Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần Một

02 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 6201)
Phần Một

SỰ CỐNG HIẾN CỦA ĐẠO PHẬT

CHO CUỘC ĐỜI
Truyền Đan

Phần Một

Xã hội con người từ buổi sơ khai đến nay đã tiến hoá rất nhiều. Riêng trong khoảng 200 năm gần đây, nền văn minh khoa học kỹ thuật tại tây phương đã đi những bước dài trong nhiều lãnh vực, cung cấp cho con người nhiều tiện nghi trong đời sống, chống lại bệnh tật, mở rộng tầm hiểu biết về môi trường xung quanhvũ trụ. Hầu hết dân chúng tại những nước đã phát triển và một số người giàu có tại những nước đang phát triển đã hưởng thụ được những ích lợi kể trên, còn lại đến hai phần ba dân chúng thế giới vẫn sống trong những điều kiện khó khăn, có khi là tồi tệ.

Nhưng ngoài những vui sướng giác quan do văn minh vật chất và tiền bạc đem lại cho những người may mắn đó, đời sống nội tâm của mọi người bất luận giàu nghèo từ cổ lai đến giờ hình như vẫn vậy, đã không khá mà còn có thể phức tạp hơn. Ta có đọc bộ Lịch-Sử Văn-Minh Thế-Giới của Ông Bà Will Durant, nhất là phần kết luận được cụ Nguyễn-hiến-Lê dịch ra tiếng Việt dưới tựa đề Bài Học Của Lịch-Sử thì sẽ nhận thấy, so với hồi xưa, tâm tánh con người bây giờ còn kém đi và tự thân vẫn gây ra nhiều đau khổ cho chính mình.

Bắt đầu từ các vị cao niên, ngày nay, ta thấy đa số người lớn tuổi sống tại bất cứ quốc gia, chủng tộc nào, thuộc bất cứ giai cấp, địa vị nào, đều mang một tâm trạng ít nhiều ưu phiền. Người giàu có, mạnh khỏe thì hoặc cô đơn, trống trải, hoặc ưu tư việc đã qua hay hiện cókhông vui; người nghèo khó, bệnh tật, gia đình bất hòa, thì càng bất mãn với số phận, có khi còn đem lòng oán hận. Cũng có một số ít cụ may mắn được hoàn cảnh tốt đẹp, gia đình con cháu hiếu thảosung túc, có sức khỏe khá tốt, được nhiều người quí trọng, quí vị này nhiều lúc cũng thấy mãn nguyện.

Thế nhưng cảm giác này không được hoàn toànliên tục vì các cụ đôi khi còn thấy một lo lắng, một mơ ước xa xôi, vì hàng ngày nghe những tin về những tai ương, bất trắc, những tan vỡ, tổn thất xảy đến cho những người khác, các cụ không khỏi nhủ thầm trong tâm rằng chẳng có hạnh phúc nào vững chắc lâu dài. Cũng có vị thấy đời sống hàng ngày thật nhàm chán, không có gì thật sự vui lâu, chẳng có gì thật sự có ý nghĩa, mà tuổi mỗi năm một nhiều, sức một kém.

Tình trạng dao động tâm lý thật ra không riêng của người lớn tuổi mà ngay cả những người trẻ, còn rất trẻ nữa, trong tuổi thiếu niên, cũng đã là nạn nhân. Thật tội nghiệp cho một số thanh thiếu niên đã tìm lối thoát trong bạo hành, rượu, ma túy, và cả tự vận. Người trung niên hình như sống vững hơn, không hẳn là họ không có những ưu phiền, lo lắng, mà do vì họ đang phấn đấu để xây dựng tương lai sự nghiệp nên vẫn cố gắng lướt qua hoặc quên đi.

