẫn Đạo. Đây cũng xứng là một bậc Thi Sư trong văn học Việt Nam của chúng ta. Bài thơ nầy có lẽ Nhân Tông làm khi đã xuất gia và không còn ở Phủ Thiên Trường như lúc mới lên làm Thái Thượng Hoàng. Bây giờ trở lại chốn xưa thì thấy cảnh trí đìu hiu, cỏ cây hoa lá, người, vật v.v… đều thay đổi quá nhiều, khiến cho Điều Ngự phải giật mình và sau đó tĩnh tọa làm một bài thơ đầy ý vị như vậy. Kể từ thời Thái Tông, rồi Thánh Tông và ngay cả Nhân Tông, nơi Phủ Thiên Trường nầy là chốn ẩn cư của bậc Thái Thượng Hoàng sau khi nhường ngôi cho Thái tử và sau nầy Anh Tông cũng dùng nơi đây để điều hành việc nước sau khi đã thành Thái Thượng Hoàng.
Lục rậm có thể là cây lục, mà cũng có thể là màu xanh của cây cỏ mọc chung quanh Phủ Thiên Trường bây giờ không còn như xưa nữa, ngay cả những cây hồng ngày xưa khi Thượng Hoàng còn cư ngụ nơi đây đã cho ra nhiều quả rất ngon ngọt, nhưng bây giờ trông lại chỉ thấy lác đác còn lại mấy cây. Ngay như cây cỏ vô tình mà chúng cũng cảm nhận được cái cảnh chia ly khi vắng chủ như vậy. Mây bay lảng đảng trên trời cao, nhưng cũng có lúc tạo thành mưa, làm cho đất thấm ướt và rong rêu cũng phải bị tan vỡ theo. Những gian phòng dùng để nấu nướng, ăn uống bây giờ không còn ai ở đây nữa, tất cả trống vắng hoang sơ, bởi vì các Sư và ngay cả Nhân Tông cũng đã về núi Yên Tử rồi, nên nhìn đâu cũng chỉ thấy cảnh vắng lặng. Những tháp canh chung quanh Phủ Thiên Trường vào những lúc canh một, canh hai cho đến canh năm của mỗi ngày do người giữ cửa trông coi, bây giờ cũng chỉ thấy ánh trăng dọi vào nơi đó một cách lạnh lẽo hoang vu, chứ bóng người thì không còn nữa. Ngày còn làm Thái Thượng Hoàng, Vua Trần Nhân Tông khi ở Phủ Thiên Trường nầy có đến 30 cung phi mỹ nữ, Hoàng hậu theo hầu, mà nay nơi giường ngủ ấy vắng tanh không một bóng người. Đúng là thời oanh liệt nay còn đâu! Tám nghìn bóng tháp là ý nói cho số nhiều chùa viện nằm cạnh Phủ Thiên Trường, cũng như chùa Phổ Minh, vì lẽ nơi nào có vua chúa ngự thì những cung bậc khác cũng sẽ được phụ họa theo bên cạnh. Bây giờ Đức Vua không còn ngự ở đây nữa nên chùa miếu, phong cảnh đâu đây cũng chỉ giống như nước thủy triều mỗi ngày lên xuống hai lần mà thôi. Chùa Phổ Minh, ngày xưa là chỗ để cho Thái Thượng Hoàng, Thái Hậu và cung tần mỹ nữ đi lễ Phật nguyện cầu vào những ngày sóc, vọng; ngày nay phong cảnh tuy không thay đổi mấy, nhưng sự trang nghiêm tráng lệ không còn như ngày xưa cũ nữa. Khi thăm chùa Phổ Minh và Phủ Thiên Trường về lại núi Yên Tử, Điều Ngự Giác Hoàng thấy tâm mình rỗng rang, nhẹ nhõm an lành, như sống trong đời thanh bình thịnh trị của Vua Nghiêu, Vua Thuấn thời xa xưa bên Trung Quốc vậy.
Bài thứ 3 là một bài thơ tiêu biểu cho tâm hạnh thoát tục của Điều Ngự Giác Hoàng như sau:
Cư Trần Lạc Đạo Phú
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.
Bài phú về Cư Trần Lạc Đạo
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói cứ ăn đi, mệt ngủ liền.
Có báu trong nhà thôi tìm kiếm,
Vô tâm đối cảnh hỏi chi Thiền.
(Lê Mạnh Thát dịch)
Đây có lẽ là bài phú, bài thơ liễu đạo hay nhất trong thơ văn của Trần Nhân Tông. Bởi vì khi còn làm vua, ông nhìn sự vật khác, khi đánh giặc tâm ông thay đổi theo thế trận, lòng dân. Khi thắng trận Nguyên Mông tâm ông thấy hưng phấn, khi về làm Thái Thượng Hoàng tâm ông lại cũng có sự đổi thay, mãi cho đến khi ông xuất gia rồi thì ông mới rõ hai chữ Sắc Không, nên không bận lòng chi với những đổi thay, thay đổi của cuộc đời.
Do vậy việc an bần lạc đạo phải tùy theo nhân duyên và hoàn cảnh chung quanh mình, người xuất gia phải dùng cái tâm không đối đãi để ngắm nhìn sự vật, nên gọi là tùy duyên. Việc tốt đến mình cũng không vui, việc xấu qua mình cũng chẳng buồn, vì lẽ buồn vui chỉ là những hiện tượng chứ không phải là bản chất chơn thật của sự việc. Tâm mình phải làm chủ mình, chính mình phải làm chủ ngoại cảnh chứ không phải ngoại cảnh làm chủ mình. Làm việc cần làm, làm đúng lúc và không trái với qui luật tự nhiên, cũng giống như chuyện khi đói thì cứ ăn, khi mệt thì đi ngủ. Người tu Phật phải biết rằng: Ai ai cũng có Phật trong nội tâm mình. Nếu rõ biết bên trong, thì bên ngoài tự nhiên mình sẽ rõ. Không nên lo chạy vạy tìm cầu sự giác ngộ bên ngoài, trong khi đó tự sâu thẳm của tâm hồn mình đang có một Đức Phật ngự trị mà không nhận ra. Đây mới chính là điều đáng nói và đáng trách. Thiền có nghĩa là như như bất động. Tâm ấy đối trước cảnh, dầu cho thế nào đi chăng nữa thì ta và người, tâm và vật không hai. Nó không trong mà cũng chẳng bên ngoài. Đến đây thì tâm ta thư thái, tự do tự tại phiêu bồng nơi cảnh giới sắc không nầy và đạt đến chỗ vô ngã chân thật của Niết Bàn vắng lặng.
Qua bài phú Cư Trần Lạc Đạo nầy ta thấy Đức Điều Ngự đã vẹn đường tu, chứng thành Thánh quả không còn vướng bận bất cứ một sự trói buộc nào trên con đường tìm sự giác ngộ giải thoát của Ngài. Và với tâm rỗng không ấy, Ngài đã trao truyền cho Pháp Loa làm Đệ nhị Tổ của Trúc Lâm, từ đó Thiền phái nầy phát triển mãi cho đến thế kỷ thứ 16, 17. Nay ở thế kỷ thứ 20, 21 nầy Hòa Thượng Thích Thanh Từ đã xiển dương lại Thiền Phái nầy tại Việt Nam cũng như hải ngoại và mong rằng với tâm nguyện nầy Ngài sẽ được thành tựu, và một lần nữa ngọn lửa tam muội của Điều Ngự Giác Hoàng sẽ được cháy sáng khắp nơi nơi.
Chương V
TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ
Ông sinh năm 1230 và viên tịch năm 1291. Tên thật là Trần Tung hay Trần Quốc Tung, là một thành viên trong Hoàng tộc Nhà Trần với tước hiệu là Hưng Ninh Vương và là một Thiền sư Việt Nam. Ông là người hướng dẫn Vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập ra Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử.
Ông là người Tức Mặc, phủ Thiên Trường, nay thuộc tỉnh Nam Định. Ông là con trưởng của An Sinh Vương Trần Liễu, anh ruột của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và Hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm húy Thiều, vợ của Vua Trần Thánh Tông. Nhìn lại Tộc Phả của họ Trần thì ta thấy Trần Thừa tuy không làm vua, nhưng sau khi con là Trần Cảnh lên làm vua (Trần Thái Tông) đã phong cho ông là Thái Tổ, ông có được 2 người con trai, đó là Trần Liễu và Trần Cảnh.
Trần Liễu là anh và nhánh của ông sau nầy chỉ sinh ra những tướng tài như Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn hay Hoàng hậu như Thiên Cảm (vợ của vua Thánh Tông). Đến đời cháu nội của Trần Liễu (con của Hưng Đạo Vương) thì có đến 4 tướng tài. Đó là Hưng Vũ Vương Quốc Nghiễn sau khi đánh thắng quân Nguyên Mông hai lần vào năm 1285 và 1288 được Vua Trần Nhân Tông phong đến chức Khai Quốc Công Thần; rồi Hưng Hiển Vương Quốc Uy; Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng và Hưng Trí Vương Quốc Hiện. Cũng có một Hoàng hậu, đó là Khâm Từ Hoàng hậu (vợ Vua Trần Nhân Tông.)
Còn bên phía Trần Cảnh thì làm vua suốt cả nhiều đời trong triều đại Nhà Trần. Từ Trần Thái Tông, đến Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông v.v… nhưng có một điểm đặc biệt trong Triều Trần là anh em nhà Chú lấy anh em nhà Bác hay ngược lại. Nếu đánh giá về huyết thống và gia phong thì nó quá gần gũi, đôi khi trở thành “loạn luân” với nhau, mà chuyện nầy không phải là không có, sau nầy có cảnh em ruột thông dâm với chị mình theo lời khuyên của một lão phù thủy. Việc nầy thực khó chấp nhận trên hành vi đạo đức, nhưng nếu đứng về phương diện luân hồi nhân quả thì có thể hiểu được. Trần Thánh Tông lấy Thiên Cảm làm vợ, tức là con nhà Chú lấy con nhà Bác và sinh ra Trần Nhân Tông. Còn Tuệ Trung Thượng Sĩ là anh ruột của Hưng Đạo Vương, Vũ Thành Vương Doãn và Thiên Cảm Hoàng hậu, như vậy Thánh Tông phải gọi Tuệ Trung Thượng Sĩ là Sư huynh và Nhân Tông phải gọi Tuệ Trung là Cậu. Cậu cháu chắc chắn gặp nhau rất thường nơi cung nội cũng như những nơi tiêu dao ở Thượng Uyển. Có lẽ vì vậy mà Tuệ Trung có nhiều cơ hội để nói cho cháu mình nghe về đạo lý của nhà Phật. Từ đó Nhân Tông mới thấm nhuần giáo lý nầy. Vậy thì vai trò của ông cũng rất quan trọng, nhưng trong lịch sử nước nhà ít được nhắc đến, nếu có chăng chỉ đề cập Trần Quốc Tung anh ruột Trần Hưng Đạo. Thêm nữa, trong 2 lần chiến thắng quân Nguyên Mông năm 1285 và 1288 đều có sự góp sức của ông, nhưng lịch sử cũng thờ ơ không ít. Ở đây người biên tập bộ “Tiểu thuyết phóng tác về lịch sử cuối Lý đầu Trần” nầy muốn trả lại những giá trị lịch sử đích thực cho những người làm nên lịch sử về lại với chỗ đứng của họ trong lòng dân tộc Việt, nên chỉ ghi thêm đậm nét đặc biệt của những vị vua, quan, tướng, Hoàng hậu, Công chúa dưới thời Lý cũng như Trần để sau nầy nếu ai đó đọc đến lịch sử Việt Nam thì có thể hiểu rõ ràng cho một thời đại như thế. Nếu không có những bậc nhân tài hiền đức như vậy xuất thân, thì Việt Nam chúng ta sẽ xoay qua một hướng khác, có thể không độc lập tự chủ được một thời gian dài trong 400 năm như thế đâu.
Trong cuộc kháng chiến quân Nam Tống vào năm 1258 Tuệ Trung Thượng Sĩ đã 28 tuổi (ông sinh năm 1230), nhưng không thấy sử sách ghi công trạng của ông và ông đã làm gì trong thời gian nầy, đến năm 1285 và 1288 trong hai lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông nầy ông đều trực tiếp tham gia. Sử chép rằng ngày 10 tháng 6 năm 1285 ông cùng với Hưng Đạo Vương đem hơn 20.000 quân giao chiến với tướng nhà Nguyên là Lưu Thế Anh và đuổi Thoát Hoan chạy dài đến sông Như Nguyệt (sông Cầu) và trong cuộc kháng chiến lần thứ 3 năm 1288, ông còn được giao những nhiệm vụ ngoại giao quan trọng, từng đến đồn trại đối phương vờ ước hẹn trá hàng, làm cho họ mất cảnh giác, sau đó cho quân đến đánh phá.
Chỉ xem một đoạn sử ngắn như bên trên chúng ta cũng thấy vị trí của Tuệ Trung Thượng Sĩ là gì. Ông đã cùng Trần Hưng Đạo, tức là em ruột của mình chiến đấu với tướng của nhà Nguyên và đuổi Thoát Hoan thua chạy đến sông Như Nguyệt. Với 20.000 quân tinh nhuệ dưới sự cầm đầu của ông và Trần Hưng Đạo, các tướng sĩ của Nguyên và ngay cả Thoát Hoan cũng phải liều mình chạy trối chết, thì thử hỏi ông không phải là một người cầm quân đại tài sao? Nhưng tại sao sử sách ta chỉ thấy nhắc nhở đến Trần Hưng Đạo mà ít đề cập đến ông? Có lẽ vì ông đã đi xuất gia đầu Phật. Khi thấy quê hương đất nước lầm than chinh chiến bởi quân Nguyên Mông, ông đã cởi bỏ áo cà sa lại chùa, sát cánh cùng em mình chống giặc mãnh liệt, khiến cho Thoát Hoan phải chạy trối chết. Sau khi chiến trận thành công, ông cũng chẳng màng lợi danh gì cả nên không cần cháu mình là Nhân Tông phong vương hay phong tướng. Vả lại những chức vụ ấy chỉ là hư danh nơi chốn triều đình, chứ có ý nghĩa gì đâu so với một bậc xuất trần làm Thượng Sĩ !!!
Đến lần thứ 3 năm 1288 thì ông lại được giao cho việc ngoại giao, có nhiệm vụ đến đồn trại của đối phương vờ ước hẹn trá hàng, làm cho họ mất cảnh giác và sau đó cho quân đến đánh phá. Như vậy lúc nầy ông mặc đồ tu hay đồ trận? Trong luật Phật chế thì “người xuất gia không được ở lại nơi quân trận quá 3 đêm”, có lẽ nơi đó là chốn đấu tranh kiên cố, thưởng phạt kẻ có công cũng như người có tội, cho nên Phật không cho phép người xuất gia hiện diện. Nhưng ở đây Tuệ Trung Thượng Sĩ cùng với Nhân Tông hay Hưng Đạo Vương vốn là người nhà, mà đất nước đang lâm nguy thì người trong một nhà không thể làm ngơ ngồi đó mà tu hành được, nên ông phải phương tiện giúp đời dưới hình thức là một tướng sĩ, nhưng với tâm thức và hành động của một nhà tu, lời nói dịu dàng, văn chương bút đàm linh hoạt, đượm vẻ từ bi, trí tuệ nên quân giặc tin chăng? Và cuối cùng ở những buổi bút đàm ấy làm cho quân giặc mất cảnh giác và họ đã bị thua qua tài trí, mưu lược của một Tuệ Trung Thượng Sĩ. Nếu ông không phải là một người tài thì chắc rằng ông không được tin dùng, để làm một gạch nối giữa đôi bên như vậy.
Sau khi kháng chiến tuy ông cũng được phong cho chức Tiết Độ Sứ cai quản phủ Thái Bình, nhưng không lâu sau ông lại lui về ấp Tịnh Bang (nay là huyện Vĩnh Bảo), ngoại thành Hải Phòng) lập Dũng Chân Trang để nuôi dưỡng nghiệp Thiền. Như vậy cả hai bên chính quyền của Vua Trần Nhân Tông vẫn không quên công cán của ông, nhưng với ông việc được phong chức tước Tiết Độ Sứ ấy nó khôngcần thiết, nên ông về lại Tịnh Bang để an dưỡng nơi Dưỡng Chân Trang để tìm lại chính mình. Đây là hành động thật cao cả của những bậc Chân Tăng xưa nay trong thiên hạ vậy. Không nhất thiết chỉ là Việt Nam mới có những bậc Cao Tăng, thạc đức, hữu học như vậy, mà đa phần những vị vua hay tướng của Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, Mông Cổ, Thái Lan, Miến Điện v.v…đều làm như vậy cả. Vì vinh hoa phú quý đối với họ giờ đây không có ý nghĩa gì. Suốt một cuộc đời làm vua, làm tướng hay công hầu nơi chốn triều ca, cuối cùng rồi cũng chỉ là một bã hư danh rỗng tuếch và tất cả đều bị luật vô thường chi phối. Họ đã hiểu được điều nầy, nên mới xử sự như vậy.
Năm 1291, Tuệ Trung Thượng Sĩ viên tịch, thọ 69 tuổi và suốt một cuộc đời dài hơn 60 năm ấy, lịch sử cho ta thấy ngay khi ông còn trẻ, ông cũng không thích công danh, có lẽ do ông sinh ra trong một gia đình có quá nhiều nghịch cảnh về vấn đề hôn nhân cận huyết giữa bên nội lẫn bên ngoại nên ông chẳng tha thiết gì với đời sống gia đình, ông đã tìm đến Thiền sư Tiêu Dao để học đạo rất sớm. Ông vừa học Thiền, thực hành giải thoát tâm trong đời sống gia đình theo hình thức cư sĩ, vừa đảm trách các công việc xã hội mà triều đình giao phó. Ông đã trực tiếp tham dự vào những thời khắc quyết định của lịch sử về vận mệnh đất nước, do đó ông đã nhận định rất rõ về chân tính cuộc đời và chọn lối sống hòa ái, tự tại. Tư tưởng chính của Tuệ Trung Thượng Sĩ thể hiện qua lời đáp: “Hãy quay về tự thân mà tìm lấy tông chỉ ấy, không thể đạt được từ ai khác” cho câu hỏi của Vua Trần Nhân Tông: “Tông chỉ của Thiền là gì?”
Ông được Vua Trần Thánh Tông nể vì, do kiến thức uyên bác về nội ngoại điển, được Vua tôn làm Đạo huynh. Ông sáng tác nhiều thi, kệ, một số được kết tập trong “Thượng Sĩ Ngữ Lục” rất nổi tiếng.
Hiện thơ ông còn tất cả 49 bài, được xếp trong bộ Thượng Sĩ Ngữ Lục và ở đây xin trích dẫn 4 bài để nắm bắt được phần nào tư tưởng của ông.
Dưỡng Chân
Suy táp hình hài khởi túc vân,
Phi quan lão hạc tị kê quần,
Thiên thanh vạn thúy mê hươngquốc,
Hải giác thiên đầu thị dưỡng chân.
Nuôi dưỡng chân tính
Thân xác đau gầy há đáng than,
Phải đâu hạc cả lánh gà đàn,
Nghìn xanh muôn thúy mờ non nước,
Góc biển lưng trời, nơi dưỡng chân.
Sau khi đọc 4 câu thơ nầy ta thấy ý tứ của Thượng Sĩ rất thoát tục, dầu cho có ở góc biển hay chân trời nào đi chăng nữa thì non xanh nước biếc, vốn là chốn bồng lai tiên cảnh, đâu phải nệ hà gì là chỗ nọ, chỗ kia. Cho nên đừng phân biệt bỉ thử nữa làm gì cho hao gầy thân xác. Hãy quán cảnh ấy và thân nầy là một, vì Phật tánh không ngoài chân tâm mà có, chân tâm ấy không thể tìm cầu bên ngoài được, mà mỗi người hãy tự trở về bởi chính mình thì mới nên.