Ngoài ra, còn một số người đang độ thanh xuân hoặc đang làm ăn phát đạt, họ thật sự đang có những thời gian sung sướng do hưởng thụ tài sản và tình yêu. Nhưng niềm vui chẳng bao giờ được hoàn toàn vì trong tâm luôn luôn còn có điều bất ổn từ một đe dọa gần xa, một tham vọng lớn hơn chưa thoả mãn, mà rồi vận may, hạnh phúc nào sớm muộn cũng chấm dứt và hoa mộng nào cũng tàn phai, cuộc kinh doanh nào cũng hết thịnh đến suy, đến lúc đó thì những người yêu đời biến thành triết nhân cả.

Còn những người sanh ra trong cảnh khó khăn, lớn lên trong sự thiếu thốn, ngu dốt, nghèo đói, chịu thiệt thòi vì những bất công xã hội, không có một cơ hội nào để thăng tiến, thì họ hoặc phải âm thầm tủi nhục chấp nhận một đời sống cực khổ, đen tối, hầu như vô tận, hoặc bị đẩy vào những tội ác để sớm muộn phải tiêu ma cuộc đời.

Còn có một bất hạnh lớn, đó là sự điên rồ của con người. Bệnh này từ nhẹ đến nặng, rất nặng, hình như không có một ai tránh khỏi, từ người ngu si dốt nát đến người thông minh trí tuệ, học giỏi tài cao, từ nghèo hèn đến sang giàu, từ hạ tiện đến quyền thế, mà hình như càng sức mạnh, tiền tài, khôn ngoan, danh vọng, quyền thế càng cao thì bệnh càng dễ nặng. Xét cho cùng thì người tốt, người hiền chỉ là người điên ít mà thôi, còn người bệnh nặng thì đều đã biến thành quái vật. Chúng giết từ một người cho đến cả muôn, triệu người, tất cả đều thản nhiên hành động vì kiêu căng, hận thù, vì tham vọng quyền thế, tiền tài ... họ nhân danh con người, nhân danh quốc gia chủng tộc, nhân danh hoà bình hạnh phúc ... và có khi nhân danh cả Thượng-Đế để cướp đoạt, để sát hại, để làm chiến tranh.

Mỗi khi có một quái vật như vậy thì cũng có cả trăm, ngàn kẻ hùa ăn theo, gieo rắc đau thương chết chóc cho cả trăm ngàn, cả triệu người vô tội, bất kể người già, phụ nữ, trẻ em. Con người thật là loài sinh vật thông minh tài giỏi nhất, nhưng khốn thay, cũng là loài ngu xuẩn điên khùng nhất, độc ác bạo tàn nhất đối với nhau. Nhớ lại hình ảnh của một số cuộc chiến gần đây, từ Hitler, đến Staline rồi Polpot, từ Afghanistan đến Bosnia, từ Sudan đến Somalia và Rwanda, nhà tan cửa nát, thịt đổ xương rơi, sự đau đớn và cái chết, máu và nước mắt của hàng nhiều ngàn, nhiều trăm ngàn, hàng triệu nạn nhân vô tội, không liên can gì đến mà bị thảm sát tàn nhẫn hoặc bị bỏ chết đói hàng loạt, có khi trước sự làm ngơ cho phép của quốc tế ( gần đâyLiên Hiệp Quốc tại Rwanda, Khối Liên Phòng Bắc Đại Tây Dương tại Sebrenitza) cũng chỉ thức tỉnh được lương tâm một số người nhưng phải bó tay vì bất lực, vì yếu hèn trước ý muốn của những thế lực lớn. Nhân loại vẫn tự gây đau khổ cho mình và chẳng bao giờ tự cứu được mình. Bi kịch này vẫn có tự ngàn xưa và chẳng bao giờ chấm dứt, phải chăng số phận của loài người cố định là vậy?