Giản đề tùng
Tối ái thanh tùng chủng kỷ niên,
Hưu ta địa thế sở cư thiên,
Đống lương vị dụng nhân hưu quái,
Dã thảo nhàn hoa mãn mục tiền.
Cây tùng ở đáy khe
Thương cội tùng xanh tuổi bấy niên
Đừng than thế mọc lệch cùng xiên
Cột rường chưa dụng người thôi lạ,
Cỏ dại hoa hèn trước mắt chen.
Bài nầy tả cảnh một cây tùng bị mọc chen vào giữa một khe đá. Ý nói như ông, sinh ra trong đời nầy chung quanh bị vây hãm bởi thị phi nhân nghĩa, nhưng tâm ông không ganh ghét với người tài giỏi hay kẻ kém hèn hơn ông, mà ông quan niệm rằng nếu cây tùng ấy chửa làm được gì thì cũng miễn cho đi. Dẫu sao đi nữa ở trước đám cỏ dại và hoa hèn, thì tùng cũng đang ngẩng cao mặt lên với trời đất để vươn thẳng cành lá vào không trung đấy!
Chiếu thân
Tiêu đầu lạn ngạch bị kim bào,
Ngũ thất niên gian thị xưởng tào,
Túng dã siêu quần kiềm bạt tụy
Nhất hồi phóng hạ nhất hồi cao.
Soi mình
Sém đầu giập trán vận kim bào,
Ta bấy năm nay chốn xưởng tào,
Hễ đã hơn người và vượt bậc
Vẻ vang rồi lại đến lao đao.
Sau khi chiến thắng quân Nguyên Mông hai lần vào năm 1285 và 1288 với em ruột mình là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, ông đã được chú (cậu) mình là Vua Trần Thánh Tông cùng cháu mình là Trần Nhân Tông phong cho ông làm Tiết Độ Sứ cai quản phủ Thái Bình, nhưng ông nhận thấy áo mão cân đai của quan lại sao nó không phù hợp với mình, nên ông hay tự xét mình qua hình ảnh của một ông quan trước vua chúa và triều thần bá quan văn võ phải tung hô vạn tuế và giập trán, cúi đầu dạ dạ vâng vâng. Bao nhiêu năm như thế ở chốn công đường, thấy xảy ra nhan nhản không biết bao nhiêu là chuyện ganh tị, đố kỵ lẫn nhau. Nếu ai đó giỏi giang hơn người khác và trội lên về những phương diện chuyên môn của văn hay võ thì việc ấy vẫn bị gièm pha dị nghị như thường. Đúng là vẻ vang đó, nhưng lao đao lận đận ở chốn quan trường cũng đó.
Cố Hòa Thượng Thượng Thủ Thích Tâm Châu cũng đã dịch nhiều bài thơ chữ Hán của Tuệ Trung Thượng Sĩ khi Ngài còn sanh tiền và sau đây là bài “Xuất trần”, cũng nói lên được cái ý thoát tục của Tuệ Trung Thượng Sĩ vậy.
Xuất trần
Tằng vi vật dục dịch lao khu,
Bài lạc trần hiêu thế ngoại du.
Tán thủ nó biên siêu Phật Tổ.
Nhất hồi đẩu tẩu, nhất hồi hưu.
Ra khỏi cảnh trần
Tấm thân vật dục cuốn lôi,
Xa rời trần cảnh, rong chơi cõi ngoài.
Bên kia Phật Tổ thảnh thơi,
Một thời gột rửa, một thời an vui.
Cái đạo làm người nó quá gian nan đi chứ! Vì lẽ con người luôn bị vật dục như: Tài, sắc, danh, thực, thùy cuốn trôi, làm cho thân thể phải mệt nhọc. Muốn ra khỏi chốn trần lao não phiền ấy để rong chơi bên ngoài thị phi, nhơn nghĩa thì phải buông bỏ cảnh huyên náo của trần tình. Buông bỏ hết để vượt qua cảnh giới của chư Phật, sau khi đã gột rửa được hết tất cả những não phiền, thì đó mới là sự an lạc miên viễn. Chỉ có nội tâm phong phú, an lạc tự tại thì ta mới mong cảm hóa được người bên cạnh, nếu không phải là vậy, tất cả đều chỉ là sự thể của thế gian mà thôi.
Ông là con nhà quan, nhà tướng, hoàng tộc, sĩ phu và là người tiêu dao tự tại nơi cửa thiền nên khi ông còn sống cũng có nhiều giai thoại rất thiền, rất đặc biệt như sau:
Một hôm Hoàng Thái Hậu Thiên Cảm mở tiệc trong cung điện. Trên bàn có cả thức ăn mặn và thức ăn chay. Tuệ Trung Thượng Sĩ gắp thức ăn không phân biệt chay hay mặn.
Hoàng Thái Hậu hỏi: “Anh tu Thiền mà ăn thịt cá thì làm sao thành Phật được?”.
Ông cười đáp: “Phật là Phật, anh là anh. Anh không cần thành Phật. Phật cũng không cần thành anh. Em không nghe các bậc cổ đức nói: Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát đó sao?”.
Đúng là câu nói của những Thiền sư đã đạt đạo. Chỉ những người liễu đạt được tánh không thì mới trả lời được như vậy. Cái không ấy vượt lên trên tất cả cái có và cái không; nghĩa là Thiền sư khi làm động tác ấy không trụ vào có mà cũng không trụ vào không, mà ông trụ vào chỗ vô trụ; nghĩa là làm cũng như không làm, không làm nhưng mà làm. Đó là bản chất của Thiền, là sự tiêu dao tự tại của những Thiền sư lâu nay vốn vẫn là như vậy. Trong bữa tiệc nầy có cả Vua Trần Nhân Tông, Vua rất thắc mắc về việc nầy và chưa hiểu rõ ý nghĩa câu trả lời của Tuệ Trung Thượng Sĩ, nhưng chưa tiện hỏi. Vua Trần Nhân Tông gọi Tuệ Trung Thượng Sĩ là cậu. Khi ông đến với triều đình trong bữa tiệc nầy với tư cách là một Thiền sư, vì ông đã học Thiền với Thiền sư Tiêu Dao rồi. Do vậy mà Trần Nhân Tông lưu ý đến câu nói cũng như hành động của ông qua sự tra hỏi của Hoàng Thái Hậu Thiên Cảm, mẹ của ông đối với cậu ruột của mình. Câu “Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát”. Có nghĩa là sự giải thoát nầy nó không liên quan gì tới Văn Thù hết. Ăn là ăn, tu là tu, Thiền là Thiền… mỗi cái đều độc lập với nhau, không xen lẫn vào nhau. Đây cũng là tư tưởng của Vua Trần Nhân Tông sau nầy khi đã trở thành Điều Ngự Giác Hoàng của Phái Trúc Lâm Yên Tử:
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói cứ ăn đi mệt ngủ liền
Có báu trong nhà thôi tìm kiếm
Vô tâm đối cảnh hỏi chi Thiền.
Thiền nầy là Thiền tự tại. Ví như đói thì cứ ăn, mệt thì cứ nghỉ. Khi đói không nên tìm cách cưỡng lại cái đói và khi mệt thì không cần phải cố gắng gì hơn nữa cả. Trong tâm hiện đã có Phật tánh sẵn rồi, khi đối cảnh thì tâm ấy đã là tâm Phật rồi, không cần phải tìm kiếm đâu xa xôi gì nữa cả.
Có nhiều sử gia vẫn lầm tưởng ông là Trần Quốc Tảng, cũng không phải là Trần Quốc Tuấn, mà ông là Trần Quốc Tung, anh ruột của Trần Quốc Tuấn, tức là Hưng Đạo Vương. Có lẽ lâu nay sách sử ít đề cập về cuộc đời của ông một cách chi tiết, nên mới như vậy. Trong thời gian gần đây các Sử gia Phật giáo như Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Học giả Thích Tuệ Sỹ, Giáo sư Trí Siêu Lê Mạnh Thát và nhất là Thiền sư Thích Thanh Từ đã chú giải những bài thơ và viết nên lịch sử của Tuệ Trung Thượng Sĩ một cách rõ ràng, nên nhiều người mới quan tâm đến. Là Phật tử, là người Việt Nam, chúng ta không thể quên công ơn to lớn của ông đã cùng Trần Hưng Đạo đánh thắng quân Nguyên Mông, nên ngày nay chúng ta mới có cơ hội tồn tại trên dải đất hình cong như chữ S này.
Ngoài ra những ai nhận phái Trúc Lâm Yên Tử làm tông phái của mình để tu hành thì không thể không biết đến Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ, vốn là Thầy của Vua Trần Nhân Tông, người sáng lập ra Thiền phái nầy. Sự truyền thừa của Trúc Lâm Tam Tổ rất rõ ràng. Đó là Điều Ngự Giác Hoàng, Pháp Loa và Huyền Quang, nhưng nếu không nhờ hình bóng của Tuệ Trung Thượng Sĩ ở chốn triều đình, thì làm sao ai có thể ảnh hưởng đến Vua Trần Nhân Tông được? Do vậy chúng ta cũng có thể kết luận rằng: Tuệ Trung Thượng Sĩ chính là người mở đường dẫn lối cho Vua Trần Nhân Tông đi vào cửa Đạo và sau nầy trở thành Sơ Tổ của Phái Trúc Lâm Yên Tử vậy.
Chương VI
HƯNG ĐẠO VƯƠNG
TRẦN QUỐC TUẤN
Trần Thừa sanh ra Trần Liễu và Trần Cảnh. Vì lúc nhỏ Trần Cảnh hay theo cha vào cung, nên Trần Cảnh hay nô đùa chơi giỡn với Lý Chiêu Hoàng. Đây là hình ảnh mà Trần Thủ Độ thấy cũng rất hợp với ý của mình và ông mong rằng tương lai ngôi vị của vua không còn lệ thuộc nơi Nhà Lý nữa, mà phải chuyển sang Nhà Trần, thì Trần Cảnh chính là đích đến mà ông đã nhắm. Ngày lại tháng qua Trần Thủ Độ tạo ra không biết bao nhiêu cơ hội để cho hai đứa trẻ đùa nghịch chơi giỡn với nhau cho đến lúc lên 7 lên 8 tuổi. Thế rồi ông tìm đủ mọi cách cho hai người chơi chung với nhau bằng những trò chơi con nít thân mật hơn và họ phao tin với nhau rằng Trần Cảnh và Lý Chiêu Hoàng đã thành thân với nhau và đây là cái cớ để cho Trần Thủ Độ vịn vào và làm ông mai để dựng nên việc chồng vợ giữa hai triều đại khác nhau. Lý Chiêu Hoàng chỉ làm vua được 2 năm, từ năm 1224 đến 1226, thì bị truất phế và nhường ngôi cho Trần Cảnh. Khi Trần Cảnh lên làm vua, ông ta xưng đế hiệu là Trần Thái Tông, nhưng mọi việc quyền bính trong triều đình đều do một tay của Thái Sư Trần Thủ Độ lo toan cả. Ngày qua ngày nhưng không thấy Chiêu Hoàng sinh con đầu lòng để nối ngôi, nên ông mới lo. Thật sự ra thì Chiêu Hoàng có sinh một đứa con trai đầu lòng với Trần Cảnh, nhưng đứa bé bị chết yểu chứ nếu nói Chiêu Hoàng không có con thì không đúng, sau nầy bà tái giá vẫn sinh cả con trai và con gái như thường. Ngày xưa khi hai vợ chồng không con cái thường thường cái lỗi ấy người vợ phải lãnh đủ, nhưng ngày nay khi khoa học đã tiến bộ thì việc không sinh sản được cũng bị ảnh hưởng bởi người đàn ông nữa.
Thủ Độ thấy không xong, nhân thấy vợ Trần Liễu đang mang thai 3 tháng, nên ông ép Trần Cảnh phải bỏ Lý Chiêu Hoàng để lấy chị dâu của mình, để có người nối dõi Trần triều. Dầu sau nầy Trần Thái Tông đã có Trần Thánh Tông nối ngôi, nhưng cái oan ấy Trần Liễu phải đổ thừa cho ai đây. Cho nên Trần Liễu muốn báo thù và việc nầy phải là trách nhiệm của những người con của mình, đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Quốc Tung, Vũ Thành Vương Doãn, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và Thiên Cảm Hoàng hậu. Đây là 4 người con tuyệt vời của Trần Liễu và ông đã mất năm 1251. Trần Liễu đã lộ ý chí phục thù rõ nét trong việc ông chuẩn bị tương lai cho người con thứ của ông là Trần Quốc Tuấn (1226-1300). Khi Quốc Tuấn mới sinh ra, một Thầy tướng tiên đoán rằng: “Người nầy ngày sau có thể giúp đời”. Đến khi Quốc Tuấn lớn lên, Trần Liễu tìm rước những người tài giỏi về dạy cho Quốc Tuấn. Lúc sắp mất Trần Liễu trối trăn với Quốc Tuấn tâm sự của mình và nói rằng: “Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được”. Trần Quốc Tuấn ghi nhận di huấn của cha, nhưng không có phản ứng cụ thể nào. Vì sao vậy?
Vì nghĩ cho cùng thì có tranh giành ngôi vua của Thánh Tông, cũng là anh em chú bác với mình, điều ấy Trần Quốc Tuấn đâu có muốn. Theo cha của mình trăn trối thì có lẽ Trần Liễu nghĩ rằng ngôi vua của Nhà Trần phải thuộc về Trần Liễu, chứ không thể là Trần Cảnh được. Vì Trần Cảnh không có gì đặc biệt hơn Trần Liễu. Nếu có chăng, chẳng qua là do cơ may Trần Cảnh đã làm thân với Lý Chiêu Hoàng và những cơ mưu của Trần Thủ Độ sắp đặt, chứ thực ra công cán của Nhà Trần đều do phía Trần Liễu chứ không phải bên phía Trần Cảnh. Trần Cảnh chỉ nhờ cái phước đón hờ mà nên danh phận, còn ông mới chính là người có công trong việc an bang tế thế nầy. Nhiều đêm trằn trọc suy nghĩ mãi chẳng biết ra sao.
Năm 1282 Hốt Tất Liệt sai Toa Đô cầm quân theo đường biển xuống đánh Chiêm Thành và dòm ngó Đại Việt. Vua Trần Nhân Tông liền họp các Vương hầu và tướng lãnh ở Bình Than thuộc Chí Linh, Hải Dương để tìm kế chống quân Nguyên. Cuối năm sau (1283) Trần Nhân Tông bổ nhiệm Trần Quốc Tuấn làm Quốc Công, Tiết Chế thống lĩnh chư quân. Năm 1284 Hốt Tất Liệt sai một cánh quân khác do Thái tử là Trấn Nam Vương Thoát Hoan tiến xuống bằng đường bộ, nhắm trực chỉ Đại Việt. Trong khi đó Toa Đô ở phía Nam (Chiêm Thành) đánh bọc lên. Đây là lần thứ hai quân Nguyên sang xâm lăng nước ta (1284-1285). Được tin nầy nhà Vua ra lệnh Trần Quốc Tuấn tổ chức cuộc duyệt binh lớn ở Đông Bộ Đầu (bến Đông Tân sông Hồng ngày nay) chuẩn bị chống xâm lăng.
Nhìn sự phong chức tước của Nhân Tông cho Quốc Tuấn là để an ủi cha vợ và cốt ý làm giảm cái thù nhà để lo việc nước. Khi Hưng Đạo chiến đấu, ông ta sẽ dễ quên đi mối thù bên trong mà cha mình là Trần Liễu đã gởi gắm; nhưng nay thì khó phân bua với ai được, vì em gái mình là Thiên Cảm đã là vợ của Thánh Tông rồi. Bây giờ Nhân Tông con Thánh Tông lại là rễ của mình, làm sao ông trả thù bằng cách nào đây? Thôi để lo trả nợ nước trước đã, sau đó tình nhà mới nghĩ đến, thì có thể yên thân chăng? Lúc đó Trần Quốc Tuấn chẳng những nắm hết binh quyền trong tay mà ông còn ảnh hưởng rất lớn về chính trị, vì ngoài thế lực bản thân của ông, ông còn là anh ruột của Hoàng Thái Hậu và là cha của Hoàng hậu đương triều. Đây chính là cơ hội thuận tiện để Trần Quốc Tuấn thực hành di mệnh của Phụ thân. Di chúc ấy là mối hận thù và hoài bão lớn lao suốt đời của Trần Liễu đã ấp ủ. Bây giờ Trần Quốc Tuấn phải hành xử như thế nào trong hoàn cảnh nầy đây?
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi lại rằng khi quân Nguyên sang xâm chiếm Đại Việt, Trần Quốc Tuấn lúc đó đã nắm hết uy quyền trong tay, đem di mệnh của Phụ thân hỏi hai người gia nô thân tín và trung thành là Yết Kiêu và Dã Tượng. Hai ông vốn xuất thân nghề làm biển, lặn sâu và lâu dưới nước như rái cá mà không biết mệt. Chính hai ông đã lặn xuống nước và đục lủng thuyền của giặc Nguyên Mông trong cả 2 trận chiến khốc liệt vào năm 1258 và 1288. Cả hai ông đều bộc trực, nên đã trả lời Quốc Tuấn rằng: “Nếu thi hành kế ấy, dù có giàu sang được một lúc, mà tiếng xấu để mãi đến ngàn đời. Đại Vương bây giờ chả phải đã giàu sang rồi ư? Chúng tôi tình nguyện chết già làm người nô bộc, mà được như người mổ dê tên Duyệt ở thời Xuân Thu ngày trước, chứ không làm sự bất trung, bất hiếu để cầu may”. Quốc Tuấn nghe những lời nầy cảm động rơi nước mắt.
Người xưa có những tấm gương trung trinh tiết liệt như vậy, nên vua mới nhờ và nước mới thịnh. Nếu ngày nay mà nước nào có được những bậc anh hùng liệt nữ như vậy, thì đất nước sẽ được độc lập tự cường và nở mặt, nở mày với năm châu bốn biển. Người giàu lại muốn giàu thêm, người có quyền lại muốn có quyền thêm, trong khi đó bàn dân thiên hạ lại chịu sự hy sinh to lớn cho đại cuộc nhưng đâu có được bù đắp một việc gì? Cuối cùng rồi cái tham nó cũng sẽ dễ dàng ngự trị, nếu người ấy không biết sự tự chủ của chính mình. Một mặt Hưng Đạo nhớ lời cha dặn năm xưa trước khi nhắm mắt, nhưng mặt khác, khi nghe những người gia nô làm việc trong nhà mình mà còn tâu lên được những lời tâm huyết như vậy, thì ông nỡ lòng nào!
Một lần khác, Trần Quốc Tuấn dò ý con là Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn và hỏi như thế nầy:
“Cổ nhân giàu có cả thiên hạ (ý nói là Vua), để truyền cho con cháu về sau, việc ấy con nghĩ thế nào?”.
Quốc Nghiễn thưa rằng: “Việc ấy đối với người khác họ cũng không nên làm, huống chi là cùng một họ”.
Trần Quốc Tuấn rất bằng lòng, lại cũng dùng câu trên để hỏi người con thứ ba là Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng.
Quốc Tảng hăng hái nói: “Tống Thái Tổ là người làm ruộng, chỉ nhờ gặp được thời vận mà lấy được thiên hạ”.
Trần Quốc Tuấn giận quá, kể tội Quốc Tảng: “Những người bầy tôi phản loạn chính là do những đứa con bất hiếu mà ra”. Ông rút gươm định giết Quốc Tảng, may nhờ Quốc Nghiễn can thiệp, xin tha tội.
Sau khi đại thắng quân Nguyên Mông 2 lần vào cuối thế kỷ thứ 13 Trần Nhân Tông phong cho Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn làm Khai Quốc Công Thần. Qua câu trần tình với thân phụ mình, chứng tỏ Quốc Nghiễn rất chững chạc, vì ông cũng là con trưởng trong 4 người anh em trai và một em gái, nên cách trả lời như thế không làm cho cha giận. Đúng là tư cách của một bậc khai quốc công thần.
Sau khi hai trận đánh kết thúc vua Thánh Tông và vua Nhân Tông đều có thưởng phạt công minh. Phong cho Trần Quốc Tuấn là Hưng Đạo Đại Vương; Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng được phong làm Tiết Độ Sứ. Tư cách làm nên con người chứ không phải sự giàu có hay quan quyền. Nếu Hưng Đạo Vương không nhờ lời khuyên của Yết Kiêu và Dã Tượng cũng như Quốc Nghiễn thì chắc rằng Hưng Đạo sẽ trả thù mối hận của cha mình là Trần Liễu năm xưa dưới một hình thức khác.
Và cũng nhờ lời nói bộc trực của Quốc Tảng, tuy không phải có ý nói cha mình là kẻ vũ phu, nhưng so sánh như vậy khiến cho Hưng Đạo Vương giận dữ. Tuy nhiên cũng nhờ “trung ngôn nghịch nhĩ” như vậy, nên đã khiến mọi mưu toan trong đầu óc của ông cũng dần quên đi, nhất là khi nghĩ lại làm Đại Vương trong quân ngũ, làm anh của Hoàng hậu và làm Quốc Trượng của Hoàng Đế Nhân Tông đương triều thì triều đình có ai hơn được như thế?
Tháng 12 năm 1258, Thái tử nhà Nguyên là Thoát Hoan dẫn quân qua ải Chi Lăng, Lạng Sơn, nhắm Thăng Long trực chỉ. Trần Quốc Tuấn lui về Vạn Kiếp. Vua Trần Nhân Tông được tin nầy, dùng thuyền nhỏ qua Hải Đông (Hải Dương), cho người mời Trần Quốc Tuấn đến bảo: “Thế giặc mạnh như vậy, ta hãy chịu hàng để cứu muôn dân”. Trần Quốc Tuấn khẳng khái trả lời rằng: “Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu thần trước rồi hãy hàng”.
Cả hai câu nói, một của Vua và một của tướng tài. Vua Nhân Tông thể hiện tình thương dân như con ruột của mình, vì nếu có bề nào thì dân chịu khổ trước, Vua Nhân Tông không muốn nhìn thấy cảnh chinh chiến ấy kéo dài, khiến cho mọi người lại bị đói rách lầm than nữa, nên mới thốt ra lời nhân từ nơi cửa miệng của mình như thế. Phàm làm tướng như Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn phải có cái khí phách của bậc anh hùng, những câu trả lời như thế khiến vua an tâm, vì vua nghĩ rằng: Vẫn còn những người trung với vua và hiếu với nước, dân và quân, vua và tôi lâu nay người ta vẫn ví như cá với nước là vậy. Nếu cá mà không có nước thì làm sao cá có thể sống được, còn nước mà không có cá thì sự hiện hữu của nước ấy không mang lại được một ý nghĩa nào cả, nên trong cái nầy phải có sự hiện hữu của cái kia và trong cái kia phải có sự hiện hữu của cái nầy là vậy. Ai hiểu được nguyên tắc nầy, người ấy sẽ tồn tại mãi mãi trên thế gian nầy, dầu người đó ngày sau nầy có đi vào thiên cổ đi chăng nữa.
Quân Nguyên tiến chiếm Thăng Long. Trần Quốc Tuấn rước vua và Thượng hoàng chạy vào Thanh Hóa. Khi đi theo phò tá vua, Trần Quốc Tuấn thường cầm cây gậy bằng gỗ, đầu trượng có cắm mũi sắt nhọn, nên nhiều người liếc mắt trông chừng Trần Quốc Tuấn. Người ta nghi ngờ ông có thể sát hại vua. Ông hiểu ý, bỏ mũi sắt nhọn, chỉ cầm cây trượng gỗ để mọi người yên tâm. Nếu Trần Quốc Tuấn âm mưu lật đổ Nhân Tông và Thượng Hoàng Thánh Tông trong lúc nầy cũng chẳng được mối lợi gì cả, vì giang sơn gấm vóc đang bị vùi sâu vào máu lửa, cùng với những trận đánh dở sống dở chết với quân Nguyên Mông, nên còn lòng dạ nào mà Trần Quốc Tuấn nỡ đang tâm làm việc ấy, để cho thiên hạ ngày sau có thể chê cười.
Cuối cùng sau các chiến thắng lẫy lừng của quan dân Nhà Trần qua sự lãnh đạo của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn ở Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết (cả 3 đều trên sông Hồng, phía nam Thăng Long, Vạn Kiếp (giao lưu với sông Lục Nam và sông Thương) vào giữa năm 1285, Thoát Hoan trốn trong ống đồng, đặt trên xe cho quân sĩ đẩy về Trung Hoa. Vua Trần Nhân Tông cùng Thượng Hoàng Thánh Tông trở về Thăng Long. Nước ta được thái bình trở lại, nhưng chỉ một thời gian ngắn trong 2 năm, sau đó quân Nguyên đã trở lại để xâm lăng Đại Việt.
Thoát Hoan là Thái tử con vua và cũng là một vị tướng, ông thống lĩnh một đội quân tinh nhuệ, mang sang Đại Việt, tiến vào Thăng Long như vào vườn không nhà trống, tưởng là đã thắng trận to, không ngờ đây là kế sách của Nhà Trần. Vua, quan, hoàng hậu, thứ phi đều đi lánh nạn xa, giãn dân ra bên ngoài thành để tránh bớt sự chết chóc và ý chính vẫn là chận đường tiếp tế lương thực bên ngoài vào. Khi bên trong không có gì nuôi quân, thì lính sẽ đói lại thêm phong thổ không hợp, sự đói khát và tật bệnh hoành hành, lúc đó quân dân ta đánh úp vào thành thì đại thắng. Đó là lấy nhu để thắng cương, lấy nhược để thắng cường là vậy… Thoát Hoan lúc mang quân ra đi, chắc hẳn tin rằng lần nầy sẽ thắng, nhưng nào ngờ phải rúc vào ống đồng để cho quân lính đẩy về Tàu, thật là nhục nhã biết bao! Nếu không có Vua Trần Nhân Tông ra lệnh cho Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng không nên đánh tiếp kẻ thua đã bỏ chạy, thì thân phận của Thái tử Thoát Hoan cũng đã bị vùi thây nơi chiến trường Đại Việt rồi.
Năm 1287 là lần thứ 3 quân Nguyên Mông xâm lấn Đại Việt, cùng với quyết tâm trả thù cho 2 lần thất bại trước. Lần nầy quân Nguyên tràn vào Đại Việt bằng cả đường bộ lẫn đường biển. Trên bộ, quân Nguyên chia làm hai cánh, Thoát Hoan tiến qua ải Nam Quan. Còn Áo Lỗ từ Vân Nam theo đường sông Hồng tiến xuống. Trên biển, bằng đường sông Bạch Đằng, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp đi trước và Trương Văn Hổ tải lương đi sau.
Thoát Hoan chiếm Vạn Kiếp, tấn công Thăng Long. Vua Nhân Tông và Thượng Hoàng Thánh Tông chạy vào Nam. Quân Nguyên đóng ở Thăng Long lâu ngày thiếu lương thực. Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi trở ra biển đón đoàn thuyền lương thực của Trương Văn Hổ. Khi qua cửa Vân Đồn, Ô Mã Nhi thắng, quân của Trần Khánh Dư để cho Ô Mã Nhi đi qua và chận đánh tan tành đoàn thuyền tải lương của Hổ. Đây là lối đánh nhử địch, vờ thua, đôi khi lại trá hàng, nhưng là mưu lược của những kẻ cầm binh khiển tướng. Kế sách nầy chắc chắn từ Hưng Đạo Vương ban ra, nên quan quân mới thần phục và thực hành theo những hiệu lịnh đã bàn tính trước như vậy.
Lâu ngày hết lương, Thoát Hoan phải lui binh. Ô Mã Nhi dẫn thủy quân trở ra biển, bị chận đánh ở sông Bạch Đằng. Còn Thoát Hoan theo đường bộ trở về Tàu, bị phục kích chận đánh ở Lạng Sơn. Quân Nguyên thua to, Thoát Hoan một lần nữa bỏ trốn về Trung Hoa. Đất nước chúng ta lại thanh bình nhờ quân dân hết lòng đoàn kết chiến đấu chống ngoại xâm dưới sự lãnh đạo của các vua đầu đời Nhà Trần, với sự giúp đỡ đắc lực của danh tướng Trần Hưng Đạo.
Khi giặc Nguyên Mông vào xâm chiếm nước ta lần thứ 3, Thượng Hoàng Thánh Tông và Vua Trần Nhân Tông đã triệu tập các bô lão ở điện Diên Hồng trong cung vua để hỏi ý kiến là: “Nên hòa hay nên chiến?”. Lâu nay các bô lão đa phần là nông dân sống với ruộng đồng làm ăn lam lũ. Nay lại được Thượng Hoàng và đương kim Hoàng Đế mời vào cung vua để hỏi, nên các bô lão đồng thanh là “đánh”, đánh cho đến cuối cùng. Đây là một thế tâm lý chiến, mà vua quan Nhà Trần đã lấy được nơi lòng dân. Cho nên người xưa thường nói rằng: “Có được lòng dân là có tất cả”. Nếu vua, tướng “hô” mà dân quân không “ứng” thì chắc rằng cuộc tranh đấu chống ngoại xâm ấy khó mang lại thắng lợi về phần mình. Vả lại mới chiến đấu thành công sau hai năm, bao nhiêu nhân lực và vật lực đã hao mòn, nay lại còn tả xung hữu đột nữa thì làm sao mà dân quân chịu đựng cho nổi, nên tinh thần Hội Nghị Diên Hồng có tính cách dân chủ ấy đã quyết định tánh thành công về phía của chúng ta. Tuy là các bô lão không xông pha nơi trận mạc, nhưng tinh thần của các bô lão đã động viên con cháu mình hy sinh để giữ gìn Quốc Tổ. Đây là điều mà những bậc trưởng thượng đã thề nguyền với vua là “đánh” thì phàm làm con, làm cháu sao có thể cam tâm chịu nhục nhã, thấp hèn khi phải hàng giặc sao? Do đó già trẻ, lớn bé, nam phụ lão ấu đều tham gia đánh giặc sau Hội Nghị Diên Hồng nầy. Cho nên lịch sử Việt Nam gọi đây là cuộc Hội Nghị lịch sử cũng không sai chút nào.
Sau hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông thành công, triều đình xét định công trạng. Năm 1289 Vua Trần Nhân Tông (trị vì 1279-1293) gia phong Trần Quốc Tuấn làm Đại Vương. Cuối cùng khi hết làm quan dưới triều Trần Anh Tông (trị vì 1293-1314), Trần Quốc Tuấn lui về trí sĩ ở Vạn Kiếp. Như vậy ông làm quan và làm tướng chỉ huy cho cả 4 đời vua Nhà Trần. Đó là Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Trần Anh Tông. Khi quân Nguyên Mông xâm chiếm Đại Việt từ năm 1257 Vua Thái Tông đã hạ mệnh lệnh sai ông đem quân đi trấn giữ biên thùy phía Bắc rồi. Trong cả 4 triều đại nầy ông đã hiểu rõ thế giặc và lòng người, nên ông là một vị tướng nổi bật nhất ở trong triều đình cũng như trước ba quân tướng sĩ.
Thông thường người xưa theo Nho học thì có 2 lối xử sự với đời. Đó là xuất và xử.
Xuất có nghĩa là ra làm quan sau khi đã học hành thi cử đỗ đạt ở chốn học đường. Sau một thời gian làm quan có thể là 5, 10, 15 năm hay cho đến trọn đời vẫn giúp vua giữ nước, nếu trường hợp quê hương có giặc ngoại xâm như Hưng Đạo Vương, nhưng cũng có nhiều trường hợp “từ quan” khi thấy chốn kinh thành vua, tôi vô đạo v.v…. Trong chốn Hoàng triều cũng vậy, đôi khi cũng có nhưng vị vua sau một thời gian ngự trị đã rời bỏ ngai vàng theo quyết định của mình chứ không vì sự cưỡng bức. Trong triều Trần ta thấy các vua thường nhường ngôi cho con mình lúc còn trẻ, tuổi đời chưa đến 50 để lên làm Thái Thượng Hoàng. Có lẽ như thế vua sẽ an tâm hơn, khi các thái tử nhiếp chính thì mình có cơ hội để trao truyền những kinh nghiệm của mình với vai trò là Thái Thượng Hoàng thì dễ dàng hơn. Thế nhưng cũng có những ông vua không ham danh lợi quyền quý khi đã giành được chiến thắng về mình như Vua Trần Nhân Tông sau khi hai lần đại thắng quân Nguyên Mông vào năm 1285 và 1288; đến năm 1293 ông đã nhường ngôi cho con mình là Trần Anh Tông để lên ngôi Thái Thượng Hoàng và năm 1296 ông đã chính thức xuất gia đầu Phật. Trong lịch sử Phật giáo Thế giới không thiếu những ông vua như vậy như ở Ấn Độ, Bhutan, Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật Bản đã làm. Đây là những hình ảnh rất đẹp một cách tiêu biểu về đạo đức của con người, mà người đời sau nên nhìn ra để học hỏi những bài học trong kinh nghiệm sống của một đời người.
Còn xử chính là việc xử thế ở đời, làm sao cho chính danh là một quân tử trong trời đất. Là một kẻ sĩ, một đấng quân vương hay một kẻ hàn Nho cũng không thể lãng quên trách nhiệm nầy.
Tại Vạn Kiếp, sau cuộc kháng chiến chống quân Nguyên thành công, Vua Trần Nhân Tông ra lệnh xây dựng Sanh từ cho Trần Quốc Tuấn, tức là đền thờ của ông trong khi ông còn sống. Khi soạn bài văn bia đặt tại Sanh từ của Trần Quốc Tuấn, Thượng Hoàng Trần Thánh Tông (cha của Nhân Tông) đã kính cẩn gọi Trần Quốc Tuấn là “Thượng Phụ”. Trong lịch sử Việt Nam, Trần Quốc Tuấn là người duy nhất được vua tôn vinh là “Thượng Phụ” (Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, bản dịch của nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, tập II, Hà Nội 1998, trang 80).
Thật ra việc nầy cũng không khó hiểu mấy. Sau đây là những lý do chính.
Đầu tiên là việc đại thắng quân Nguyên Mông, cả 3 lần đều có sự cầm quân chống giặc của Trần Quốc Tuấn. Đứng về phương diện quốc gia, sơn hà xã tắc thì không ai có công hơn ông được, nên lập đền thờ để tôn phong ông lúc còn sống cũng là chuyện bình thường mà Vua nào cũng phải làm như thế thôi.
Lý do thứ hai, đứng về phía tình nhà thì Trần Thánh Tông kêu Trần Quốc Tuấn là anh con nhà bác mà vừa cũng là anh vợ của mình, vì Thánh Tông lấy Thiên Cảm là em gái của Trần Quốc Tuấn về làm Hoàng hậu. Nhân Tông là con của Thánh Tông và Thiên Cảm nên phải kêu Quốc Tuấn là bác nếu đứng về phía cha, kêu bằng cậu nếu đứng về phía bên mẹ, và Nhân Tông lại lấy Khâm Từ con gái của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn làm vợ, nên Nhân Tông phải gọi Trần Quốc Tuấn là cha vợ.
Vậy thì chữ “Thượng Phụ” mà cả Thái Thượng Hoàng Thánh Tông lẫn Hoàng Đế đương triều Nhân Tông phong cho ông cũng là điều bình thường thôi và biết đâu cả Thượng Hoàng và Hoàng Đế đương triều biết được thù xưa của Quốc Tuấn muốn trả cho cha mình là Trần Liễu, nên phong cho một hàm “Đại Vương” và một hàm “Thượng Phụ” to tát như vậy ngõ hầu làm cho Hưng Đạo Đại Vương vui lòng để mà còn lo cho chuyện sơn hà xã tắc chăng?
Trần Quốc Tuấn rất quý trọng nhân tài. Ông đã tiến cử nhiều người tài ba để phụng sự đất nước như: Phạm Ngũ Lão, Trần Trì Kích, Trương Hán Siêu, Yết Kiêu, Dã Tượng v.v… Bên cạnh cách dùng người trong nghệ thuật chỉ huy, Trần Quốc Tuấn còn có biệt tài về dụng binh, tự mình soạn bộ “Binh gia diệu lý yếu lược” là 4 quyển sách nói về lý thuyết mầu nhiệm và phương lược cốt yếu của nhà binh, để dạy cho tướng sĩ, ông viết bài “Hịch tướng sĩ văn”, lời văn rất hùng tráng để kích thích lòng quân. Ngoài ra Trần Quốc Tuấn còn soạn bộ binh thư “Vạn Kiếp tông bí truyền” nay đã bị thất lạc. Ông là một nhà tướng văn võ toàn tài.
Dưới đây là hai bản dịch Hịch Tướng Sĩ (Dụ chư tỳ tướng hịch văn) của Trần Hưng Đạo do Ngô Tất Tố dịch trong “Việt Nam Văn Học: Văn Học đời Trần”. Nhà xuất bản Đại Nam, Sài Gòn 1960.
Ta thường nghe: Kỷ Tín lấy thân chết thay, cứu thoát được vua Cao Đế; Do Vu chìa lưng chịu giáo che chở được vua Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than để trả thù cho Thầy; Thân Khoái chặt tay để gánh nạn cho nước; Uất Trì Cung một viên tướng nhỏ còn biết che đỡ Đường chủ ra khỏi vòng vây của Thế Sung; Nhan Cảo Khanh là bầy tôi xa còn biết mắng chửi Lộc Sơn, không nghe lời dụ của nghịch tặc. Từ xưa những bậc trung thần nghĩa sĩ lấy thân theo nước, đời nào là không có đâu? Nếu mấy người kia, chăm chăm học thói nhút nhát của con gái trẻ con, chẳng qua cũng đến chết rũ ở dưới cửa sổ, đâu được ghi tên vào trong thẻ tre lụa trắng, danh tiếng cùng trời đất cùng lâu bền?
Các người đời đời là con nhà võ, không biết chữ nghĩa, nghe những chuyện ấy, thảy đều nửa tin nửa ngờ. Thôi thì những việc cổ xưa, hãy để đó không nói đến nữa. Nay ta hãy đem chuyện nước Tống, dòng Thát (là chuyện gần đây) kể cho các người cùng nghe: Vương Công Kiên là người gì? Nguyễn Văn Lập tùy tướng của y lại là người gì, chỉ có vòng thành Điếu Ngư nhỏ bằng cái đấu, hai người ấy chống nổi toán quân trăm vạn của Mông-Kha, khiến cho con dân nước Tống, đến nay hãy còn nhớ ơn. Đường Ngột Ngại là người gì? Xích Tu Tư tùy tướng của y lại là người gì? Xông pha lam chướng trên đường muôn dặm, hai người ấy đánh được quân Nam Chiếu trong vài tuần, khiến cho vua chúa dòng Thát nay còn để tiếng!