Chúng ta có muốn tránh né bao lâu rồi cũng đến lúc bắt buộc phải đối đầu với thực chất của cuộc đời. Những người nhạy cảm hơn như các văn nghệ sĩ và những người bản chất ưu tư thì sớm nhận ra nó. Nhận rakhông giải quyết được gì, dùng văn chương nghệ thuật để nói lên lòng khao khát tự do hạnh phúc, hoặc cảm giác từ ngậm ngùi đau sót đến bất mãn nổi loạn, phát sinh từ tan vỡ, từ tuyệt vọng, do đó mà số lớn tác phẩm văn chương nghệ thuật danh tiếng cổ kim đều nồng đượm hương vị cay đắng của đời. Cái đau, cái khổ bỗng nhiên lại được dồi phấn thoa son, trở thành vẻ đẹp của thế gian, "tình chỉ đẹp khi còn dang dở" là một thí dụ, con người trở lại ca tụng cái đau thương đang hành hạ mình, vùng vẫy không thể thoát ra.

Tôi nói dông dài có thể cũng đã bị cho là điên, hẳn có người trách: Thế gian này hơn sáu tỷ người rồi, dù khổ bao nhiêu mọi người vẫn cứ phải tiếp tục sống. Cuộc đời là vậy, có vui có buồn, có sướng có khổ, làm gì có tuyệt đối mà tìm? Tại sao không tìm cái vui ngay trong cái buồn, cái sướng bên cái khổ, con người phải dùng ý chí mà vươn lên, mà lướt qua, nói như tôi là bi quan yếm thế, chỉ nhìn một mặt của cuộc đời, là bày đặt ra một vấn đề không thể giải quyết, chỉ làm cuộc đời đen tối thêm.

Nói vậy thì cũng tương tự như lý luận của mấy ông đại lãnh tụ hay những ông tướng cầm quân, là cứ phải "tỉnh đi để lo việc lớn", cho là nếu cần hy sinh cả chục, trăm ngàn quân hoặc cả triệu thường dân để đạt một thắng lợi chiến lược thì vẫn cứ phải thản nhiên mà làm, vì "cứu cánh biện minh phương tiện". Nhưng giả thử chính các ông đó nằm trong đám người bị hy sinh nói trên, hoặc chính họ là những người phải nhận sự đau đớn, tổn thất, chết chóc cho mình hay gia đình mình, thì họ có sẵn lòng vui chịu không? Khi còn có địa vị quyền thế, khi đang sống trong giàu sang sức khỏe, thật ít người muốn nghe muốn biết nỗi khổ của kẻ nghèo hèn, bệnh tật, chỉ khi chính bản thân mình, gia đình mình lâm vào hoàn cảnh thiệt thòi, đau thương thì mình mới đặt ra vấn đề để đòi hỏi được giải quyết. Cũng may, nhân loại vẫn có nhiều con tim biết rung cảm trước cái khổ của đồng loại, họ vẫn hy sinh làm việc không mệt mỏi, có khi liều mình để cứu giúp những người bất hạnh, nhất là tại Phi-Châu, Á-Châu, Trung-Nam-Mỹ. Nhưng khả năng có hạn nên đứng trước một Phi-Châu bị tàn hại bởi nội chiến, hạn hán, bệnh nan y, và nhất là sự ngu dốt, kéo dài bất tận và cứ gia trọng thêm, mọi người đều thấy bất lực. Vết thương chung này của nhân loại mãi mãi là mối trăn trở cho những tấm lòng vị tha.

Người nghèo buồn khổ, còn tâm trạng của người giàu sang phú quí ra sao, họ có sung sướng không ? Có lúc có và cũng có lúc không. Ngoài những lúc đang say sưa hưởng thụ vui chơi, nếu như những người đó biết nhìn xuống để tự mãn và an phận, biết rằng ta còn may mắn hơn người khác, thì cũng khá bình an. Nhưng những giây phút ấy, nếu có, nó cũng không kéo dài được bao lâu mà liên tiếp bị tràn lấp bởi những ham muốn, những lo sợ, những suy tư, rồi tự ta ta lại đặt ra những vấn đề, gây ra những mâu thuẫn nơi nội tâmxung đột với người khác. Người nhàn rỗi còn có những cảm giác buồn chán vu vơ tự nhiên nảy sanh, kéo theo là một tâm trạng cô đơn, trống trải, lạc lõng vô cớ.