Huống chi ta với các ngươi, sinh ở buổi rối ren, lớn lên nhằm khi khó nhọc, chính mắt ngó thấy sứ ngụy đi lại, đường sá nghẽn ngang, chúng múa cái lưỡi cú quạ làm nhục chốn triều đình, chúng giơ cái thân chó dê, kiêu ngạo với quan Tể phụ; chúng nhờ mệnh lệnh của chúa Mông Cổ, mà đòi nào ngọc, nào lụa, sự vòi vĩnh thật vô cùng; chúng mượn danh hiệu của vua Vân Nam mà hạch nào bạc nào vàng, của kho đụn đã hồ hết, cung đốn cho chúng giống như đem thịt mà liệng cho cọp đói, sao cho khỏi lo về sau?
Ta thường thì tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xẻ thịt lột da, nuốt gan, uống máu của quân thù. Dẫu cho một trăm cái thân của ta phải phơi ngoài nội cỏ, một nghìn cái xác của ta phải đem bọc vào da ngựa, ta cũng vui lòng. Các ngươi lâu nay ở dưới cửa ta cầm giữ binh quyền, thiếu áo thì cởi áo cho, thiếu ăn thì sẻ cơm no cho lòng, quan nhỏ thì cho lên chức, bổng ít cho thêm lương, đi thủy cấp thuyền, đi bộ cấp ngựa, những khi trận mạc, sự sống thác Thầy chung với trò, những lúc mừng khao, tiếng vui cười ai cũng như nấy. So với Công Kiên làm chức Thiên Lý, Ngột Ngại ở ngôi Phó nhị, có khác gì đâu.
Thế mà các ngươi thấy chủ bị nhục chẳng lấy làm lo, gặp nước bị dơ chẳng lấy làm thẹn, làm tướng nhà nước phải hầu mấy đứa chum mường, mà không có lòng căm hờn, nghe khúc nhạc thờ đem thết một tên ngụy sứ, mà không có vẻ tức giận; kẻ thì chọi gà cho thích, kẻ thì đánh bạc mua vui, có người chỉ chăm vườn ruộng, cốt nuôi được nhà, có người chỉ mến vợ con, lấy mình làm trọng, cũng có kẻ chỉ lo làm giàu làm có, việc quân quốc chẳng thèm đoái hoài, cũng có người chỉ ham về săn bắn mà quên việc binh, hoặc là đam mùi rượu, hoặc là mê tiếng hát hay.
Một khi giặc Mông đến nơi, thì cựa con gà nòi không thể đâm thủng áo giáp của giặc, thuật ở bàn bạc không thể đem làm mưu mẹo ở trong quân; vườn ruộng tuy giàu, tấm thân ấy nghìn vàng khôn chuộc; vợ con tuy sẵn, trong đám ba quân khó dùng, của cải tuy nhiều, không thể mua được đầu giặc; chó săn tuy khỏe, không thể đuổi được quân thù; rượu ngon không đủ để cho giặc phải mê; hát hay không đủ làm cho giặc phải điếc; lúc đó thầy trò ta sẽ cùng bị trói, đáng đau đớn biết chừng nào! Nếu thế, chẳng những là Thái Ấp của ta không còn, mà bổng lộc của các ngươi cũng bị kẻ khác chiếm mất; chẳng những là gia quyến của ta phải đuổi, mà vợ con của các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc của tổ tông ta sẽ bị giày xéo, mà đến mồ mả của cha mẹ ngươi cũng sẽ bị kẻ khác đào lên, chẳng những thân ta kiếp nầy chịu nhục, mà trăm kiếp khi tiếng nhơ khó rửa, tên xấu vẫn còn mà gia thanh của các ngươi cũng chẳng khỏi mang tiếng là nhà bại tướng. Đã đến khi đó các ngươi muốn chơi bời cho thỏa, được chăng?
Nay ta báo rõ các ngươi: Cái chuyện dấm lửa đống củi phải lo, mà câu sợ canh thổi rau nên nhớ. Các ngươi hãy nên huấn luyện quân sĩ, rèn tập cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, bêu đầu Tất Liệt dưới cửa khuyết, ướp thịt Thoát Hoan trong trại rơm. Như thế chẳng những là Thái Ấp của ta mãi mãi là của gia truyền, mà bổng lộc của các ngươi cũng được suốt đời hưởng thụ; chẳng những gia quyến của ta được yên giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng được sum hợp đến già; chẳng những là tông miếu ta sẽ được muôn đời tế lễ, mà tổ tông các ngươi cũng được thờ cúng quanh năm; chẳng những thân ta kiếp nầy đắc chí, mà đến các người dưới trăm đời nữa tiếng thơm vẫn lưu truyền; chẳng những tên tuổi ta không bị mai một; mà đến tên họ các người cũng để tiếng thơm trong sử xanh. Khi ấy các ngươi không muốn vui chơi, được chăng?
Nay ta lựa chọn binh pháp các nhà, làm một quyển sách, đặt tên là sách “Binh Thư Yếu Lược”. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách ấy, nghe lời dạy bảo của ta, ấy là duyên thầy trò kiếp xưa. Nếu các ngươi bỏ bê sách ấy, trái lời dạy bảo của ta, ấy là mối cựu thù kiếp xưa. Sao vậy? Bởi vì như vậy tức là kẻ thù không đội trời chung, thế mà các ngươi không nghĩ tới, điềm nhiên không lo đến sự rửa thẹn, không tinh; đến việc trừ hung, không nhớ đến chuyện dạy tập quân sĩ. Thế là giơ giáo hàng giặc, nắm tay chống giặc. Rồi đây, sau khi dẹp yên quân giặc, các ngươi sẽ phải thẹn muôn đời, còn mặt mũi nào đứng giữa khoảng trời đất che chở? Ta muốn các ngươi biết rõ bụng ta, nhân viết mấy lời đó làm hịch.
Sau đây là bài dịch “Hịch Tướng Sĩ” của Cử nhân Nguyễn Văn Bình thành lối song thất lục bát, như sau:
Xưa Kỷ Tín liều thân chịu chết,
Cứu Hán Vương thoát khỏi Hoàng Dương.
Do Vu cháu Sở Chiêu Vương,
Giơ lưng đỡ giáo tìm đường cứu Vua.
Kìa Dự Nhượng thuở xưa người Tấn,
Từng nuốt than lận đận phục thù.
Kìa Thân Khoái một Tể Phu,
Chặt tay theo nạn với vua nước Tề.
Quan nhỏ như Uất Trì Kính Đức,
Giúp Thái Tông khỏi bước trùng vi.
Cảo Khanh quan ở biên thùy,
Già mồm chửi giặc không hề tiếc thân.
Bậc nghĩa sĩ trung thần từ trước,
Từng diệt thân cứu nước có nhiều.
Những người kia nếu chẳng liều,
Chết suông như đám nữ lưu xó nhà.
Còn danh tiếng đâu mà chép lại,
Cùng kiền khôn truyền mãi không ngầm.
Các ngươi dòng dõi vũ thần,
Xưa nay nào có hiểu văn nghĩa gì.
Nghe câu chuyện bán nghi bán tín,
Sự muôn năm nhắc đến chi vay?
Nay ta hãy nói cho hay,
Thử xem Tống, Thát truyện nầy ra sao?
Vương Công Kiên người nào thế vậy?
Tướng Nguyễn Văn Lập ấy người nào?
Điếu Ngư thằng bé tẻo teo,
Chống quân Mông Cổ ồn ào trăm muôn.
Khiến quân Tống thắng luôn mấy trận,
Đến bây giờ dân vẫn hàm ân.
Ngột Lang là tướng Đốc quân,
Với Tỳ Tướng Xích là nhân phẩm nào?
Ngoài muôn dặm quản bao nước độc,
Trong mấy ngày phá rốc quân Nam.
Lòng vua Thát Đát đã cam,
Đến nay lừng lẫy tiếng thơm nhường nào?
Ta với ngươi sanh vào đời loạn,
Vừa gặp bao cơn vận hạn gian nan.
Sứ Nguyên lai vãng bao lần,
Mọi nơi đường sá muôn vàn nôn nao.
Triều đình bị cú diều soi mói,
Tể tướngthì lang sói rẻ khinh.
Mượn oai Hốt Liệt tranh giành,
Lấy bao của báu chưa đành lòng tham.
Cậy thế chúa Vân Nam nạt nũ,
Đòi bạc vàng hết cả kho ta.
Thịt nuôi hùm đói mãi a?
Sao cho thoát khỏi lo xa sau nầy.
Ta đây những hàng ngày quên bữa,
Lúc đêm thâu ngồi dựa gối kiêu.
Giọt châu tầm tã tuôn trào,
Như nung gan sắt, như bào lòng son.
Chí những muốn moi gan lấy tiết,
Lòng những toan xẻ thịt vằm da.
Dù thân dầu với cỏ hoa,
Dù da ngựa bọc thân đà cũng vui.
Các người vốn là người môn thuộc,
Được trông nom mọi việc binh cơ.
Áo không, ta cởi áo cho,
Cơm không, ta sẻ cơm no cho lòng.
Quan nhỏ thì ta phong chức cả,
Lộc ít thì ta trả lương thêm.
Đi sông ta cấp cho thuyền,
Đi đường ta cũng lệnh truyền ngựa đi.
Cho cầm quân an nguy cùng lối,
Cho nằm yên, vui nói cùng hàng
So Vương Kiên với Ngột Lang,
Đãi chư Tỳ Tướng mọi người kém chi.
Nếu vua nhục, ngươi thì chẳng đoái.
Mà nước nguy, ngươi lại làm ngơ
Đứng hầu tướng giặc không dơ,
Nghe ca thết sứ vẫn trơ tráo ngồi.
Khi gà chọi, khi thời cờ bạc,
Cuộc vui chơi, gỡ gạc đủ trò.
Ruộng vườn muôn sự ấm no,
Vợ con vui thú riêngcho một mình.
Ham lập nghiệp, quên tình nhà, nước,
Mãi đi săn, nhát việc ngăn ngừa.
Rượu chè hôm sớm say sưa,
Hát hay, đàn ngọt sớm trưa thỏa lòng.
Đúng có lúc quân Mông, Thát tới,
Cựa gà không chọc nổi áo da.
Những nghề cờ bạc tinh ma,
Phải đâu kế hoạch của nhà cầm quân?
Ruộng nương nào đủ phần chuộc mạng,
Vợ con nào đã cáng quân nhu?
Của đâu chuốc được đầu thù?
Chó săn đâu đủ sức khua giặc trời!
Rượu ngon khó làm mồi bã giặc,
Hát hay không làm điếc tai thù.
Bây giờ chẳng xót lắm ru?
Vua tôi đều bị trói gô một đàn!
Tước ấp ta bị tan nát cả,
Bổng lộc người cũng chẳng còn gì.
Gia đình ta bị đuổi đi,
Vợ ngươi cũng phải đến khi nhọc nhằn.
Tông xã ta, địch quân xéo nát,
Phần mộ ngươi cũng bị quật lên.
Đời ta khổ nhục liên miên,
Cái tên nhơ nhuốc lưu truyền mãi sau!
Nhà các ngươi cũng đều mang tiếng,
Không khỏi làm những tướng bị thua.
Các ngươi đang lúc bây giờ,
Muốn mong vui thích như xưa được nào?
Lời ta nhủ thấp cao ngươi nhớ,
Phải coi nằm trên lửa là nguy,
Kiềng canh đưa cũng thổi xùy.
Luyện quân sĩ tốt tập nghề đao cung.
Khiến ai nấy nức lòng mạnh mẽ,
Sức Bàng Mông, Hậu Nghệ cũng ham,
Bêu đầu Hốt Liệt cho cam,
Phơi luôn thịt Chúa Vân Nam bên đường.
Tước ấp ta chăn thường ấm chỗ,
Bổng lộc ngươi hưởng có trọn đời
Gia đình ta được yên vui,
Vợ con ngươi cũng lo đời trăm năm.
Tông miếu ta nghìn năm hương lửa,
Tổ tiên ngươi muôn thuở cương thường.
Ta đây phỉ chí bồng tang,
Các người dường cũng vẻ vang vô cùng.
Huy hiệu ta tôn sùng mãi mãi,
Tính danh ngươi ghi với sử xanh.
Bấy giờ vui thú linh đình,
Các ngươi đều muốn buồn tênh được nào?
Này binh pháp chọn theo đời trước,
Là “Binh Thư Yếu Lược” ban ra.
Các ngươi theo đúng sách ta,
Ấy là thần, chủ một nhà từ xưa.
Nếu bỏ sách thờ ơ lời dạy,
Ấy kẻ thù đã mấy đời nay.
Tại sao mà lại thế nầy?
Là thù không đội trời nầy được chung.
Nếu các ngươi lòng không biết hổ,
Không coi điều “Sát lỗ” là cần.
Lại không vâng dạy luyện quân,
Ấy là quay giáo, bó thân quy hàng.
Giặc yên rồi còn mang tiếng mãi,
Mặt mũi nào đứng với cao đây?
Muốn ngươi hiểu rõ lòng đây,
Vậy nên thảo bức hịch nầy cho nghe.
Đọc bản văn dịch “Hịch Tướng Sĩ” bằng chữ Hán của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn viết và Ngô Tất Tố đã dịch ra văn xuôi tiếng Việt, xem ra rất bi hùng. Nội dung khuyến khích, hỗ trợ quân sĩ, đôi khi có chút hăm dọa: Nếu để thua giặc thì sơn hà xã tắc, vợ con, ruộng vườn, nhà cửa, thú vui v.v… đều tiêu tan hết, nên phải cố gắng chiến đấu để giết chết quân thù. Câu văn giọng nói đúng là của một vị tướng văn võ song toàn. Sau nầy Cử Nguyễn Văn Bình dịch sang lối thơ Việt Nam song thất lục bát cũng rất tuyệt vời. Xem như thơ đã lột tả được hết ý tác giả qua sự diễn dịch nầy. Từ cổ tích cho đến những việc làm cần thiết trong hiện tại cho mình, cho quân, cho tướng, cho vua, cho quan, cho sơn hà xã tắc… đều gói gọn trong ý tứ của những câu thơ trên. Đây thật là một áng văn tuyệt vời, đã hơn 800 năm trôi qua, nhưng khi đọc đến, chúng ta vẫn phải cúi đầu trước cái dũng của những bậc làm tướng ngày xưa, khi quê hương của chúng ta bị người phương Bắc đến đánh phá nhiều lần như vậy. Họ ỷ lớn, đi dọa nạt các nước nhỏ, nhưng khi đến Việt Nam bao nhiêu lần là bấy nhiêu keo đại bại. Thế mà họ không từ. Chẳng biết tại sao họ không sợ nhục? Việc nầy cả mấy ngàn năm qua, đến nay vẫn vậy. Lại có những kẻ bán nước cầu vinh như Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc và cũng đã có rất nhiều anh hùng tướng sĩ oanh liệt một thời như Hai Bà Trưng, Trần Bình Trọng, Nguyễn Phi Khanh v.v…
Trần Quốc Tuấn đã tách bạch giữa những người lãnh đạo quốc gia và lý tưởng cao cả của kẻ sĩ là phục vụ đại cuộc quốc gia. Những người lãnh đạo có thể sai lầm, nhưng kẻ sĩ không thể vì thế mà bỏ đi lý tưởng của riêng mình. Vào thời đại Trần Quốc Tuấn, lý tưởng đó là lòng trung quân ái quốc, khuông phò xã tắc chống ngoại xâm. Lòng ông thẳng thắn, không gợn một chút manh tâm phản trắc, ông chỉ một mực trung thành với vua, với nước. Ông dứt khoát bỏ qua thù riêng, tránh hẳn sự cám dỗ của quyền lực và kẻ sĩ ấy sau nầy Nguyễn Công Trứ cũng đã thể hiện qua vai trò Uy Viễn Tướng Công của mình như sau:
Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt
Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên
Có giang sơn thì sĩ đã có tên
Từ Chu, Hán vốn sĩ nầy là quý.
Miền hương đảng đã khen rằng hiếu nghị
Đạo lập thân phải giữ lấy cương thường
Khí hạo nhiên, chí đại chí cương
So chính khí đã đầy trong trời đất
Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất
Hiêu hiêu nhiên, điếu Vị, canh Sằn
Xe bồ luân dầu chưa gặp Thang, Văn
Phù thế giáo một vài câu thanh nghị
Cầm chính đạo để tịch tà cự bí
Hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên
Rồng mây khi gặp hội ưa duyên
Đem quách cả sở tồn làm sở dụng
Trong lang miếu, ra tài lương đống
Ngoài biên thùy sạch mũi can tương
Làm sao cho bách thế lưu phương
Trước là sĩ sau là khanh tướng.
Kinh luân khởi tâm thượng
Binh giáp tàng hung trung
Vũ trụ chi gian giai phận sự
Nam nhi đáo thử thị hào hùng.
Nhà nước yên mà sĩ được thung dung
Bây giờ sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch.
Năm ba chú tiểu đồng lếch thếch
Tiêu dao nơi hàn cốc, thanh sơn
Nào thơ, nào rượu, nào địch, nào đờn
Đồ thích chi chất đầy trong một túi
Mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi tới
Gẫm việc đời mà ngắm kẻ trọc thanh
Này này sĩ mới hoàn danh.
Sĩ, nông, công, thương là bốn nghề chính trong dân chúng và kẻ sĩ được đứng đầu. Cho đến ngày nay cái học từ chương ấy không còn nữa, nhưng cái tư cách làm người của một con người thật đúng nghĩa, thì phải học hạnh của người xưa vậy. Có như thế xã hội mới thanh bình và đời sống muôn dân mới lạc nghiệp.
Chính nhờ vừa có tài dụng binh, vừa có tài dùng người, vừa sống hài hòa với cấp dưới, vừa trung thành với vua, với nước, Trần Quốc Tuấn đã giúp Nhà Trần chiến đấu kháng Nguyên thành công rực rỡ. Lúc đầu trong triều đình Nhà Trần có nhiều nghi kỵ đối với Trần Quốc Tuấn vì vấn đề Trần Liễu là thân sinh của ông dặn dò trước khi chết là “phải trả thù nhà”; nhưng dần dần cung cách xử sự của ông đã thuyết phục được mọi người. Vả lại ông đặt việc nước lên trước, tình nhà lên sau trên hai vai của mình, ông đã xử sự cái sĩ khí của kẻ sĩ đúng thời và đúng lúc, nên cuối cùng ông trở thành một tướng tài của Nhà Trần nói riêng và lịch sử Việt Nam nói chung qua các triều đại và muôn thuở sử sách phải nêu danh.
Trần Quốc Tuấn đã xử sự quang minh chính đại đối với các vua Nhà Trần, tuy là bà con nhưng cũng là cựu thù của cha ông và xử sự ngay thẳng với tất cả mọi người. Điều nầy là một tấm gương sáng về tình gia đình, về tinh thần đoàn kết quốc gia, khiến cho sĩ chúng thời Trần trên dưới một lòng, cùng nhau sát cánh tạo sức mạnh tổng lực chiến đấu chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập quốc gia. Vì lẽ đó mà ngay khi Trần Quốc Tuấn còn sống, ông đã được vua Trần gọi là Thượng Phụ, kính trọng như cha của mình. Khi Trần Quốc Tuấn từ trần tại Vạn Kiếp vào ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý (1300) ông được Vua Trần Anh Tông tặng tước Thái Sư Thượng Phụ Thượng Quốc Công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương. Riêng việc phong tước “Hưng Đạo Đại Vương”, tức vị đại vương đã chấn hưng đạo làm người, cho thấy nhà Vua và triều đình lúc bấy giờ nêu cao tinh túy ý nghĩa công nghiệp của Trần Quốc Tuấn, một tướng lãnh đức độ, tài ba, văn võ song toàn.
Khi Trần Hưng Đạo sắp từ trần, Vua Trần Anh Tông đến thăm và hỏi Trần Hưng Đạo rằng: “Khi Thượng Phụ một mai khuất núi, phỏng có quân Bắc lại sang thì phải làm thế nào?”.
Trần Hưng Đạo trả lời rằng: “Đại để kẻ kia cậy có trường trận, mà ta thì cậy có đoản binh, lấy đoản chống nhau với trường, phép dùng binh thường vẫn phải thế. Còn như khi nào quân giặc kéo đến ầm ầm, như gió, như lửa, thế ấy lại dễ chống. Nếu nó dùng cách dần dà, như tằm ăn lá, thong thả mà không ham của dân, không cần lấy mau việc, thế ấy mới khó trị, thì ta nên kén dùng người giỏi, liệu xem quyền biến, ví như đánh cờ, phải tùy cơ mà ứng biến, dùng binh phải đồng lòng như cha con một nhà, thì mới có thể đánh được. Cách ấy cốt phải tự lúc bình thì khoan sức cho dân, để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là cái thuật giữ nước hay hơn cả”. (Quốc sử triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo Dục, 1998, bản dịch tập 1, tr. 558-559).
Trần Anh Tông gọi Hưng Đạo Vương là ông Ngoại, vì Trần Nhân Tông, cha của Anh Tông lấy Khâm Từ con gái Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn làm Hoàng hậu, nên khi Hưng Đạo Vương dạy những lời binh pháp như trên tuy là của một vị tướng về hưu, nhưng cũng là những lời tâm tình với cháu ngoại của mình thật là thâm sâu ý vị; trong đó vừa có tình nước non và tình nghĩa gia đình nữa. Cũng may là thời của Anh Tông không còn loạn phương Bắc nữa, mà sau đó cả 100 năm vào cuối Nhà Trần, quân nhà Minh mới trở lại xâm chiếm đất nước ta lần nữa và đặt sự đô hộ lần thứ 3 trên quê hương Đại Việt. Do đó anh hùng áo vải Lam Sơn Lê Lợi và Lê Lai đã khởi nghĩa chống quân Minh dưới sự cố vấn chỉ đạo của Quân sư Nguyễn Trãi qua bài “Bình Ngô Đại Cáo” cũng không thua gì “Hịch Tướng Sĩ” của Hưng Đạo Đại Vương. Qua lời dặn dò chí tình chí thiết của Hưng Đạo Đại Vương cho Trần Anh Tông năm 1300 có thể được xem như là một “chúc thư chính trị” của danh tướng Trần Hưng Đạo để lại cho tất cả những nhà cầm quyền hậu thế trong công cuộc bảo vệ đất nước. (Chương nầy đã sao chép nguyên văn một phần lớn của Sử gia Trần Gia Phụng, hiện đang sinh sống tại Canada. Bài nầy đã được đăng trên báo Viên Giác số 216 xuất bản vào tháng 12 năm 2016 tại Hannover, Đức Quốc).
Nhân việc đọc lại “Hịch Tướng Sĩ” của Trần Hưng Đạo thì chúng ta cũng nên đọc lại “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi đã viết bằng chữ Hán vào thế kỷ thứ 15 khi kháng chiến chống quân Minh, mà Ngô Tất Tố ở thế kỷ thứ 20 đã dịch ra Việt văn như sau:
Thay trời hành hóa, Hoàng thượng chiếu rằng,
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Nước non bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt lúc nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải vong thân
Cửa Hàm Tử giết chết Toa Đô
Sông Bạch Đằng bắt sống Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cớ còn ghi
Vừa rồi :
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc,
Ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,
Khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng,
Máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất,
Chân tay nào phục dịch cho vừa?
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần nhân chịu được?
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên
Chính lúc quân thù đang mạnh
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa Thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng,
Mịt mù như nhìn chốn bể khơi
Tự ta ta phải dốc lòng,
Vội vã hơn cứu người chết đói.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo phận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà,
Dựng cần trúc ngọn cờ phất phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử,
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy,
Mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh
Mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong,
Giặc đã trí cùng lực kiệt
Chẳng đánh mà người chịu khuất,
Ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn
Nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính
Lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người,
Gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc,
Để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem đầu chữa cháy
Đinh Mùi tháng Chín,
Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng Mười,
Mộc Thạch chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm
Chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chận đường
Tuyệt nguồn lương thực.
Ngày mười tháng Tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, Bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, Thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng Mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn
Đánh một trận, sạch không kình ngạc.
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ
Đô Đốc Thôi Tụ Lê gối dâng lời tạ tội,
Thượng Thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chết đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đảm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ.
Bị ta chặn ở Lê Hoa,
Quân Vân Nam nghi ngờ, khiếp vía mà vỡ mật
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm,
Quân Mộc Thạnh xéo lên nhau, chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu máu chảy thành sông,
Nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi,
Cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng.
Tướng giặc bị cầm tù,
Như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần Vũ chẳng giết hại,
Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
Về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức
Chẳng những mưu kế kỳ diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất Tổ tông
Linh thiêng đã lặng thầm phò trợ
Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
Bình Ngô Đại Cáo nầy được Nguyễn Trãi viết bằng chữ Hán vào mùa Xuân năm 1428, thay lời cho Bình Định Vương Lê Lợi để tuyên cáo kết thúc cuộc kháng chiến chống quân Minh, giành lại độc lập cho Đại Việt. Về mặt văn chương, bài hịch nầy được người đương thời, ngay cả hậu thế, đều rất thán phục và coi là thiên cổ hùng văn. So với “Hịch Tướng Sĩ” của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn thì đây là 2 bản tuyên ngôn, giữ nền tự chủ độc lập của nước nhà qua các triều đại Lý, Trần và hậu Lê. Nếu không có những chiến lược gia, quân sư, nhà tướng, nhà văn như Hưng Đạo Vương hay không có những người tài như Lê Lợi, Lê Lai qua sự cố vấn làm quân sư của Nguyễn Trãi thì Việt Nam chúng ta mãi bị quân phương Bắc làm ẩu, làm càng. Cứ ỷ thế mạnh mà lấn chiếm Đại Việt. Dù họ đã biết rằng: Đánh Đại Việt chỉ chuốc lấy cái thua là cái chắc, nhưng vì cái sĩ diện của kẻ nước lớn, dân đông, nên họ không quản ngại hy sinh thân xác của quân sĩ để củng cố ngai vàng và địa vị của họ nơi chốn triều đình, còn ai chết mặc ai, không cần biết đến. Trong khi đó, chúng ta xem xong Hịch Tướng Sĩ của Hưng Đạo Đại Vương và Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi thì thấy rằng vua và tướng xem quân dân như con đẻ của mình, đói cho ăn, lạnh cho mặc. Lúc vui lúc buồn, lúc thịnh lúc suy, lúc nào cũng xem nhau như thân thích cha con, anh em ruột thịt trong gia đình, nên giặc ngoài dầu có mạnh bao nhiêu đi chăng nữa thì cũng không thể đâm ngang bẻ dọc được. Lấy một thí dụ dễ hiểu như sau: Một cây thật to, cao nhưng đứng chơ vơ ở giữa trời đất, khi gió đến cây lại bị động lay, dẫu cứng cáp đến đâu đi nữa, có ngày cây kia cũng phải bị gãy cành, cây nát. Còn ở đây dùng thế yếu để thắng kẻ mạnh, chúng ta phải góp sức chung lưng lại với nhau ví như bó đũa tuy nhỏ, nếu bẻ từng chiếc thì bị gãy, nhưng nếu bẻ một bó thì không thể nào gãy được. Những tướng tài của Việt Nam hầu như trong bất cứ chiến tranh chống ngoại xâm nào đi nữa, họ đã xử dụng chiến thuật nầy. Trước để lấy lòng dân quân và sau nhiều năm trường kỳ kháng chiến thì sự thành công sẽ mang đến cho tất cả những ai có đầy đủ sự kiên nhẫn để chống lại ngoại xâm.
Nhìn xuyên suốt cuộc đời hành hoạt của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn qua suốt 4 đời Vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông và Anh Tông, ông đã một lòng vì quốc gia đại sự và với tâm nguyện quên thù nhà để trả nợ nước, nên qua 3 cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông vào năm 1258, 1285 và 1288 chúng ta đều thấy rõ nét sự hy sinh của ông lúc xông trận đánh giặc, lúc phò vua cứu giá, lúc thưởng phạt cho binh sĩ, lúc ra hịch thúc quân v.v…, lúc nào cũng như lúc nào bốn chữ: Trung Quân Ái Quốc vẫn nằm trong tâm khảm của ông và chưa một lần thất bại, dầu ở trận đánh nào. Cho nên Thượng Hoàng Thánh Tông và Hoàng Đế đương triều Nhân Tông phong cho ông là “Thượng Phụ” cũng quá xứng đáng cho một đời chinh y đầy bụi, và sĩ khí can cường kia đã làm cho người đời sau phải tự nghiêng mình trước những nghĩa cử cao cả của Hưng Đạo Đại Vương.
Chương VII
CÔNG CHÚA HOÀNG TRIỀU
Từ bao đời nay, những người sinh ra và lớn lên ở bất cứ nơi nào đó trên cõi đời nầy đều có sự liên hệ với quá khứ của mình cả. Dầu cho đó là quá khứ của một kiếp hay hai kiếp sống trước đó, nhưng cũng có rất nhiều trường hợp phải trải qua nhiều kiếp như thế, thì chu kỳ sinh diệt và nhân quả mới gặp lại để trả ân hay trả oán, để hưởng phước lộc hay bị khổ lụy nơi chốn đọa đày. Với Phật giáo, thuyết nhân quả Đức Phật đã dạy tự ngàn xưa và cũng không phải Đức Phật sáng tạo ra thuyết nầy, mà Ngài chỉ là người chỉ rõ cho chúng sanh thấy về nhân duyên và nghiệp lực để thực hành với tư cách là một người Phật tử xuất gia hay tại gia. Ngài cũng chỉ giống như một kẻ dẫn đường, còn chúng ta chỉ cần theo dấu chân của người đi trước đã vạch sẵn, thì chúng ta sẽ có một lộ trình ngay ngắn, thẳng tắp trên đoạn đường sinh tử của mình.
Khi Thái tử Tất Đạt Đa ra đời nơi vườn Lâm Tỳ Ni và sau đó được đưa trở lại Hoàng cung của Vua Tịnh Phạn, thì có vị tiên tri A Tư Đà tu lâu năm trong núi Hy Mã Lạp Sơn xin vào đoán tướng Thái tử. Sau khi xem dung mạo của Thái tử thì A Tư Đà tâu rằng:
“Muôn tâu Bệ hạ! Hoàng Nhi là người có phúc báu lớn mới sinh vào chốn nầy. Sau nầy lớn lên, nếu Hoàng Nhi tiếp tục sống đời sống thế tục thì sẽ trở thành bậc Chuyển Luân Thánh Vương, nghĩa là làm vua trên tất cả những vì vua khác. Còn nếu đi xuất gia học đạo sẽ trở thành bậc Chánh Giác”.
Nghe như vậy, vua Tịnh Phạn chỉ muốn đúng một trong hai điều đó là mong Thái tử sẽ nối ngôi của mình. Tiên A Tư Đà xem tướng Thái tử sở dĩ biết được tương lai, vì lẽ đã sanh vào cung vua nào đó, thì chắc rằng kẻ ấy phải có phước báu nếu không thì không thể nào.. Người đó ở đời trước hay nhiều đời trước nữa đã gieo trồng những căn lành, nên bây giờ mới được như vậy. Phúc đức ấy tuy hữu lậu như xây chùa, đắp tượng, đúc chuông, giúp người cơ nhỡ, xây dựng đường sá, cầu cống, trường học v.v… tất cả những việc như thế thuộc về phúc lợi của thế gian, thì những hành động ấy chính là những hạt giống đang ươm mầm để cho hiện tại và tương lai có cơ ngơi trổi dậy khi mà ánh thái dương đã đủ độ ấm áp, phân bón, nước non v.v… Đây chính là những ngoại duyên mà khi làm phước phải cần hội đủ, thì cái nhân lành kia mới phát triển được.
Đức Vua đương triều đang miên man suy nghĩ về hai cuộc chinh chiến chống quân Nguyên Mông vừa qua của năm 1285 và 1288. Tuy là Đại Việt toàn thắng, nhưng trông nhìn Hoàng cung cũng như Phủ Thiên Trường của Thái Thượng Hoàng tiêu điều không kém, bởi vì qua 2 cơn binh biến ấy nhân tình xao xuyến, thế đạo lòng dân mệt mỏi quá nhiều rồi nên bây giờ chính là lúc phải nghỉ ngơi để cho quân dân dưỡng sức, rồi từ từ sẽ phục chế lại những thành quách đã đổ vỡ bởi quân giặc phá phách khi chiếm cứ Thăng Long, trong khi Thái Thượng Hoàng và Hoàng Đế đương triều Nhân Tông phải lánh mặt đi nơi khác, nhằm cứu nguy sơn hà, xã tắc bằng chiến thuật điệu hổ ly sơn hay vườn không nhà trống theo kế sách “Hịch Tướng Sĩ” của Thượng Phụ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Đang ngồi nhâm nhi tách trà Bắc Thái, Nhân Tông được lệnh báo.
- Muôn tâu Thánh thượng! Có quan Nội giám muốn vào hầu.
- Hãy cho vào.
- Muôn tâu Hoàng thượng! Hoàng hậu đã hạ sanh một Công chúa!
- Thế sao?
- Như vậy là ta đã được 2 trai 2 gái!
Nhà Vua thong thả đi vào hậu cung và cho người đánh xa giá để đến gặp Khâm Từ Hoàng hậu. Đến nơi nhà Vua ở bên ngoài và cho người vào trong báo tin là Hoàng thượng đã đến. Hoàng hậu vui mừng xiết kể, gượng ngồi dậy ra chào Hoàng thượng bà khẽ nhún mình.
- A kìa! Ngươi hãy bình thân.
-Muôn tâu! Ngọc thể như thế nào?
- Ồ! Ta vẫn chỉ lo cho Khanh thôi! Chứ còn ta gió ngựa đường xa, đã quen bao phen chinh chiến rồi, nên không có gì đáng quan tâm lắm. Nhưng nầy Khanh! Ta với Khanh đã có Anh Tông và Quốc Chẩm, rồi Khanh cũng đã sanh cho ta Công chúa Lệ Thánh thật là thông minh diễm tuyệt, nay lại thêm một Công chúa nữa. Vậy thì Khanh hãy chọn tên cho Công chúa của chúng ta đi.
- Nếu Bệ hạ cho phép.
- Ừ thì nữ thuộc về Khanh, còn nam thì ta mới đặt tên cho.
- Nếu Bệ hạ rộng lòng thì thần thiếp xin phép được chọn là Huyền Trân.
- Ô! Hay thế nhỉ! Huyền là màu đen, mà Huyền cũng có nghĩa là đẹp và Trân là trân bảo, trân quý, trên đời ít có. Thôi hãy gọi con là Trần Huyền Trân vậy.
- Ta đã có 2 con trai và 1 con gái, bây giờ sinh thêm 1 gái nữa Bệ hạ có vui không?
- Chắc chắn là vui rồi, vì chúng ta có cả 2 trai và 2 gái để chúng chơi đùa và học tập cùng nhau, chắc sẽ là tâm đầu ý hợp đó!
- Muôn tâu! Xin tạ ân Bệ hạ đã chiếu cố quang lâm.
- Thôi! Ta hồi cung.
Đêm hôm đó Nhân Tông thức trắng để hưởng trọn niềm vui, vì Hoàng hậu Khâm Từ đã mang đến những người kế nghiệp ngai vàng cho dòng họ mình, thì không vui sao được. Nhưng nếu ngẫm cho cùng thì cả Khâm Từ và Nhân Tông đều cùng có cái gốc gác giống nhau. Đó là cháu nhiều đời của cụ Trần Thừa, tuy ông không làm vua, nhưng được truy tặng danh hiệu là Thái Tổ. Từ Thái Tổ mới sinh ra ông nội là Thái Tông và Vua cha là Thánh Tông, nhưng lẽ ra dòng dõi ấy phải thuộc về ông bác Trần Liễu mới đúng, chứ không phải là phổ hệ của mình. Nhưng dẫu sao đi nữa thì con gái của Hưng Đạo Vương làm vợ của ta cũng không phải là người xa lạ, chỉ mới cách nhau 2 đời của con nhà chú và nhà bác đấy thôi! Thiên hạ bên ngoài cũng đàm tiếu nhiều lắm cho những việc hôn nhân cận huyết nầy, nhưng Thái sư Trần Thủ Độ chủ trương vương quyền không được lọt vào tay ngoại tộc, nên từ xưa đến nay Hoàng tộc ta cũng vậy. Đây có thể là điều đúng mà cũng có thể là điều sai. Nhưng tiên triều không có lệ nầy, chỉ có Trần triều mới sinh ra việc như vậy. Đây có thể là cái lo xa của Thái sư Trần Thủ Độ vì đã ép Nội Tổ của ta lấy chị dâu của mình, để ngai vàng có người kế nghiệp và mục đích chính là đẩy Nhà Lý ra khỏi cơ nghiệp của Nhà Trần thì Thái sư mới an tâm chăng? Nhưng nếu không có Hoàng đế Lý Chiêu Hoàng thì ai là người truyền lại ngôi cao lộc cả cho Nội Tổ của ta được? Bao nhiêu câu hỏi cứ thôi thúc Nhân Tông như vậy, nhưng ông còn bận không biết bao nhiêu việc triều chính khác nữa, nên chuyện gia phong bên trong từ từ sẽ chỉnh đốn sau.
Nhà Vua muốn các con của mình được tài giỏi nên đã tuyển chọn những vị quan văn tài võ giỏi dạy cho các Hoàng tử và Công chúa học chung với các vương tôn công tử khác trong Trường Quốc Tử Giám. Một hôm xảy ra một chuyện tranh cãi nho nhỏ trong sân trường của vườn Ngự Uyển, Trương Hán Siêu thấy cả Anh Tông, Quốc Chẩn, Lệ Thánh và Huyền Trân đều có mặt. Hỏi ra mới biết rằng họ đang bàn cãi với nhau về người bên trong và người bên ngoài, người cùng họ và khác họ, người cùng chủng tộc và kẻ khác chủng tộc như sau:
Anh Tông: Các em biết gì về người cùng họ và người khác họ?
- Ví dụ như người họ Trần và người họ Lý, hai nhà nầy có gốc gác khác nhau! (Quốc Chẩn đáp).
- Thế thì chúng ta với Ông cậu Trần Hưng Đạo là cùng họ hay khác họ? (Lệ Thánh Công chúa hỏi).
- Sao em hỏi vậy?
- Thì em thấy cùng họ Trần mà tại sao lại lấy họ Trần?
- Tại em còn nhỏ chưa biết. Khi nào lớn lên sẽ rõ.
Huyền Trân còn quá nhỏ để quan tâm đến chuyện nầy, nhưng hỏi chị rằng:
- Tại sao trong cung của Mẫu hậu, có những người không giống mình? Họ nói tiếng khác?
- Đó là người hầu của Mẹ đến từ Chiêm Quốc.
- Em thấy tiếng ấy, khi người ta nói như chim hót. Vậy em có học được không chị?
- Để chị hỏi lại Vương huynh và Mẫu hậu xem sao.