quê nhà, trong cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80, ai cũng thấy người Việt-Nam mình khổ quá và trước đây ai cũng cho là nếu được qua sống tại Âu Mỹ thì sẽ hết khổ. Năm 1982 tôi có một người em qua định cư tại Hòa-Lan, tôi viết thơ nhờ cậu cho biết: Con người bên đây sống sung sướng, họ đầy đủ về vật chất, chế độ dân chủtự docông bằng, xã hội bình đẳngnhân đạo, vậy ở đó có cần đến Đạo Phật không? hay Đạo Phật chỉ ích lợi cho những dân tộc nghèo khó khổ sở, sống trong bất công, bóc lột, đàn áp từ nhiều phía, tại những quốc gia lạc hậu, đất cát khô cằn, khí hậu thiêu nóng? Thơ gởi đi ít ngày sau tôi được đọc cuốn Le Zen, Sagesse d'Extrême Orient, un Nouvel Art de Vivre của Robert Linsen, trong đó tác giả cho biết nền văn minh khoa học kỹ thuật tại tây phương đã đi quá mau mà con người tại đó không chuẩn bị tâm lý để theo kịp nên đã phát sanh trong tâm tư nhiều khó khăn không giải quyết được, họ sống trong bế tắc, bất mãn, chán nản, không lối thoát. Sau này, tôi cũng được nghe kể lại trong một buổi phát thanh của đài BBC về mấy phụ nữ Anh đã bỏ tất cả, gia đìnhtài sản, qua Ấn-Độ tìm theo mấy ông Guru học pháp giải thoát. Tôi liền viết tiếp cho cậu em bảo rằng khỏi cần trả lời câu hỏi trước kia.

Lúc này, 1994, tôi đã sống tại Canada được bốn năm, đủ thời gian để nhận thấy những vết thương lớn trong tâm tư con ngườixã hội Bắc Mỹ. Tôi đã thấy những buổi họp của Hội Đòi Quyền Chết (The Right to Die Society), diễn giả là những người trí thức, có địa vị, thính giả rất đông, từ thiếu niên đến người già, nam nữ, nhiều người vừa nghe vừa chấm nước mắt. Tôi đã đến trụ sở của cộng đồng những người bệnh aids tại Toronto để nghe tâm sự họ và coi một cuộc triển lãm của họ, đọc những tài liệu, coi những hình, những tượng, nghe những lời thâu băng nói lên tâm tư vừa đau khổ, lo sợ, tuyệt vọng, vừa căm phẫn, thù ghét, trước sự xa lánh của mọi người và trước cái chết đang đến, không tránh được.

Lại còn có hiện tượng nhiều giáo phái hoạt động theo những niềm tin hoang đường, huyền hoặc rất trái ngược với một xã hội văn minh khoa học. Họ thu hút được khá đông tín đồ, gồm cả thành phần trí thức (bác sĩ), nghệ sĩ (nhạc trưởng đại hoà tấu), nhà báo, doanh gia, công chức cao cấp (thị trưởng), gom góp được rất nhiều tiền (OTS có ngân khoản trên trăm triệu đôla), tích trữ súng đạn và thực phẩm dự bị cho ngày tận thế sắp đến, rồi kết thúc bằng một cuộc vừa là tự vận, vừa là thảm sát tập thể. Ông đạo Koresh cho tín đồ uống thuốc mê rồi sát hại và đốt hết căn cứ tại Waco (Mỹ), chết trên 90 người, trong đó có những người từ Canada tới.

Tổ chức Ordre du Temple Solaire đốt hai biệt thự tại Thụy-sĩ giết chết 53 người và sát hại hai vợ chồng với một con nhỏ mấy tháng trốn OTS đến trú tại Quebec, cho rằng họ là giống ma quỷ phản đạo. Hiện tượng này vẫn còn tiếp diễn. Còn nhiều giáo phái kỳ lạ khác nữa đang hoạt động, hình như những tín đồ này vốn là những người bị khủng hoảng niềm tin, với một tâm trạng bế tắc đang vật vờ giữa không gian, nay sẵn sàng ngả theo bất cứ một lý thuyết mới lạ nào để có chỗ bám víu, có khi còn là những con mồi ngon cho mấy ông đạo thủ lợi.

Những nhà đạo đức, những người có tâm huyết, một số người trong giới y khoa còn lo lắng khi thấy nếp sống vật chất hiện nay được mọi người tôn sùng, được xã hộiluật pháp bảo vệ, căn cứ trên quyền tự do cá nhân và khuynh hướng hưởng thụ vô giới hạn về tất cả các mặt, nhất là tính dục, nếu cứ tiến xa mãi, không có một hy vọng giới hạn hoặc sửa đổi, thì những đổ vỡ trong con người, gia đìnhxã hội Âu Mỹ sẽ còn trầm trọng đến mức nào? Giới y khoa đã lên tiếng cảnh cáo rằng sau bệnh aids có thể sẽ phát sanh ra những tai họa ghê gớm hơn nữa, nếu thói quen tính dục hiện nay không được sửa đổi.

Nhưng người nào lo thì cứ lo, từ sau "cuộc cách mạng tính dục" nổ ra hồi giữa thập niên 70 tại Mỹ, tiếp theo là sự xuất hiện và hoành hành của bệnh aids làm rung động các xã hội trên thế giới với số người nhiễm bệnh hàng năm gia tăng quá mức dự trù bi quan của các nhà y học và xã hội học, đến nay những cuộc diễn hành to lớn và ồn ào, phơi bày da thịt của những người đồng tính luyến ái vẫn diễn ra liên tiếp tại những thành phố lớn để đòi quyền lợi, và nhiều thiếu niên mới lớn, có khi chỉ 13 tuổi đã mê mải trong những thú vui thuần xác, tỷ số bỏ học tại các đô thị lớn lên tới 30%.

Chúng đã sớm được học rằng cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi có nhiều tiền và khoái lạc, tuổi trẻ ngày nay có số em mất nhân tính, hung bạo và phạm trọng tội nhiều hơn xưa. Các tiện nghi của đời sống không ngừng được cải tiến và phát minh thêm cũng có cái mặt trái của chúng là hối thúc con người phải cố gắng thủ đắc để hưởng thụ bằng được, phải có nhiều tiền bằng bất cứ cách nào, và con người càng được văn minh vật chất nuông chiều thì càng sống yếu đuối và hư hỏng cả thể xác lẫn tinh thần, rồi càng đòi hỏi sung sướng hơn nữa. Người ta nói rằng chính cái đòi hỏi này là động cơ kích thích khoa học và xã hội tiến lên. Đúng đấy, nhưng nhiều phát minh khoa học kỹ thuật dã là những con dao hai lưỡi và những thích thú giác quanhạnh phúc tâm hồn đã khác nhau mà còn luôn luôn đi ngược chiều nhau nữa.

Vậy là dưới ánh sáng mặt trời, sự bế tắc và đau khổ của con người đã có mặt cùng khắp, mỗi nơi nó mang một hình dạng khác nhau, chẳng phải chỉ riêng những người ngu dốt, nghèo khó ở các quốc gia lạc hậu mới khổ.

Nhiều nhà đạo đức cho rằng chính những tham vọng đã làm tâm bất an và tạo ra mâu thuẫn tranh chấp với người khác, chúng là đầu mối của các khổ, chỉ cần trừ bỏ nguyên nhân đó tức thờihạnh phúc. Lời này có đúng hẳn không, vì cũng có những tham vọng ích lợi cho con người. Nền văn minh khoa học và kỹ thuật hiện nay đang đem lại biết bao tiện nghi cho nhân loại chẳng phải cũng bắt nguồn từ tham vọng sao? Vậy phải là có hai thứ tham vọng: xấu và tốt? Phải chăng tham vọng làm thiệt hại người là xấu, nên bỏ, và tham vọng không làm hại ai mà còn lợi ích cho tha nhân là tốt, nên giữ? Có vẻ như thế, nhưng xét kỹ ta thấy lòng tham có bao giờ chịu dừng lại ở biên giới thiện ác nói trên đâu, ta thấy nó luôn luôn vượt qua, và nó cũng luôn luôn bỏ hẳn lãnh vực thiện để nhảy qua lãnh vực ác.