Đó là lần đầu tiên khi lên 4 lên 5 tuổi mà Huyền Trân đã nhận thấy cũng như phân biệt được thế nào là người cùng họ, khác họ hay người ngoại quốc rồi. Cô bé được các cung nhơn nuông chiều lo cho ăn uống, tắm rửa, giặt giũ. Tối đến họ còn kể chuyện Phù Đổng Thiên Vương đại phá giặc Ân, rồi nào là Sơn Tinh Thủy Tinh, Cây tre trăm đốt, Sự tích cây Nêu ngày Tết, chuyện Công chúa Tiên Dung và Chữ Đồng Tử, Đầm Dạ Trạch v.v… chuyện nào cũng mang vẻ liêu trai, khó hình dung hết được. Khi nghe đến câu chuyện nào Huyền Trân cũng chăm chú lắng nghe và khi các cung nữ kể đến chỗ hấp dẫn thì Huyền Trân không chịu ngủ, mà còn hỏi vặn lại nhiều điều như câu chuyện cổ tích về “Cây Nêu ngày Tết” như sau:
“Ngày xửa ngày xưa khi đất trời mới hình thành thì loài người và quỷ phải ở chung, vì loài quỷ hung dữ chiếm hết đất đai, nên loài người trở thành kẻ mướn đất làm thuê cho chúng, nhưng bản tính của loài quỷ vốn tham lam vô độ, cứ tăng dần số lợi tức phải nộp, cuối cùng chúng ra thể lệ là “lấy ngọn cho gốc” nên loài người phải nộp tất cả lúa thóc thu hoạch được, trở nên đói khổ vô cùng. Đức Phật A Di Đà ở phương Tây muốn cứu giúp nên mới bày kế cho loài người thay vì trồng lúa như mọi năm thì trồng khoai lang. Năm đó loài người được no vì theo lệ cũ loài người nhận phần củ còn quỷ chỉ nhận được phần lá. Bọn quỷ tức giận đổi điều lệ là “lấy luôn cả gốc và ngọn”, Phật cho loài người hạt ngô để làm giống trồng khắp nơi. Lại thêm một lần nữa không nhận được gì, loài quỷ tức giận đòi đất lại không cho loài người thuê nữa. Thấy vậy Phật mới bảo với đại diện của quỷ rằng:
- Ta muốn mua lại một ít đất đai cho loài người.
- Ngài muốn bao lớn?
- Chỉ bằng bóng chiếc y của ta thôi!
- Chừng đó thì không sao!
Và hai bên đã giao ước ngoài bóng của chiếc y là của quỷ, trong bóng là của người.
Thế rồi Ngài cho dựng lên một cây thật cao, trên đó có treo một chiếc y của Ngài và loài quỷ đâu có biết rằng Ngài có phép thần thông, nên chiếc y mỗi lúc một lớn dần, cho đến khi bóng của chiếc y bao phủ cả mặt đất, loài quỷ không còn chỗ nương thân trên đất liền nữa, chúng phải chạy ra biển Đông và từ đó loài người ngự trị vĩnh viễn trên năm châu lục cho đến ngày nay. Thế nhưng loài quỷ cũng không dừng lại đó, đã bao phen chúng tìm cách đánh chiếm lại, nhưng loài người được Phật giúp đỡ nên bọn quỷ không làm gì được. Một hôm chúng thưa với Phật rằng:
- Mồ mả, ông bà Tổ tiên của chúng con đều chôn trên đất liền, mà bây giờ loài người lại làm chủ thì làm sao chúng con có thể về thăm ông bà quá cố của chúng con được?
- Vậy thì mỗi năm cứ đến những ngày Tết âm lịch thì các ngươi hãy về và Tết xong lại đi.
Khi loài người nghe Phật dạy vậy cũng tin, nhưng không tin được loài quỷ, vì sợ chúng sau khi vào đất liền chúng lại tìm cách ở luôn lại đây, nên loài người mới cung thỉnh Phật cho một phương pháp nào đó để trị quỷ thì Phật A Di Đà bảo rằng:
- Trước mỗi nhà, từ ngày 23 tháng chạp nên dựng lên một cây nêu và trên cây nêu ấy hãy gắn những màu xanh đỏ, cùng những loại tạo nên âm thanh khiến cho loài quỷ khi nghe đến tiếng động nầy thì chúng không dám lại gần nữa.
- Đó là một cách hay! Nhưng Bạch Thế Tôn! Còn cách gì nữa không?
- Chung quanh nhà, sau khi quét dọn sạch sẽ hãy rải vôi màu trắng và rải thành một hình cung tên hướng ra biển Đông, khiến cho quỷ thấy hình ảnh nầy chúng sẽ sợ và không còn dám lai vãng ở mãi trên đất liền được.
- Chúng con xin thâm tạ ơn Ngài”.
Công chúa Huyền Trân nằm yên thiêm thiếp nghe kể những câu chuyện cổ tích của Việt Nam chúng ta ngày xưa, thấy chuyện nào cũng thật là ý vị, chỉ riêng câu chuyện “Cây Nêu Ngày Tết” thì Huyền Trân quan tâm nhất và hỏi các cung nhơn rằng:
- Phật là gì vậy chị?
- Ừ! Là kẻ đã xuất trần.
- Nhưng Phật A Di Đà ở đâu?
- Ở cách đây xa lắm!
- Nhưng tại sao Ngài không ở với mình?
- Vì loài người còn tham, sân nhiều quá.
- Còn quỷ có giống với quân Nguyên Mông không chị?
- Nguyên Mông là người, nhưng tâm hồn không khác quỷ là mấy. Vì chúng chỉ muốn mối lợi cho chúng, chứ chúng xem Đại Việt chúng ta chẳng ra gì.
- Vậy mình có làm cung tên không chị?
- Các chú, các bác đã lo cho việc nầy rồi. Bổn phận của em chỉ có việc phải ngủ yên thôi, để ngày mai còn đi học nữa.
Tối hôm đó Công chúa Huyền Trân ngủ thật là ngon giấc, nhưng trong đầu của trẻ thơ Huyền Trân luôn có nhiều thắc mắc và gợi nhớ, nên để dành cho ngày mai, khi thức dậy và đi học xong thì sẽ gặp Mẫu hậu để thưa trình.
- Hôm nay con ngoan của mẹ học ở Quốc Tử Giám ra sao rồi đó?
- Thưa Mẫu hậu! Hôm nay con có nghe thầy dạy sử kể về chuyện Đường Tăng đi Ấn Độ thỉnh kinh. Câu chuyện quá hay phải không Mẹ?
- Theo con thì chỗ nào hay nhất ?
- Con nghe đến Trư Bát Giới là vui rồi!
- Nhưng con không nghĩ mình cũng thể hiện đúng những gì mà Trư Bát Giới đã biểu hiện chăng?
- Xin Mẹ nói rõ.
- Ừ! Thì Bát Giới thích gì nào?
- Thưa Mẹ! Ông ta thích ăn, thích ngủ và đặc biệt là thích gái.
- Vậy con xem trong chúng ta có những loại ấy chăng?
- Thưa Mẹ, con chưa hiểu.
- Thì đây nầy! Phật đã dạy rằng:
Mắt ưa xem huyễn cảnh hằng ngày
Tai thích tiếng mật đường dua nịnh
Mũi quen ngửi mùi thơm bất tịnh
Lưỡi dệt thêu lắm chuyện gay go
Thân ham dùng gấm vóc se sua…
- Phật dạy hay quá phải không Mẹ.
- Trư Bát Giới là tượng trưng cho năm loại bị che khuất trong chúng ta đó!
- Còn ông Tề Thiên Đại Thánh nữa. Con thích ông nầy ghê!
- Đúng! Ông ta tượng trưng cho tâm ý của con người đó con! Ý của mình cứ chạy rong như ngựa không dây cương và không khác nào con khỉ chuyền cành, hết cây nầy qua cây nọ.
- Nhưng ông ta thì luôn thương Ngài ĐườngTăng phải không Mẹ?
- Đúng vậy! Ông nào cũng thương hết. Nhưng ông bảo thủ nhất là Sa Tăng. Ông nầy giống như bà Hoàng hậu bảo thủ ông vua là của riêng mình vậy.
- Có phải Mẹ lúc nào cũng gần gũi Phụ Vương con như vậy không?
- Con còn nhỏ chưa biết gì nhiều, nhưng khi con lớn lên rồi thì con sẽ thấy và gặp cái cách chấp ngã của từng con người, nên Phật dạy cho các Thầy Tỳ Kheo kỹ lắm. Hằng đêm phải quán rằng: Đây là không phải tôi, đây không phải thuộc về tôi và đây không phải là bản ngã của tôi!
- Khó quá con không hiểu, nhưng tại sao Ngài Đường Tăng lại quá dễ dàng với ma chướng vậy hả Mẹ?
- Không đâu con! Ngài lúc nào cũng giữ tâm ý thật thanh tịnh, nhưng Ma vương đâu có tha. Vì trong vô lượng kiếp, Ngài cũng đã thương, đã yêu, đã lụy vì tình, nên kiếp nầy mặc dầu được Đường Thái Tông phong làm Đường Ngự Đệ, xem như em ruột của mình nhưng cái mà hay chứa chấp cái ta đó, cũng như cái bị chứa và cái chấp về ái dục, ái tình v.v… nó vẫn còn luôn tồn tại nếu người ta chưa chuyển nó thành trí được.
- Ôi thôi là khó quá!
- Con hãy chờ lớn hơn một chút nữa thì con sẽ hiểu nhiều hơn.
- Vâng thưa Mẹ!
Đến năm 1293 thì Huyền Trân cũng đã lên 7 tuổi, tuy mới 7 tuổi mà trông như đứa bé đã lớn khôn nhiều rồi. Vì Thầy dạy học cũng như Hoàng thất ai ai cũng muốn các Công tôn Vương tử phải là những người đặc biệt. Phải học chữ Hán và Tứ Thư, Ngũ Kinh, phải biết xem ngày, xem hướng và đặc biệt là phải biết rành rẽ giáo lý của Phật giáo. Thời kỳ nầy được gọi là thời kỳ “Tam Giáo Đồng Quy”; nghĩa là 3 Tôn Giáo đồng trở về một mối, nên không chỉ bên trong trường Quốc Tử Giám các Công tôn Vương Tử phải được luyện tập cả Hán Học, Lão Học và Phật Học mà trường ở ngoài nhân gian cũng phải vậy. Tuy không được học nhiều và bài bản như trong triều nội, nhưng ai ai cũng am hiểu điều nầy một cách căn bản.
Huyền Trân nhớ có lần Tuệ Trung Thượng Sĩ là Ông cậu ruột của mình từ Yên Tử xuống thăm bà Nội Thiên Cảm và cả Phụ hoàng cũng như Tổ phụ của mình nữa. Lâu lâu nghe người lớn nói chuyện với nhau, Huyền Trân tuy chưa hiểu gì, nhưng thấy cũng hay hay nên đứng hầu bên cạnh Nội, nghe cuộc đối đáp như sau:
- Sao Anh tu Thiền mà dùng cá thịt và đồ chay lẫn lộn như vậy thì làm sao thành Phật được?
- Phật là Phật. Anh là Anh. Anh không muốn thành Phật và Phật cũng không muốn thành Anh. Em không nghe nói Văn Thù là Văn Thù và giải thoát là giải thoát sao?
- Vâng! Vâng! Vâng!
Ngay cả Thái Hậu và Vua cha là Trần Nhân Tông ngồi trong bữa yến tiệc hôm đó sau khi nghe việc đối đáp giữa Tuệ Trung Thượng Sĩ và Thiên Cảm Hoàng hậu, ông còn không hiểu thì làm sao mà Anh Tông hay Huyền Trân hiểu được. Tuy nhiên đây là những câu nói rất có ý nghĩa, nên cả Thái Hậu, Phụ hoàng và các Vương tôn Công tử có mặt hôm đó đều rất an vui khi đón được ông cậu của mình từ Yên Tử sơn về lại triều đình.
Năm 1293 cũng là năm mà Vua Trần Nhân Tông chính thức nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông và ông lên làm Thái Thượng Hoàng, lui về ở Phủ Thiên Trường, còn Vua Anh Tông vẫn ở lại Thăng Long để lo tu bổ kinh thành đã bị hoang phế qua hai cuộc chiến vừa qua. Ngày qua ngày Huyền Trân thấy Phụ vương mình đăm chiêu nhiều hơn mà không biết lý do gì. Một hôm ở hậu cung của Phủ Thiên Trường, Huyền Trân nghe lén được câu chuyện của Phụ hoàng và Mẫu hậu như sau:
- Bệ hạ định đi tu? Và sơn hà xã tắc nầy để lại cho ai?
- Đã có Anh Tông lo lắng thay ta.
- Thế nhưng các con nhỏ khác, nhất là Huyền Trân mới lên 7 tuổi, cái tuổi của sự dại khờ, vẫn còn trông đợi sự chăm sóc của Bệ hạ lắm.
- Ngày xưa Đức Phật cũng đi tu khi La Hầu La còn nhỏ dại, có sao đâu?
- Nhưng đó là chuyện của Ấn Độ, còn nước Đại Việt ta thì… Khi Thái Tông trốn vào núi Yên Tử để chỉ cầu làm Phật, nhưng nhờ Thái sư Trần Thủ Độ can ngăn, nên mới được như vậy. Còn bây giờ ai có thể ngăn cản Bệ hạ đây?
- Ngày xưa Thái Tông chưa có người nối nghiệp vua, nên Thái sư mới ngăn chận, còn bây giờ đã có Anh Tông lo cho rồi!
- Thế còn thần thiếp thì sao?
- Khanh hãy lo cho các con còn nhỏ dại, còn ta sẽ cận kề bên Thượng Sĩ, vốn là anh ruột của Khanh để tầm sư học đạo và nếu sau nầy…
- Nếu sau nầy các con của chúng ta cũng sẽ xuất gia như La Hầu La?
- Điều ấy biết đâu được, nhưng việc từ bỏ Ngai vàng đâu phải là điều xấu xa gì. Nhất là cả hai lần chiến thắng Nguyên Mông ta còn không màng tới cái lợi danh nầy, cứ ở lại hoài nơi cung cấm để hưởng lộc, mà ta nhân cơ hội nầy sẽ xả bỏ tất cả để được tất cả. Hiện giờ ta đã có Anh Tông thì còn phải lo toan gì hơn nữa? Vả lại kho báu, gạo thóc vẫn còn đầy, Khanh và các con đâu có đói mà phải bận tâm?
- Không phải là chuyện đói no, muôn tâu Bệ hạ, mà là tình nghĩa phu thê mà thần thiếp đã nghe lời “Thượng Phụ” về xe tơ kết tóc với Ngài, chỉ mong cho đến chết mới trọn nghĩa tào khang, sống đồng tịch đồng sàng và chết đồng quan đồng quách.
- Đó chỉ là lẽ thường tình của thế gian, còn luân hồi sanh tử thì ai chịu trách nhiệm đây? Nếu trong 12 nhân duyên ấy mà không cắt đứt dây ái trước thì cái vòng vô minh nó vẫn là vô minh. Yêu để rồi đau khổ, dầu cho có ở tột đỉnh cao sang quyền uy và danh vọng như ta hay các vua chúa đời trước hay đời sau đi chăng nữa, thì làm sao tránh khỏi được sanh, lão, bệnh, tử của một kiếp nhân sinh? Khanh có thể bảo đảm với ta là vẫn ở đời sống tại gia, mà ta được giải thoát chăng? Nếu được như vậy thì Thái tử Tất Đạt Đa đâu cần phải bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan để đi tìm đạo làm gì?
- Nhưng thực tế thì quá phũ phàng, thưa Bệ hạ!
- Khi làm tướng phải biết thế mạnh thế yếu của giặc, phải biết lúc nào tấn lúc nào thối, chứ lúc nào cũng chường mặt ra cho giặc bắn tên mình thì còn gì là cái uy, cái dũng của một người cầm quân? Phải như Trần Bình Trọng, chứ ta không thể như Toa Đô hay Ô Mã Nhi được. Vả lại bây giờ nước non không còn chinh chiến nữa, xã tắc đã an bình, liệu ta có ở lại chốn kinh kỳ nầy thêm bao nhiêu năm nữa, thì có ích gì cho thiên hạ và ngay cả khanh nữa, nên ta đã quyết định xuất gia.
- Thưa Bệ hạ! Nếu chí của Bệ hạ đã quyết thì thần thiếp cũng không dám cản ngăn, nhưng hãy cho thiếp theo cùng, như Da Du Đà La vậy.
- Ấy là ngày ta chứng đạo trở về lại nơi Phủ Thiên Trường thì được, còn bây giờ tâm ta chưa an thì làm sao ta an cho người khác được. Thôi Khanh hãy vào hậu liêu an nghỉ, còn ta sẽ liên lạc với Ngài Thượng Sĩ để xem ý ra sao về việc quyết định của ta.
Huyền Trân mở tròn đôi mắt ra, áp tai vào sát tường để nghe cha mẹ đối đáp như trên, lòng của con trẻ bâng khuâng khôn tả, vì lâu nay anh em trong nhà cũng như thúc bá và các Vương tôn Công tử chơi đùa cũng như học tập với nhau dưới một mái nhà chung, mà bây giờ Phụ hoàng nỡ bỏ Mẫu hậu, rồi cả ta nữa. Nghe đâu Phụ hoàng sẽ vào Chùa Bút Tháp để xuất gia đầu Phật, bỏ lại hết tất cả sau lưng, không mang theo một vật gì cả, ngoại trừ tâm nguyện của mình là “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh”.
Hôm đó là ngày mồng Tám tháng Hai năm 1294, ngày mà 1889 năm trước Đức Phật Thích Ca ở Ấn Độ đã rời cung thành Ca Tỳ La Vệ để ra đi xuất gia tìm đạo ở tuổi 29, còn rất thanh xuân, và hôm ấy tại nước Đại Việt nầy nơi Chùa Bút Tháp có một lễ xuất gia rất là đặc biệt dưới sự Chủ trì của Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ và Chư sơn Thiền Đức trong môn phong Yên Tử. Bên triều đình thì có Hoàng đế Anh Tông và các Công chúa, Thái tử và trong sự kiện nầy không thiếu sự hiện diện của cô Công chúa út của Hoàng thượng đó là Huyền Trân. Lần nầy thì Huyền Trân không cần phải đứng núp đâu đó nữa để nghe lén cha mẹ mình đối đáp, mà nàng đã quỳ mọp trước một tôn tượng Quan Thế Âm rồi đưa mắt nhìn về phía Phụ hoàng cùng chư Tăng và đặc biệt là Ông cậu Tuệ Trung Thượng Sĩ. Huyền Trân lặng yên trong không khí trầm lắng ấy, bỗng đâu nghe tiếng dõng dạc của Ngài Thượng Sĩ đọc lớn lên rằng:
Thiện tai Thiện Nam tử
Năng liễu thế vô thường
Khí tục thú Nê Hoàn
Công đức nan tư nghì
Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát
Huyền Trân mới lần đầu nghe Ông cậu mình đọc câu ấy thấy hay hay, vì trong đó có nói hai chữ vô thường và có lẽ Phụ hoàng ta đã rõ biết cuộc đời là mộng ảo, mặc dầu có làm vua, làm Thái Thượng Hoàng đi nữa, thì cũng bị luật vô thường chi phối mà thôi! Nhưng Niết Bàn là gì nhỉ, ta phải hỏi ai đây? Đoạn Huyền Trân thấy Ông cậu Thượng Sĩ đặt con dao lên đầu của Phụ hoàng mình và cắt mấy sợi tóc đã điểm sương rồi đọc tiếp:
Hủy hình thủ khí tiết
Cát ái từ sở thân
Xuất gia hoằng Thánh đạo
Thệ độ nhứt thiết nhân
Nam Mô Ly Cấu Địa Bồ Tát Ma Ha Tát.