Đã có những phát minh khoa học nào không bị lợi dụng để tác hại con người, trong những hoạt động xã hội và cả tôn giáo nữa đã có biết bao lạm dụng không tốt? Chúng ta còn thấy nhiều mê tínngu si phát sinh từ tham vọng và lo sợ. Nên, con người muốn được bình an lâu dài, mà chỉ có bình an mới là hạnh phúc, thì không thể tham muốn điều gì vì dầu là tham vọng loại nào, nó vẫn giữ cái đặc tính "thúc ép", nó gia tăng mau chóng và trói buộc mạnh mẽ, không cho con người được an ổn, được tự do tự tại. Cho nên nói tham vọngnguyên nhân của đau khổ, thì chỉ mới đúng được một phần vì đó chưa phải là nguyên nhân đầu tiên. Phải khám phá ra cái đầu tiên này và triệt tiêu nó, con người mới có tự do, hạnh phúc thực sự được.

Nếu cứu xét sâu xa để biết do đâu con người sanh ra nhiều tham vọng, ham muốn thì các nhà luân lý, triết học, đạo học chỉ đưa ra được những trả lời dựa trên suy luận không căn cứ, hoặc lý do hoang đường. Đã có cá nhân nào, do thực nghiệm, đã tìm ra được nguyên nhân đầu tiên của tham vọng?

Điều này có liên quan chăng với sự kiện Ki Tô Giáo gọi là "tội tổ tông truyền"? và phải chờ đến ngày phán xét cuối cùng, tất cả những người chết đứng dậy, những ai đạo đức do Chúa tuyển chọn sẽ được lên Thiên-đàng, nơi đó mới có hạnh phúc muôn đời. 

Năm 1988, hồi còn sống trong vòng quản lý chặt nhân hộ khẩu, một buổi tối mở nhỏ đài BBC, tôi được nghe điểm một cuốn sách phát hành tại Tây Phương. Chủ đề của sách, được giới thiệutư tưởng tiến bộ nhất về con người, đại khái là "Người ta không thể tạc một tượng con người ngay thẳng từ một khúc gỗ cong". Vì nghe nhỏ nên tôi đã không nhận ra rõ ràng tên tác giả cũng như tựa đề Anh văn của sách.

Như vậy, con người đã phải mang một thân phận đáng buồn và hầu như vĩnh viễn không thể nào ra khỏi, cho nên chữ "Hạnh-Phúc", hạnh phúc trọn vẹnmiên viễn, vẫn chỉ có trong ước mơ. Tại sao? Tại vì con người đã được tạo nên từ một khúc gỗ cong, tại vì hắn ta đã lỡ mang một cái tội, một sai lầm từ ông Tổ đầu tiên truyền lại. Nói cho đúng là vì ' Con người đã được sanh ra với một nền tảng tâm linh hư hỏng, vận chuyển không đúng đắn, cho nên những gì tạo tác trên đó cũng đều méo mó, tác dụng không hoàn hảo", và suy ra: tham vọng chỉ là một hệ quả. Do đó mà những công trình của con người chỉ thâu hái được những khoái lạc giác quan nhất thời, kéo dài được phần nào đời sống sinh vật của thân xác, tăng thêm những hiểu biết tri thức mà thôi, chứ không bao giờ thực hiện được hạnh phúc đích thực và trường cửu cho hắn.

Trong tương lai lâu dài, nếu trái đất này còn tồn tại, không chừng hắn sẽ chinh phục được thái dương hệ này và thái dương hệ khác, nhưng không bao giờ hắn có thể làm chủ được tự thân, thực hiện được hạnh phúc cho mình và cho người khác, hậu quảxã hội loài người chẳng bao giờ được thực sự hoà bình lâu dài và cùng khắp. Những thứ tự do mà tới nay nhiều dân tộc đang còn tranh thủ như tự do ngôn luận, hội, họp, đi lại, tin ngưỡng mà dân chúng tại nhiều quốc gia Âu Mỹ đang hưởng thụ, chỉ có tác dụng xã hội chớ đâu có làm cho con người được thực sự tự do. Tự do, khởi đầu và cuối cùng, phải là tự do với chính mình, là tự do tự tại.

Vậy là không có phương thuốc tuyệt hảo, trừ bệnh tận gốc? và ta đành phải chấp nhận những giải pháp đưa đến kết quả tương đối với hy vọng rằng trong tương lai lâu dài, với những cải thiện liên tiếp trong các xã hội, các phiền não thế gian sẽ bớt dần, đời sống tâm tư con người sẽ khá hơn? Hiện nay đã có một số đạo nhân tu tập được một số phép lạ, nhưng có phải là sự giải thoát triệt đểvĩnh viễn hay chỉ cốt để hưởng thụ những khoái cảm nhất thời về tâm lý, hoặc để sống lâu, kéo dài sinh tử ?

Đã có nhiều lời khuyên con người hãy nhìn ra để thấy tất cả những cái đẹp trong thiên nhiên do tạo hóa ban cho, thấy những tấm lòng vị tha, yêu thương của người đồng chủng, thấy những tiện nghi do khoa học kỹ thuật đem lại. Tất cả những tốt đẹp đó là cảnh sắc tươi vui, là hương vị ngọt ngào của cuộc đời, chúng làm ta phấn khởi vui sống, rồi hòa sức mình, trí óc mình, đóng góp vào sự nghiệp tiến hoá chung , cho trái đất này ngày thêm mỹ miều, nhân loại này thêm hạnh phúc. Theo nhạc điệu này, một vị Thiền-Sư tại đây cũng dạy tín đồ mổi sáng thức dậy hãy nhìn ra cảnh vật nở một nụ cười, tự nhủ rằng ta có thêm một ngày vui và trong bước thiền hành, hãy tưởng tượng dưới mỗi bàn chân ta sẽ nở một bông hoa.

Cao hơn nữa, còn có những pháp thiền được truyền bá trong các giới mục đích phát triển trạng thái ý thức thường trực (thức tỉnh), chú tâm vào việc trước mắt để ngưng chỉ vọng niệm lăng xăng, hoặc lắng đọng tâm tư được đôi lúc tịch lặng, nhận thức cảm giác mạnh khỏebình an, hoặc chú tâm liên tiếp kêu gọi ân sủng của Thượng-Đế, Đấng Sáng-Tạo, cầu xin cứu rỗi linh hồn.

Những lời dạy trên đều đáng trân trọng vì chúng có ích lợi. Do hiểu biết, do tự chế, do tự kỷ ám thị, do tưởng tượng, do tập trung tâm ý để cầu nguyện, người thực hànhcảm thấy bình an, vui vẻ, dịu đi phần nào những sôi động trong tâm tư, lắng đọng bớt lòng ham muốn, nỗi lo sợ, oán hờn, nương tựa vào một uy lực cao cả mà mình cố gắng tin tưởng mạnh mẽ để trú ẩn và cũng có ít trường hợp thấy một biến hiện linh diệu mau chóng thoáng qua.