Lần nầy Huyền Trân lại nghe đến chữ ái, chữ thân cũng như chữ nhân, khiến nàng cũng thầm hiểu là chuyện ái ân chồng vợ xưa nay vốn là sự ràng buộc chăng? Nên người xuất gia quyết phải ra khỏi chốn ấy và ngay cả người thân thương nhất như Mẫu hậu của ta mà Phụ hoàng ta còn không đoái hoài đến, cắt bỏ tất cả để ra đi, thì chắc rằng phải có một mục đích gì đó to lớn hơn nữa, chứ không phải tầm thường. Còn Thánh đạo là gì? Đạo vợ chồng, đạo Thầy trò, nay còn nghe thêm hai chữ Thánh đạo nữa. Huyền Trân thắc mắc mà chẳng biết hỏi ai nên nàng để ý người ngồi bên kia là chú Trần Khắc Chung và nghĩ rằng sau lễ xuất gia của Phụ hoàng, Huyền Trân sẽ hỏi chú và nhờ chú giải thích cho nghe những chữ còn nghi ngờ. Bình thường chú mặc đồ tướng oai vệ lắm, còn hôm nay ở Chùa Bút Tháp nầy trông chú rất hiền từ giống như một người Phật tử thuần thành vậy, rồi nàng suy nghĩ tiếp, từ thời Thái Tổ cho đến Thái Tông, rồi ông nội ta, cha ta và cả bên ngoại của Ông cậu Trần Hưng Đạo cũng có người đi xuất gia và bây giờ cha ta lại dấn thân theo con đường khổ hạnh ấy, thì phải biết rằng Đạo Phật đã ăn sâu vào văn hóa của dân tộc nầy nhiều rồi. Không phải một sớm một chiều gì mà cả một đại gia tộc như vầy có tín tâm với một Tôn Giáo vốn có mặt tại Ấn Độ từ hơn 1.500 năm về trước. Sau khi lễ xuất gia của Phụ hoàng, Huyền Trân thấy cha mình bây giờ trang nghiêm quá dưới Pháp phục của một Tăng nhân, đầu cạo nhẵn, mình mặc chiếc áo cà sa màu hoại sắc. Tuy không rườm rà như hoàng bào khi Phụ vương mặc lúc lâm triều, nhưng với chiếc áo nầy, nó làm cho cha ta tăng thêm một nghị lực là đã chiến đấu và đã tự thắng mình, dầu cho trước đó có không biết bao nhiêu là sự cản trở.
- Thưa chú Khắc Chung! Chú thấy Phụ Vương con hôm nay có đẹp không?
- Ấy đừng nói thế! Con còn nhỏ chưa biết gì nhiều nhưng nhà Phật không gọi là đẹp mà gọi là trang nghiêm.
- Vậy thưa chú việc xuất gia ai cũng có thể làm được, hay chỉ có vua chúa mới có quyền?
- Phật ngày xưa đâu có cấm đoán ai. Ngay cả Ngài Ưu Ba Ly làm thợ cạo tóc còn xuất gia đầu Phật được mà!
- Vậy thì sau nầy con lớn lên, con có thể xuất gia được không?
- Việc xuất gia nó không đơn thuần như con nghĩ, nghĩa là phải tự chọn cho mình một con đường và phải quyết chí tu thân cho đến ngày thành đạo, chứ không phải vào chốn Thiền môn để vui ca múa hát như chốn hoàng cung đâu. Vả lại con là một công chúa thông minh, bé bỏng của triều đình, hãy khoan và đừng bao giờ nghĩ gì đến chuyện đại sự nầy cả. Sau nầy con lớn lên rồi con sẽ biết.
- Nhưng tại sao phải xuất gia chú? Con thấy Phụ hoàng con ở Thiên Trường vẫn được nhiều người hầu kẻ hạ mà tại sao phải lên núi Yên Tử để tu hạnh đầu đà và đầu đà là sao hả chú?
- Đầu đà có nghĩa là khổ hạnh. Ví dụ như ở cung son, mỗi ngày ta ăn ba bữa, khi ngủ có chăn êm nệm ấm để đắp. Còn đầu đà thì…
-Thì sao hở chú?
-Thì ngược lại những điều trên nghĩa là mỗi ngày chỉ ăn có một hay hai bữa, còn ngủ thì đơn giản hơn ở hoàng cung nhiều.
- Nhưng tại sao Phụ vương con lại từ bỏ chỗ đang sung sướng mà đi tìm chỗ cực khổ như vậy?
- Việc nầy con nên thưa với Phụ hoàng của con sau nầy khi con có dịp diện kiến Ngài. Nhưng mà quên! Bây giờ thì phải gọi khác đấy, không được phép gọi là Phụ hoàng nữa mà phải gọi Pháp danh của Ngài.
- Pháp danh? Pháp danh là gì hả chú?
- Là tên gọi trong Đạo.
- Vậy con phải gọi là gì ?
- Là Giác Hoàng!
- Ồ! Hay quá! Miễn sao có chữ Hoàng trong đó là con dễ nhớ rồi.
- Mà con biết không, cậu Tuệ Trung ban Pháp danh cho Thân phụ của con là Giác Hoàng cũng có nhiều ý nghĩa lắm đấy!
- Ý gì vậy chú?
- Giác có nghĩa là giác ngộ, thành Phật và Hoàng nầy cũng có nghĩa là ông vua. Ông vua nầy chắc chắn sau khi đi tu sẽ thành Phật.
- Hay quá hả chú và con xin cảm ơn chú nhiều về những sự giải thích rành mạch vừa qua.
Cũng trong năm 1294 nầy Giác Hoàng cùng một số Chư Tăng tại Chùa Bút Tháp đã đăng sơn, lên tận núi Yên Tử để tu hành và Ngài đã cho những người giúp việc lập nên một am tranh nhỏ và Ngài tự đặt cho tên gọi là “Ngọa Vân Am”. Am ấy rất xinh xắn và tĩnh lặng. Mỗi khi trăng lên, từ am nầy người ta có thể nhìn khắp núi Yên Tử với trùng trùng điệp điệp cây rừng. Thỉnh thoảng đâu đây ta nghe được tiếng của chim rừng ca hót vào những buổi sớm tinh sương khi mặt trời chưa ló dạng. Chiều xuống có những áng mây la đà bay trên mái am, nên gọi nơi nầy là “Ngọa Vân Am” hay “Am Mây Ngủ” cũng quá tuyệt vời! Tại đây Giác Hoàng đã thiền định tu tập ngày đêm sáu thời như thế và đây là sự hành trì hằng ngày của Ngài, cho nên sau nầy những môn Phong của Yên Tử lấy cách thực tập nầy và nương theo kinh của Ngài Giác Hoàng soạn về sáu thời để hành trì. Sau khi chứng đạo Ngài có bài thơ Cư Trần Lạc Đạo rất hay. Bài nầy ý nói: Ở cảnh trần gian, nhưng vẫn vui được với đạo mà mình đã chứng.
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói cứ ăn đi, mệt ngủ liền
Có báu trong nhà thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền.
Vậy thì Thiền có nghĩa là bây giờ và ở đây. Cái gì xảy đến hãy để cho nó tự đến, cái gì ra đi hãy để cho nó tự đi, đừng bắt buộc, đừng kiềm hãm, những gì xảy ra trong tâm niệm của chúng ta cũng giống như đói và mệt. Nếu đói thì cứ ăn, đừng cưỡng lại việc đói và mệt thì cứ nghỉ. Hãy đừng cố gắng so đo với thời gian làm gì, khiến cho ta phải khổ tâm nhọc trí. Nói thì nói vậy chứ không phải đơn giản vậy đâu, vì đối cảnh mà vô tâm thì chỉ có những người chứng đạo mới làm được.
Ngày lại tháng qua cũng đã mấy năm rồi, Huyền Trân đã được gia nhân đưa lên núi Yên Tử để lễ Phật và nhất là để thăm lại Ngài Giác Hoàng. Gặp lại Vua cha, nàng mừng rỡ nhưng không vồn vả, rối rít vì bây giờ thì nàng đã lớn hơn xưa nhiều rồi, đã hơn 10 tuổi rồi còn gì, lứa tuổi của sự hồn nhiên, nhưng cũng là tuổi bắt đầu chớm nở cho sự trưởng thành. Huyền Trân nhỏ nhẹ thưa:
- Thưa Phụ hoàng! Thưa Bệ hạ!
- Không phải như vậy đâu con, mà hãy bắt đầu bằng hai chữ “Mô Phật”.
- Mô Phật, thưa Ngài!
- Cũng không đúng nữa. Con phải gọi ta bây giờ là Thiền sư.
- Thiền Sư? Thiền sư là gì vậy Bệ hạ? À quên! Vậy Thầy?
- Thiền là thiền định, tư duy, tập trung lại một chỗ và giải quyết việc sanh tử ngay trong sự suy nghĩ của mình. Còn Sư là vị Thầy. Chỉ đơn giản thế thôi.
- Thưa con có thể làm như thế được không Thầy?
- Con còn nhỏ lắm. Hãy trở lại hoàng cung học tập với anh và chị của con đi, sau nầy lớn lên, con sẽ hiểu nhiều về cuộc đời, về sự thế, lúc ấy mọi sự quyết định mới đúng đắn.
- Con xin vâng!
Thế rồi Huyền Trân cùng những cung nữ chạy nhảy lượn quanh khe suối, hóc đá, có lúc lại trèo lên tận những cây cao để nhìn xem phong cảnh của chốn non bồng nước nhược nầy, mà Phụ Vương đã chọn để tu hành. Cảnh trí thiên nhiên ở đây đã làm cho Huyền Trân tâm đắc vô cùng, nàng nghĩ biết đâu một ngày nào đó cũng sẽ được lên đây để tọa thiền và sớm chiều kinh kệ. Khi đến động chính nàng ngước mặt nhìn lên trời, thấy thiên nhiên thật là kỳ tú, diễm ảo, mà mắt trần khó định phân được. Đây chính là động Hương Tích mà người xưa đã gọi. Hương Tích cũng là tên một cõi trời khác ở trong Nam Diêm Phù Đề và cơm tại đó mang về cõi nầy ăn hoài không hết, đã có lần Ngài Duy Ma Cật cúng dường Cơm Hương Tích lên cho Ngài Xá Lợi Phất và các vị Thánh Tăng, chỉ có một cái nồi nhỏ thôi mà cả Đại chúng mấy ngàn người dùng không hết, cho nên Hương Tích tại núi Yên Tử nầy cũng có cái gì đó quá đặc biệt.
Rồi Huyền Trân đến suối Giải Oan để nghe kể lại tấm chân tình mà các cung nữ đã thể hiện sự sống chết một lòng với ông Cố Trần Thái Tông, người đã bỏ ngôi báu vào đây xuất gia. Chuyện nầy đã xảy ra cách đây hơn 80 năm về trước và bây giờ đến đây nàng vẫn còn cảm nhận được tấm chân tình của những người xưa đối với Thượng Hoàng như thế nào. Huyền Trân tuy là thân gái, nhưng trong nàng luôn luôn mang một tâm niệm là: “Tại sao nam nhi thực hiện được, mà nữ nhi lại quá thường tình như vậy?”. Thế rồi từ đó, nhất là sau chuyến đăng sơn Yên Tử để thăm Phụ hoàng lần nầy, nàng mới cảm nhận được rằng cõi Phật mới chính là cõi giải thoát sanh tử luân hồi, còn trần gian thì phải vướng nhiều sự hệ lụy. Chưa chắc gì làm vua đã là hạnh phúc hoàn toàn. Nếu không như vậy thì tại sao Phụ hoàng phải bỏ Thăng Long và Thiên Trường để vào núi Yên Tử nầy để tu hành, nơi đây có gì là thú vị đâu? Thế nhưng nhìn cung cách đạo mạo uy nghi của Phụ Vương qua mảnh áo nâu sồng, nàng thấy cha mình hạnh phúc hơn xưa rất nhiều. Chắc chắn một điều là bây giờ cha của mình không còn bị những tiếng kêu than, kiện cáo của những quan tướng hay cung phi mỹ nữ khi lâm triều hay ở nơi hậu cung nữa, mà bây giờ tâm của ông rạng ngời như ánh sáng mặt trời, với ánh sáng ấy có thể rọi khắp muôn phương. Nếu ông tiếp tục làm vua hay Thái thượng hoàng thì ông chỉ làm lợi cho một ít thần dân mà thôi, còn ở đây tuy ông không có gì, nhưng ông đã có tất cả. Ông có thiên nhiên, có bầu trời và có cả một tâm Phật bao la rộng lớn như thế. Quả thật là phúc báu vô ngần.
Về lại Hoàng cung cùng Mẫu hậu, Huyền Trân đã kể lại tất cả những chuyện mắt thấy tai nghe nơi Yên Tử mà giờ đây với nàng tất cả chỉ còn là những sự hoài niệm. Huyền Trân phải nghĩ về chuyện tương lai của chính mình trong sự học hành, cũng như phải làm sao vừa lòng Mẫu hậu và những người chung quanh mình, khi mà Phụ hoàng không còn trực tiếp chăm lo cho mình ở Thiên Trường nầy nữa.
Chương VIII
NGÀN DẶM GIÓ SƯƠNG
Trong khi quân Nguyên Mông xâm chiếm Đại Việt thì Nguyên Mông cũng đã có ý thôn tính Chiêm Quốc. Muốn đánh Chiêm Thành chỉ có hai cách. Đó là dùng thuyền đi bằng đường biển từ Vân Nam qua, hai là dùng Đại Việt như là bàn đạp để đánh qua Chiêm Thành bằng đường bộ. Ý định nầy của quân Nguyên Mông, Trần Nhân Tông và kể cả Chế Mân đều rõ biết, nên hai nước nầy giao hảo với nhau rất tốt nhằm chống lại kẻ thù phương Bắc. Trần Nhân Tông đã cung cấp cho Chế Mân 500 chiến thuyền và cả quân tham mưu nữa. Do vậy quân Nguyên Mông đã không thắng quân Đại Việt vào năm 1285 và 1288 thì tại Chiêm Quốc với sự cố vấn của Vua Trần Nhân Tông và những tướng tài của Đại Việt, nên quân Nguyên Mông cũng đã rút lui về cố quốc của mình.
Nhân Tông đã xuất gia từ năm 1294 sau khi đã truyền ngôi cho Anh Tông làm Thái Thượng Hoàng, đồng thời cũng làm quân sư cố vấn cho cả Anh Tông về sự giúp đỡ cho Chiêm Quốc cũng như tổ chức truyền Bồ Tát giới cho Anh Tông, sau khi Anh Tông lên làm vua. Cuộc đời của Giác Hoàng bây giờ chỉ vui thú cỏ cây nơi núi đồi Yên Tử. Đêm đêm về, dưới ánh đèn dầu hiu hắt nơi Ngọa Vân Am, ông vẫn tĩnh tọa thiền quán và ôn lại lời Phật dạy, cũng như soạn lại Kinh Thập Thiện cho rõ ràng dễ hiểu hơn và từ đây ông quyết chí đi về phương Nam để thăm Chiêm Quốc. Và trên đường đi vạn dặm ấy, ngày đi đêm nghỉ, ông muốn nhân dân cũng sẽ hưởng được điều lợi lạc của giáo lý Phật Đà, nên ông đã chuẩn bị sẵn sàng để cất bước ra đi. Bây giờ bên ông là mấy chú Tiểu Đồng, không phải với túi thơ bầu rượu, mà là những tay nãi, trong đó có chứa đựng những bản kinh bằng chữ Hán cũng như những sách vở được soạn bởi Nhân Tông. Ông thấy rằng sau những cuộc chinh chiến thắng quân Nguyên Mông như thế, dân tình rất khốn khổ không đủ ăn, đủ mặc, tiền của đâu có dư để mà đến trường học chữ của Thánh Hiền, nên ông đã quyết chí đi lần nầy là muốn tận tai nghe và tận mắt thấy về cuộc sống tâm linh cũng như cuộc sống về vật chất của họ ra sao. Ông không dạy Thiền cho họ, mà dạy bộ kinh quan trọng này cho muôn dân trăm họ qua thân khẩu và ý. Thân gồm có 3 giới cần phải giữ đó là: Không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm. Miệng có 4 là: Không nói dối, không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời xua nịnh và không nói lời độc ác. Ý có 3 là: Không tham, không sân và không si.
Thật sự đây không phải là sáng kiến của Giác Hoàng mà là những lời dạy từ ngàn xưa của Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Bây giờ chính là lúc mà nhân dân Đại Việt cần phải thấm nhuần tinh thần của Phật giáo, nên Giác Hoàng đã có ý là nên làm như vậy sẽ thành công hơn. Ngoài con ngựa già đã trung thành với vua trong hai cuộc chiến vừa qua, Giác Hoàng không cho mang theo gì nhiều, vì đi đến đâu thì ông và các chú Tiểu đi khất thực để sống. Nhu cầu bây giờ không nhiều như lúc còn làm vua hay Thái thượng hoàng nữa, nên ông rất tự tại an vui. Buổi chiều không dùng, buổi sáng thì tọa thiền đâu đó và đi khất thực về lại dùng trưa trong tỉnh thức. Người ta cho gì thì Ngài dùng nấy, không đòi hỏi bất cứ một điều kiện gì, kể cả cái ăn, cái mặc hay nơi chốn ngủ nghỉ qua đêm. Có thể là một ngôi chùa cũ kỹ hay một am tranh, một miếu nhỏ nào đó đang bỏ hoang, Giác Hoàng và những người tùy tùng đều có thể chấp nhận một cách dễ dàng bởi mục đích của ông là “thăm dân cho biết sự tình”.
Ông khởi đi từ núi Yên Tử và dọc theo duyên hải miền Trung, vì thuở ấy chưa có đường bộ như bây giờ, đến đâu cũng thấy phong cảnh đẹp lạ lùng mà thiên nhiên đã biệt đãi cho Đại Việt cũng như Chiêm Quốc như thế. Thảo nào mà Nguyên Thế Tổ muốn xua quân để đánh chiếm Đại Việt và Chiêm Thành. Ở đây con người rất thanh bạch, chất phác, hỏi gì thưa nấy, đứng vòng hai tay lại, như thấy mình nhỏ bé trước một ông vua đã đánh Đông dẹp Bắc và trận nào cũng thành công vang dội khắp đó đây. Nay họ mới được gặp mặt dưới hình tướng của một nhà Sư khổ hạnh “áo vải nâu sồng”. Có lần Giác Hoàng bảo dân chúng tại một bờ biển rằng:
Các ngươi có biết việc đặt bẫy để bắt chim trên rừng, hươu nai, chuột, thỏ v.v… là tội cố sát chăng? Có bao giờ con cá dưới biển, đang bơi lội thong dong như vậy mà nghĩ rằng mình bị lưới của người giăng cá bủa ra chăng? Những bữa ăn đầy máu tanh của chúng sanh trên bàn cũng như rượu nếp, rượu than đã làm cho các ngươi chỉ đỡ đói qua ngày, nhưng các ngươi đâu có biết rằng những chúng sanh ấy cũng có gia đình, có cha có mẹ, có bà con quyến thuộc như chúng ta, sao các ngươi nỡ làm cho nó bị chia rẽ tình thân yêu quyến thuộc như vậy? Nếu ai trong chúng ta cũng bị những cảnh tình như vậy thì các ngươi sẽ tính sao đây?
Ngay như Yết Kiêu, Dã Tượng ngày nào, họ đã vì giang sơn Đại Việt mà giết Toa Đô hay đục thuyền của giặc, làm cho họ phải bị thua xiểng liểng rút về Tàu, và sau những trận so gươm thử sức như vậy đã có không biết bao nhiêu là máu đào đã chảy, đầu đã rơi và xương chất thành núi, nhưng họ vì sự tồn tại của giang sơn Tổ Quốc Đại Việt nầy mà phải hy sinh như vậy. Nhưng nay thì cả hai đều quy y Tam Bảo rồi, nhất là sau những tháng ngày chúng ta đã đại thắng quân Nguyên Mông và chính ta đã vứt đi tất cả để trở thành người xuất gia đầu Phật thì họ đã rõ lý vô thường còn sâu xa hơn nữa. Giờ đây ta chỉ mong đợi ở các ngươi hãy tu tỉnh, hãy tìm cách quy y Tam Bảo và giữ gìn các giới cấm của Phật chế, nhất là giới sát sanh để cho những côn trùng bé nhỏ được nhờ. Các ngươi thấy đó! Con kiến là loài nhỏ nhất mà chúng ta có thể dùng mắt để thấy được, nhưng khi chúng ta chạm vào nó thì nó tìm cách bỏ chạy đi hay quay đầu lại để tự vệ. Như vậy là con vật, chúng cũng muốn bảo vệ sự sống của chúng, tại sao chúng ta là con người, có đầy đủ trí tuệ hơn, lại ỷ mạnh hiếp yếu, đi giết hại chúng như vậy? Nếu các ngươi bảo rằng: “Vật sinh ra là để dưỡng nhơn, chứ nhơn đâu có dưỡng vật?”. Nói như vậy chưa hẳn đã là đúng hoàn toàn. Nếu vật sinh ra để cống hiến cho loài người, thì sao loài hổ báo, cọp beo lại tìm người để giết hại? Khi chúng giết người, chúng đâu có nghĩ là chúng phải cung cấp thịt chúng cho con người dùng, mà ngược lại con người, chính là đối thủ mà chúng cần tiêu diệt để bảo vệ cái bao tử của chúng vậy.
Loài người từ thời nguyên thủy vốn đã ăn chay, nhưng vì con người quá quỷ quyệt, không ăn thịt sống được cho nên phải thui, phải nướng, phải xào lên mới ăn được. Thật ra chỉ loài động vật nào có răng nhọn thì mới ăn tươi nuốt sống, còn con người thuộc loại răng bằng cũng như trâu, bò, dê, ngựa thì không thể ăn thịt sống được, mà chỉ ăn toàn rau cỏ thôi. Thứ nữa những động vật nào có ruột non, ruột già ngắn thì mới ăn thịt động vật, trong khi đó con người và những động vật có răng bằng lại có ruột non và ruột già dài cả mấy chục thước, sự tiêu hóa chậm hơn, nên chỉ chay tịnh thôi! Các ngươi phải nhớ điều nầy và cố lánh dữ làm lành để cho muôn loại được nhờ. Ngay như ta đây có quyền điều binh khiển tướng, hô vân hoán vũ, nhưng sau khi chiến tranh chấm dứt, ta còn khuyến cáo triều đình hãy lập đàn cúng tế để giải oan, giải nghiệp cho những người tử nạn, kể cả hai bên. Họ chỉ vì phận sự mà làm thây ma nơi chiến trường, không có được mồ cao mả đẹp như những người khác, thì chính những đàn tràng chiêu mộ do Chư Tăng Ni đứng làm chủ sám đó, đã triệu thỉnh những hồn oan nầy để cầu nguyện cho họ được siêu sanh về cảnh giới của Đức Phật A Di Đà. Đó là tình thương của ta đối với người còn cũng như kẻ mất. Ta thương tất cả chúng sanh như thương cả thân mình hay con cái trong hoàng triều, nên mới thể hiện tấm lòng của mình qua những đàn tràng chiêu mộ như vậy. Còn các ngươi nếu không có điều kiện như ta thì hãy đừng sát sanh hại vật nữa, mà hãy phóng sanh những loài đã bắt giữ lâu nay, đồng thời hãy vào rừng sâu nhặt trái cây rừng để ăn, chặt cây khai hoang để trồng lúa và gặt hái để dành trong những lúc mưa gió có dùng, nhằm nuôi sống bản thân và gia đình, chứ không nhất thiết phải phạm vào giới sát sanh như vậy.
Các ngươi cũng đã thấy, có những người mới sinh ra đã phải chết non, mà cũng lại có những người sống lâu hằng trăm tuổi. Các ngươi có biết lý do tại sao không? Các ngươi chỉ thấy cái kết quả ấm no trong hiện tại cho riêng mình, nhưng đâu có biết cái nhân trong quá khứ là gì đâu? Đó là việc sát sanh hại vật để nuôi sống thân mình cho nên ngày nay mới sinh ra đã phải chết yểu; chỉ vì kiếp trước đã giết lại loài người và loài vật quá nhiều, nên cái quả của đời nay là phải chết yểu như vậy. Trong khi đó có nhiều người sống cả hằng trăm năm, nhưng đâu có bị đau ốm gì, vì lẽ trong quá khứ những người nầy không phạm vào lỗi sát sanh, nên kiếp nầy cái quả mới được như vậy. Ngày xưa khi Đức Phật còn tại thế, Ngài đã dạy cho vua Tần Bà Sa La thọ Bát Quan Trai mỗi tháng 6 ngày vào các ngày mùng 8, 23, 14, rằm, 30 (tháng thiếu thì ngày 29) và mùng 1. Nếu không trường chay được thì ít nhất trong 6 ngày nầy phải chay tịnh rồi dần dà chay trường cũng tốt như trong kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật đã dạy rõ.
Đời sống của chư Thiên trong cõi Dục giới, Sắc giới hay Vô sắc giới đều lâu dài hơn đời sống của con người tại Nam Thiện Bộ Châu nầy, vì lẽ kiếp trước và trong nhiều kiếp sâu xa hơn nữa, họ không những không phạm vào tội sát sanh, mà họ còn phóng sanh cho nhiều loại động vật bị giam cầm nữa, nên bây giờ họ có tuổi thọ dài lâu và hình thù sắc tướng đẹp đẽ hơn loài người nhiều. Đó là nhân và đó cũng là quả. Có những nhân và quả xuất hiện cùng một lúc, gọi là nhân quả đồng thời. Ví dụ như khi ta đánh một tiếng chuông chẳng hạn. Vậy khi đánh chuông, việc ấy chính là cái nhân và khi chúng ta nghe được tiếng chuông, ấy là quả. Quả và nhân đi liền với nhau, nên chúng ta nhận biết rất rõ ràng. Cũng có những loại nhân gây ra trong đời nầy mà ở vào cuối đời mới nhận quả, hay kéo dài đến đời sau nữa. Ví dụ như ta trồng một cây xoài hay một cây mít, đâu phải một sớm một chiều mà ta gặt hái được quả xoài đâu, thời gian ít nhất là năm bảy tháng hay một năm sau, ta mới thâu hoạch được những mùa xoài đầu, rồi sau đó cứ tiếp tục làm cái nhân bón phân, tưới nước, thì cái quả của những năm sau sẽ đến nữa, cho nên chúng ta gọi đây là “nhân và quả khác thời”. Cũng có những loại nhân gây ra trong đời nầy mà mãi mãi nhiều đời sau mới thành quả. Đây gọi là “nhân quả dị thục thời”. Nghĩa là như ai đó giết một người để đoạt của cải và phi tang, trong đời nầy chẳng ai tìm ra được manh mối kẻ chủ mưu, xem như vụ án đã bị lãng quên, nhưng vào thời điểm của nhiều đời sau nữa, nhân quả xoay vần qua nghiệp lực chi phối, kẻ giết người kia phải đền tội. Cho nên người xưa thường nói: Thiên địa bao la, nhưng lưới trời mắc phải là vậy. Tránh được chỗ nầy, nhưng phải bị mắc bẫy chỗ kia. Đấy là nhân quả.
Nhưng cũng có lắm người không tin nhân quả cho lắm và họ bảo rằng: Nếu nhân quả là đúng thì tại sao có nhiều người trong đời nầy họ làm quá nhiều chuyện ác mà họ vẫn giàu có, của ăn của để; ngược lại có những người làm phước, bố thí, cúng dường, phóng sanh, giúp đời, giúp người rất nhiều nhưng cuối cùng vẫn hoàn nghèo khổ? Giác Hoàng khi nghe những câu hỏi như vậy mới cảm thông cho việc học Phật của người dân và nhân đây đã tiếp tục trả lời cặn kẽ cho họ rằng:
Giống như ai đó mắc nợ người khác hằng trăm, hằng ngàn quan tiền, kiếp trước chưa trả hết được, thì dầu cho kiếp nầy có làm ra được bao nhiêu đi chăng nữa, nhưng tiền của vẫn bị hao mòn, không thấy dư giả gì cả là vì cái lỗi ấy. Cái lỗi là nợ cũ trả chưa xong thì bây giờ làm sao mong cho sinh ra lời nhiều được. Đồng thời những người trong hiện tại tuy họ vẫn làm ác nhưng thấy gia trang họ cao quý vô cùng, nhà cao cửa rộng, đó là vì lẽ cái dư báo của ngày trước vẫn còn thừa, nên kiếp nầy hưởng tiếp cái phước của kiếp xưa nên mới được như vậy. Phải nhìn cho xa và hiểu cho rộng như vậy thì mới hiểu được luật nhân quả mà Đức Phật đã dạy tự ngàn xưa được. Bằng không, các ngươi cứ chuyên làm ác và chờ quả lành mang đến, thì việc nầy sẽ không bao giờ xảy ra trong cuộc đời nầy.
Sau khi nghe giới thứ nhất không được sát sanh như thế, nhiều người đã hiểu đạo và xin Giác Hoàng cho phép họ quy y Tam Bảo và thọ trì giới không sát sanh. Ngài rất hoan hỷ và truyền giới cho họ. Tuy rằng Ngài chưa thuyết giảng đủ năm giới cũng như những điều thiện còn lại trong Thập Thiện Nghiệp Đạo. Ngài cảm thấy an vui tự tại và cảm thấy rằng việc quyết định xuôi Nam của Ngài là điều tốt đẹp để thể hiện hạnh đầu đà của Ngài cũng như có cơ hội để tiếp cận đến dân chúng nhiều hơn là lúc còn làm vua ở Thăng Long hay khi lên làm Thái Thượng Hoàng nơi phủ Thiên Trường, và chính Yên Tử Sơn mới là nơi dưỡng thần trợ lực cho mình, nên khi đi càng xa Yên Tử, Ngài cũng cảm thấy chạnh lòng. Tuy nhiên tâm thức của Giác Hoàng bây giờ đã dày dạn với gió sương và không vì bất cứ một nghịch duyên hay sự thử thách nào mà Ngài có thể lùi bước chồn chân được. Ngài đã từ trên ngôi cao nhìn xuống muôn dân, đã thấy được nỗi khổ của loài người và nay chính là lúc thân chinh vào sự khổ đó, cũng giống như muối bây giờ không còn trong biển cả hay ruộng đồng nữa, mà muối nầy đã hòa tan vào cơm canh hằng ngày, cốt dưỡng nuôi những thể xác của con người, thì đây mới là ý chính của người muốn mang Đạo vào Đời ấy. Giác Hoàng đã thành tựu được sở nguyện của mình.
Ngài tiếp tục chống gậy trúc đi về hướng đèo Cả, rồi đèo Ngang và qua cả sông Gianh… đâu đâu cũng là giang sơn cẩm tú, cảnh đẹp lạ lùng. Trên cao không có một bóng mây che phủ bầu trời, dưới sông, trên biển nơi nào cũng trong vắt một màu xanh, màu của hy vọng, màu của thiên nhiên đẹp như thiên thần của thuở ban sơ cùng đất trời vạn vật. Giác Hoàng thấy dân tình vẫn còn khốn khổ, tuy nhiên họ chịu nghe Ngài giảng giải đạo lý và nhất là Phật Pháp cũng như việc bỏ dữ làm lành, tránh sát sanh hại vật v.v… Đến nhiều địa phương khác nhau như thế, Ngài đã bắt đầu giảng về việc không trộm cướp. Ngài nói:
Ăn trộm, ăn cướp và ăn cắp nó không có giống nhau. Vậy thế nào là ăn trộm? Ăn trộm như đào tường, khoét vách của nhà người khác, rồi lén vào lấy tất cả đồ đạc của quý giá trong nhà người ta khi có mặt hay khi vắng mặt, đều gọi là ăn trộm cả. Còn ăn cướp là những vật quý giá như vàng bạc, ngọc ngà châu báu người ta đang để đâu đó trong nhà hay mang tài sản ấy trong người mà mình dùng uy quyền hay sức mạnh để cướp bóc, cố đoạt lấy tài sản kia, thì gọi đó là ăn cướp. Ăn cướp có thể vào ban ngày, mà cũng có thể vào ban đêm. Còn ăn cắp có nghĩa là chôm chỉa, chờ cho người khác lơ đểnh, mình đánh cắp, cố làm cho người ta không chú ý đến mình. Đây là những tội thuộc về trộm cướp tài sản của người khác. Bất luận việc ấy quý trọng như vàng, bạc, kim cương hay cây kim sợi chỉ, nếu người ta không cho thì mình không được lấy. Lấy những vật như vậy đều thuộc về tội trộm cắp cả.
Người dân muốn làm ăn sinh sống yên ổn, không phải bị kiện tụng ở chỗ quan lại, pháp đình; người Phật tử không muốn hại lòng từ bi của mình, thì hãy tránh xa và dứt trừ việc trộm cắp kia. Chúng ta không trộm cắp mà còn phát tâm bố thí để cho lòng từ bi tăng trưởng. Bố thí không nhất thiết phải bằng tiền bạc, mà có 3 cách như sau: Đó là tài thí, pháp thí và vô úy thí. Nếu kẻ nào cần tiền bạc trong lúc túng quẩn, mà ta có khả năng thì cũng nên cho họ ít nhiều. Sự cho và cách cho không bao giờ mất đi cả. Chỉ khi nào chúng ta cố giữ một vật gì đó, vật ấy lại dễ đánh mất khỏi tầm tay của mình. Cũng có nhiều kẻ không cần tiền mà cần sự hiểu biết, cách xử sự trong cuộc sống, thì ta nên biếu cho họ giáo pháp của Đức Phật để họ tu trì. Vì Đức Phật cũng đã dạy rằng: “Nước trong biển cả chỉ có một vị, đó là vị mặn của muối và giáo pháp của ta cũng có một hương vị, đó là hương vị của sự giải thoát”. Ai hành theo pháp của Phật một cách miên viễn, sẽ được thoát ly khỏi sanh tử luân hồi. Trong cuộc sống nầy người ta có nhiều nỗi lo sợ không có căn cứ. Ví dụ như sợ đói nghèo, sợ bịnh tật, sợ xa lìa người yêu thương v.v… thì ta hãy làm sao tạo ra một sự tin tưởng và giải thích giúp đỡ họ để họ không còn hoảng loạn nữa, mà vui với những gì đang có. Đây gọi là vô úy thí.
Đến điều thứ 3 trong 10 điều lành của Kinh nầy thuộc về việc tà dâm hay tà hạnh. Nay ta chỉ trùng tuyên lại lời Đức Phật dạy tự ngàn xưa thôi và chính ta cũng hành trì giới nầy, nên tâm rất được an lạc, tự tại. Thông thường ông bà ta thường hay nói “Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn”. Đó chỉ là lý thuyết, còn trên thực tế khuynh hướng của người đàn ông, con trai bao giờ cũng là khuynh hướng muốn chiếm hữu, nghĩa là chiếm xong người nầy, lại muốn chiếm tiếp người khác nữa. Đây là lòng dục mà con người phải ngăn ngừa. Ngay như Vua cõi trời Đế Thích có đến 3.000 người vợ, nhưng đâu có đủ và các ông vua Trung Hoa cũng thế, có đến 999 bà Hoàng hậu và cung phi, nhưng cái muốn của người đàn ông nó không dừng tại đó. Ta đây cũng vậy khi còn làm vua và Thái Thượng Hoàng, ngoài Chánh cung Hoàng hậu Khâm Từ ra, ta còn không biết bao nhiêu là cung phi mỹ nữ ngày đêm cận kề bên ta nữa, nhưng đến khi đi xuất gia vào ngày mồng 8 tháng 2 năm 1294 tới nay ta chỉ sống một mình đơn lẻ, lấy giới luật làm đầu mà có khi nào ta thấy thiếu thốn đâu. Nếu ai xả bỏ tất cả thì sẽ được tất cả, còn nếu ai đó lúc nào cũng cố thủ và chấp trước thì phải khổ thân trong đời nầy và nhiều kiếp trong tương lai nữa. Các ngươi là người tại gia, không ai cấm việc dâm dục cả, chỉ trừ những ngày thọ Bát Quan Trai Giới mà thôi. Phật chỉ có cấm tà dâm, nghĩa là cấm chồng hay vợ làm việc tà vạy, đã có vợ nhà rồi thì không đi thông đồng với người đàn bà, con gái khác và đã có chồng rồi thì không được lang chạ với người đàn ông, con trai khác. Nếu làm trái lại những điều trên đây thì tình nghĩa của vợ chồng sẽ dễ bị tan vỡ. Nếu lòng dục không chừa bỏ thì muôn đời nghìn kiếp chỉ làm người và các loài chúng sanh trong 3 cõi, không thể thoát khỏi cảnh luân hồi sanh tử. Cho nên Ngài Long Thọ, Tổ Sư của Trung Quán Luận ở Ấn Độ có dạy rằng: “Tất cả mọi cơn dục của thế gian nầy đều giống như những cơn ngứa, nếu càng gãi thì chúng càng ngứa. Tốt nhất là hãy đừng gãi nó”. Nói thì dễ chứ làm thì khó lắm. Phải tập sự đứng đắn, quyết tâm như tu tập hơi thở hít vào, thở ra trong khi Thiền định vậy. Khi Phật còn tại tiền, Ngài đã dạy về An Bang Thủ Ý Kinh cũng không ngoài niệm hơi thở nầy và sau nầy chư Tổ truyền Phật giáo sang các nước Á Châu khác thì dạy thêm Thiền Minh Sát để phát triển trí tuệ. Còn ta, ta chưa dạy Thiền Trúc Lâm cho các ngươi, vì ta cảm thấy rằng căn cơ của các ngươi chưa khế hợp. Hãy chờ một thời gian nữa ra sao, ta mới quyết định.
Còn khuynh hướng của người đàn bà là khuynh hướng nương tựa. Chỗ nào có nơi tựa nương là nữ giới vui rồi. Ví dụ như nương vào người chồng lý tưởng, nương vào con, nương vào cháu, nương vào bạc vàng, quyền cao tước trọng v.v... Khi nào sự nương tựa ấy không còn được như ý nữa thì người nữ sẽ tìm cách lánh xa, mong đi tìm cái khác để làm thoả mãn lòng dục của mình. Cho hay người nam hay người nữ cũng giống nhau về tánh dục; chỉ khác nhau ở hình tướng mà thôi! điều quan trọng là mình phải biết tự làm chủ mình; nếu tâm mình không tự làm chủ được thì ma chướng sẽ ngự trị tâm của mình vậy.
Bây giờ đến việc nói không thật, có đến 4 cách khác nhau.
Đó là nói dối, nói lưỡi đôi chiều, nói lời thêu dệt và nói lời hung ác. Thế nào là nói không thật? Đó là chuyện có nói không, chuyện không nói có. Chuyện thấy nói không thấy, chuyện không thấy nói thấy v.v…
Còn nói lưỡi đôi chiều là đến người nầy nói chuyện dở xấu của người kia, đến người kia nói chuyện dở xấu của người nầy, khêu gợi tánh tranh đấu của hai bên với nhau, làm cho tình cảm của họ bị sứt mẻ, sanh lòng oán giận nhau. Tiếng bình dân gọi việc làm nầy là: “Đâm bị thóc, thọc bị gạo”. Mình chỉ muốn mình là tốt, còn mọi người chung quanh phải xấu hơn mình thì mình mới an vui.
Còn nói lời thêu dệt nghĩa là như thế nào? Đó là cách nói thêm bớt không đúng sự thật. Mình không phải như thế nầy, câu chuyện không phải như thế kia, nhưng mình thêm mắm giặm muối vào để cho câu chuyện được linh động, hay ho, nhằm lung lạc ý tưởng người nghe, khiến cho họ phải chao đảo, ngả về phía mình.
Cách nói thứ tư là nói ác khẩu, nghĩa là nói những lời thâm độc, thô ác làm tổn thương người khác hoặc khiến người nghe phải sợ sệt lo âu.
Người