Tuy nhiên, những hiệu quả tương đối vừa kể chỉ có thể gặt hái được trong những hoàn cảnh bình thường, khi người thực hành không có những lo nghĩ lớn, và chúng chỉ có tác dụng nhất thời và nông cạn. Còn nếu là trường hợp người đang bị bệnh nan y chờ chết, đang bị đau đớn dữ dội vì cơ thể bị thương tích nặng, hoặc người bị tổn thất lớn vì mất người thân, tài sản, danh vọng, hoặc người đang phải đương đầu với một đe dọa ghê gớm từ thiên nhiên, từ xã hội hay từ người khác, thì những phương cách tu luyện kể trên hầu như chẳng có hiệu quả. Vì sao? Vì, chúng đều là những tạo tác của tâm thức, tức cái tâm hư vọng hiện nay, nên chúng chỉ có công dụng hời hợt và tạm thời, trong khi cường độ của sự đau đớn, sự thôi thúc của lo sợ, oán thù, lại tác động mạnh mẽ và liên tục trên thân xác hoặc tâm thần của nạn nhân. Vì chúng không triệt bỏ được tận gốc nguyên nhân đầu tiên của đau khổ.

Con người thực sự có cái thân phận phi lý và đáng thương này, hắn là nạn nhân của những thiên tai do thiên nhiên gây ra, của đồng loại với những ganh ghét, áp bức, bóc lột, chiến tranh, của những bệnh tật nơi thân và những mối ưu tư, lo sợ, giận hờn, tham muốn dằn vặt nơi tâm. Cái thân phận vừa kể đó chính là đầu mối ưu tư căn bản từ cổ lai đến giờ của tất cả những triết gia, những nhà tư tưởng, những văn nghệthế giới. Đạo Phật gọi nó là "việc lớn sinh tử" (sanh tử sự đại), "lớn" vì nó là gốc của tất cả các việc khác trong đời, giải quyết được nó thì mọi việc cũng tự trừ, nếu không giải quyết được việc lớn này thì không giải quyết dứt khoát được việc nào khác cả. Mà con người thì đa số không nhận ra nó, có gặp khổ thì chỉ ở trong khổ mà than vãn, không biết phải làm sao, không tự mình tìm lối thoát ra, khi cái khổ tạm qua rồi thì lại quên ngay, trong lúc vui sướng nhất thời ta có biết đâu rằng nó vẫn liền theo sát sau lưng.

Đức Phật dạy ta nên nhận định rõ ràng, thấu đáo, để giải quyếtdứt khoát, triệt để, tận căn nguồn, thực hiện tự do hạnh phúc chân thậtvĩnh cửu, nếu không thì mãi mãi vấn đề vẫn còn nguyên, cũng như không thanh toán ngay cái gốc mà chỉ chặt lá cành. Thày tôi nói rằng: "Những sai lầm nếu được gột rửa dần dần thì cũng như bứt lá cây. Hôm nay cố gắng bứt được một lá, ngày mai cây sẽ ra một hay hai lá khác, không bao giờ xong việc. Nhưng nếu bứng được cả cái cây lên thì tất cả các lá sẽ tự rụng hết, không cần phải bứt, và chúng cũng vĩnh viễn không mọc thêm được". Như vậy, trong việc tái tạo con người, một giải pháp cục bộ, phiến diện, tạm thời, nếu có tác dụng thì cũng chỉ như một viên aspirin dùng cho cái đau của một ung thư không chịu cắt bỏ.

Nhận ra thực chất cuộc đời, rồi ước mong sao giải tỏa được hết mọi trói buộc nơi tâm, không còn tất cả những ưu phiền vì những đau khổ đang chịu đựng, vì những tham muốn đang thúc dục, vì những nỗi lo sơ, oán thù nung nấu tâm can, cho đến những cảm giác u sầu man máccô đơn, trống trải ... để thực hiện hạnh phúc nơi mình và giúp người cùng đến được chỗ sung sướng ấy.

Với ý niệm này, xin mời quí vị cất bước vào thăm khuôn vườn Đạo Phật.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10204)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11260)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13601)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13751)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22238)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21881)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27412)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17815)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11746)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12334)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25259)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23305)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28617)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22792)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25740)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22327)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14016)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13451)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22513)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26417)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18499)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18982)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34547)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27405)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28451)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21420)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14920)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19231)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10633)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18589)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15671)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13202)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13433)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14044)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11807)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11640)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11351)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11911)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19956)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12403)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13951)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13280)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 32011)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13449)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12766)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13342)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11907)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21893)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11104)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12916)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant