Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Milarepa kể câu chuyện của mình

08 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 7535)
1. Milarepa kể câu chuyện của mình

1

Milarepa kể câu chuyện của mình


Một lần nọ, Milarepa bậc vĩ đại của những thiền giả, sau khi ở suốt mùa đông trong núi tuyết Lachi, đầu mùa hè đến khất thực trong vùng lân cận Nyekha xứ Tsang. Ngài đi vào làng và nói với vài người ở đó : “Chúng tôi những thiền giả có lời nguyện khất thực ở “cửa nhà đầu tiên”. Người sùng đạo nào trong các bạn cho chúng tôi một ít thức ăn.”

Một thí chủ trả lời : “Tôi sẽ cho thầy một bát thịt cá.” Nhưng Mila nói với người ấy : “Tôi không ăn thịt của những sinh vật bị sát hại.”

“Thầy không ăn thịt của sinh vật bị giết ư ! Thật lạ lùng ! Tôi không có thức ăn nào khác.” Người ấy bỏ đi, nhưng Mila vẫn đứng yên. Cuối cùng thí chủ trở lại với một bát đồ thừa có nước sữa chua, nói : “Tốt lắm, thầy có thể ăn thứ này.”

Mila ăn và khi sắp sửa đi, một nhà sư có mặt ở đó nói : “Thầy không biết cả một sự hồi hướng hay cầu xin sao ? Thầy không thể tìm được ngay cả một chiếc áo khoác sao ? Thầy từ đâu đến ? Thầy sắp đi đâu ? Nếu thầy biết thế nào, hãy hát cho chúng tôi một bài ca.”

Rồi Jetsušn hát bài ca này :

Lama chân thật quý báu
Viên ngọc như ý mà chỉ nhớ đến là đã đủ,
Con cầu xin ngài bằng lòng sùng mộ nhiệt nồng
Hãy ban phước cho đứa con sùng tín của ngài.

Tôi đã đến từ những sườn núi Lachi
Sừng sững trong miền Nyanang.
Giờ đây tôi không có chỗ đến nhất định.

Tôi chưa từng góp nhặt chút tài sản nào ;
Như một người ăn xin tôi nhận vật gì đến.
Khi được cho thức ăn tôi làm như sau :
Trong ngôi nhà này là nền tảng
Thân huyễn này được tạo ra từ bốn đại,
Tôi chuyển hóa các đại, khí, kinh mạch và hạt
Thành hóa thần bổn tôn dựa trên các thứ ấy.
Tôi biến thành cam lồ bất cứ thứ gì tôi ăn ;
Và từ miệng của mỗi bổn tôn
Một cái lưỡi trống rỗng bằng ánh sáng vươn dài.(10)

Như một phản ảnh trong gương –
xuất hiện mà không có chất thể –
Bổn tôn dâng cúng cho những bổn tôn.
Thực tại vui đùa trong môi trường của thực tại,
Và trong trạng thái giải thoát khỏi mọi nghiện ngập với ý niệm
Tôi đóng dấu ấn của sự hồi hướng bình đẳng.
Đó là cách tôi hồi hướng thức ăn.

Đôi khi trong núi sâu vắng vẻ bóng người
Tôi tồn tại nhờ vào thức ăn cỏ cây của núi,
thiền định về thức ăn của tôi cũng giống như trên.

Nhưng hầu hết tôi ăn thức ăn của định lực,
Thiền định về thức ăn và sự hồi hướng của tôi
Hòa lẫn với trí không phân biệt.
Tôi dùng thức ăn của sự thực hành bí mật là như thế.

Bây giờ tôi sẽ giải thích cách mặc của tôi :
Thuận với kiểu cách con người thế gian
Tôi bọc mình trong một bộ quần áo vải
thuận theo những người cao cấp
Tôi tồn tại bằng nội nhiệt của trí huệ.

Giống như con thằn lằn và con cóc
Da tôi thô nhám và tái xanh
Và giống như khỉ và vượn
Thân tôi lông xám phủ đầy.

Và giống như con sâu của cây tầm ma
Thân tôi kẻ sọc những đường nhăn bẩn thỉu
Và giống như một đứa bé
Mông tôi không có gì để phủ che.

Theo cách những người hành khất
Tôi tìm thức ăn như một con chim,
Và theo một cách nào, tôi giống như một người giàu có
Với sự sung túc thỏa nguyện bên trong.

Giống như người chết đói
Tôi không để dành thức ăn cho ngày mai,
Và như người điên
Tôi không có ý niệm phải làm gì hay phải đi đâu.

Giống như người rất khôn ngoan
Tôi giữ chắc quyền làm người của tôi,
Và giống như những gã khờ
Tôi không biết gì về những quy ước xã hội.

Giống như người vĩ đại nhất của các vị thầy
Tôi cũng biết làm thế nào để dạy Pháp
Và giống như những con sư tử tuyết vĩ đại
Tôi cũng sống trong núi thẳm hoang vu.

Tôi bắt chước những con chuột túi
Thiền định trong những hang hố dưới đất sâu,
Và giống như những con chồn hoang
Tôi sống trong những hẻm khe rặng núi.

Giống như những thánh nhân cổ thời
Tôi đã gánh vác khổ hạnh một thời gian lâu,
Và giống như chim garuda
Tôi bay vút qua khoảng không của bầu trời.

Ở trên giải thích xong cách thức ăn mặc
Và cách tôi hành thiền.
Bây giờ tôi sẽ hát một bài ca tham thiền,
Vì các bạn nói, “Hãy hát một bài ca ! Hãy hát một bài ca !”
Lời nói bô bô ấy làm tôi vui thích.

Sau khi rời bỏ quê nhà,
Tôi thực hành trong những núi non hoang vu.
Cái nghe bằng tâm thoải máidễ chịu này
Không vướng mắc vào chuyện thuế má, nợ nần và quân đội
Đã được một kẻ ăn xin là tôi, thành tựu
Kỳ diệu thay ! Tình trạng phúc lạc này !

Tôi bỏ lại đàng sau căn nhà đẹp đẽ của cha,
Tôi nào cần sửa sang, che lợp lại mái nhà.
Ngôi nhà bằng đá đẹp đẽ của thiền định này
Đã được một kẻ ăn xin là tôi dựng nên.
Kỳ diệu thay ! Tình trạng phúc lạc này !

Bỏ lại đàng sau cánh đồng phì nhiêu của cha
Tôi thuần hóa đất đai lởm chởm của tâm mình.
Sự phục hóa và mềm dẻo dễ dàng này của tâm,
Sự hoàn hảo rốt ráo này của từ và bi
Đã được một kẻ ăn xin là tôi, thành tựu.
Kỳ diệu thay ! Tình trạng phúc lạc này !

Những người yêu thì bị phiền nhiễu nên tôi không lập gia đình,
Mà chăm sóc người phối ngẫu Tịnh Quang.
Sự kết hợp này của phương tiệntrí huệ,
Sự bất nhị này của trạng thái bổn nhiên,
Đã được một kẻ ăn xin là tôi hoàn tất.
Kỳ diệu thay ! Tình trạng phúc lạc này !

Xa lìa loạn độngmê lầm
Tôi nuôi nấng đứa con của tỉnh giác trống không
Sự rực rỡ này của pháp thân tịnh quang
Trong tự dođiều kiện với mọi định kiến
Đã được dựng lên bởi tôi, một kẻ ăn xin.
Kỳ diệu thay ! Tình trạng phúc lạc này !

Tôi không bao giờ góp nhặt sự sung túc thế gian
dựa vào sự sung túc của thỏa nguyện.
Bảy kho tàng cao cả này
Thoát khỏi những âu lo và phiền nhiễu,
Đã được một kẻ ăn xin là tôi sở đắc
Kỳ diệu thay ! Tình trạng phúc lạc này !

Tự tôi đã hoàn thành niềm vui như thế ;
Nếu các bạn nghĩ đó là phúc lạc, các bạn hãy làm đi.
Thế là các bạn có bài ca tham thiền của tôi.

Tất cả bọn họ đều kinh ngạcđảnh lễ ngài, rồi hỏi : “Bậc vĩ đại của những thiền giả, ngài sinh ở đâu ? Tên của tu viện ngài là gì ? Lama của ngài là ai ? Ngài có đệ tử nào không ? Tên ngài là gì ? Xin hãy nói cho chúng tôi.”

Milarepa hát một bài ca khác :

Bậc Pháp vươngcứu độ cho con người
Dưới chân lama nhân từ của con, con xin đảnh lễ.

Giờ đây, các thí chủ hãy tụ lại ở đây,
Tôi sẽ trả lời ngắn gọn những câu hỏi các bạn.

Sinh quán của tôi là đô thị Kyanga Tsa
Trên đồng bằng Gungthang của thung lũng Ngari.
Cha tôi là Mila Sherab Gyentsen
Và mẹ là Nyangtsha Kargyen.
Tôi được đặt tên là Thošpa Ga,
Và em tôi là Peta Gonkyit.

Khi còn nhỏ cha tôi chết đi,
Sự sung túc cũng mất bởi bà con xấu
Cả ba chúng tôi bị bắt buộc làm việc như tôi tớ.
Mặc quần áo rách rưới như lưới đánh cá
Và được cho ăn như chó, vất vả như lừa.
Mẹ tôi, do uất ức quá độ xúi dục
Bảo tôi đi học bùa chú để tiêu diệt họ,
Nhưng về sau tôi hối hậntrở về với Pháp.

Lama của tôi là ngài Marpa họ Lhodrak
Vì tôi không có gì để dâng cúng ngài
Tôi cúng dường sự phụng sự của thân, khẩu, ý.
Và bằng cách chiết ra cam lồ của những giáo lý thậm thâm,
Ngài ban cho tôi những bí mật tinh túy nhất của tâm ngài.

Không một chút dấu vết của biếng lười
Tôi theo đuổi mục đíchthực tại
Cho đến khi kinh nghiệmchứng ngộ sanh trong tâm tôi.

Tôi đã có vài đệ tử trẻ.
Chúng tôi ở lại trong tu viện toàn hảo của núi non,
Uống nước suối của khổ hạnh
Ăn côn trùng và cây cỏ trên núi,
Hay thỉnh thoảng khất thực làng quê.

Pháp danh của tôi là Dorje Gyentsen,
Nhưng tôi được người ta biết như là thiền giả Milarepa.
Tôi đi bất cứ nơi nào tôi cảm thấy thích đi.
Đây là sự trả lời của tôi cho những câu hỏi các bạn.

Nhà sư kêu lên : “Tôi đã có nghe một vị thành tựu giả tên là Milarepa – ngài đúng là lama ấy ! Bây giờ tôi đã thấy ngài bằng chính mắt tôi và nghe ngài nói bằng chính đôi tai tôi !” Nhà sư ấy lễ lạy và đặt bàn chân Mila trên đầu mình, rồi nói : “Lama quý giá, vào cuối khúc hát ở trước ngài có nói “như chim garuda, tôi bay vút qua khoảng không của bầu trời”. Tôi chắc là ngài không nói dối, nhưng chúng tôi cần một dấu hiệu về sự chứng đắc của ngài.”

Mila hát :

Hiện thân của lòng nhân từ bi mẫn bao la,
Pháp thân toàn khắp của Tịnh Quang,
Pháp giới vương hợp nhất với hư không
Dưới chân Marpa tốt lành con xin đảnh lễ.

Tôi thiền giả Milarepa
Đã từng thiền định với đức tin nhiệt thành.
Sau lễ nhập môn, truyền pháp và chỉ dạy
Tôi thực hành với quyết tâm mạnh mẽ.

Tôi đi vào chỗ ẩn tu và làm những thực hành khó khăn
Cho đến khi chứng ngộkinh nghiệm sanh ra trong tâm.
Tôi thấu rõ bản chất nội tại của sanh tử,
Thấy bản tánh tự nhiên của tâm,
Phá tan xiềng xích của sanh tử, luân hồi,
Và mở tung nút thắt của chấp ngã.
Bóp cổ con quỷ của niềm tin vào cái ta
Và bay vút lên trời xanh bao la khỏi mọi nghiện ngập vào ý niệm,
Tôi nhìn, không bằng mắt cõi giới thấy được,
Nghe, không với lỗ tai, âm thanh của tánh Không,
Ngửi, không cần mũi, hương thơm của trạng thái bổn nhiên,
Nếm, không cần lưỡi, vị ngọt ngào của thực tại,
Đạt đến, không với thân, thân kim cương cầu vồng,
Và, không với tâm thức, chìm đắm trong trạng thái
đại ấn (mahamudra).

Eh ma ! Những sự vật của ba cõi luân hồi
Không hiện hữu – nhưng chúng chỉ xuất hiện !
Chúng xuất hiện – nhưng chính là tánh Không !
Đó là bản chất như huyễn của thế giới hiện tượng.

Về bản tánh của thực tại tôi không thể nói –
Một họa sĩ không có tay
Vẽ những bức tranh trên bầu trời,
Không có mắt, thấy vô số vật
Trong cái thấy hoàn hảo toàn thiện không có chuyển động hay nỗ lực.

Sau khi hát bài ca này, ngài bay lên không trung đến độ cao của một tầng lầu. Người thí chủ kêu lên kinh ngạc : “Đây là một trò bịp huyễn thuật hay ảo tưởng thị giác ?”

Để trả lời Mila hát một bài khác :

Con đảnh lễ dưới chân Lama Marpa
Người đã cho con Phật tánh trong bàn tay của người
Bằng cách đưa con giáp mặt với thực tại
Qua sự hiển hiện của bản tánh bổn nhiên.

Hãy nghe đây, những thí chủ sùng đạo :
Trong thành phố huyễn hóa của sanh tử
Những con người huyễn hóa hoàn toàn lầm lạc ;
Họ tác thành những hành động huyễn hóa trong sáu trạng thái của đời sống.

Chúng sanh, những tạo thành huyễn thuật của nghiệp,
Không biết gì về công việc tạo thành ấy
Nghĩ rằng họ hiện hữu độc lập với sự tạo thành,
Nhưng sự tạo thành tự bản chấthuyễn hóa.

Nào ! Tất cả các bạn tụ họp ở đây hãy lắng nghe –
Hãy nhìn tâm và thân như thế này :
Tâm thì vô bản chất, là tánh Giác trống không,
Thân là một bọt nước của thịt và máu.

Nếu cả hai là một thứ, không thể phân chia,
Thì tại sao lại có một thể xác bị bỏ lại
Vào lúc chết khi tâm thức bỏ đi ?
Và nếu chúng hoàn toàn tách lìa
Thì làm sao tâm cảm nghiệm đau đớn
Khi có gì làm thương tổn đến thân ?

Như thế, những hình tướng như huyễn là kết quả
Của niềm tin vào sự có thực của cái bề ngoài,
Mà không biết sự hợp dòng do nghiệp gây ra này là
ảo huyễn.

Nếu các bạn muốn hiểu sự huyễn này,
Hãy phụng sự một lama thiêng liêng ngài đã xa lìa ảo huyễn.
Hãy thực hành Pháp thiêng liêng hủy diệt ảo tưởng,
chứng ngộ khuôn mặt của tâm không hề ảo huyễn.
Khi ảo tưởng đi rồi, không còn lầm lạc, vô minh.

Bọn họ hết sức kinh ngạc. Vài người ngất đi và thấy một số thị kiến. Đặc biệt nhà sư thành sẵn sàng cho một sự chứng ngộ trực tiếp trạng thái bổn nhiên của tâm. Cuối cùng họ hỏi ngài : “Lama quý báu, mặt kia của vùng này có một chỗ ẩn cư trên núi rất đẹp gọi là Cái Bình của Người Đàn Bà Giàu. Xin người hãy ở tại đó từ đây trở đi, hay một vài năm, hay ít ra là mùa hè và mùa đông này.”

Mila nói ngài đến ở đó trong mùa hè và đi đến Cái Bình của Người Đàn Bà Giàu. Khoảng mười lăm người do nhà sưthí chủ dẫn dắt cùng đi với ngài. Tất cả họ đều học Pháp và được chứng ngộ tuyệt vời do thực hành. Nhà sư đã có thể nhìn thấy mục đích chân thật. Khi ông nhận sự truyền thọ Pháp sâu xa, ông được đặt tên là Wangchuk Dorje. Sau này ông trở thành một thành tựu giả (siddha).

Mila ở lại ba tháng ; họ cầu xin ngài ở lâu hơn, nhưng ngài không nhận. Họ nói : “Nếu ngài nhất định không chấp thuận sự yêu cầu của chúng tôi và phải rời chúng tôi bây giờ, xin hãy ban cho vài khuyên bảo về thực hành trong tương lai đời này và đời tới.”

Mila bèn hát cho họ bài ca này :

Hãy nghe đây, những đại thiền giả, thiện namtín nữ :
Tốt nhất là các người thực hành khổ hạnh
Ở núi non trong suốt phần còn lại của đời mình.
Tốt tiếp theo là lang thang ở nông thôn,
Không thiên chấp, không phương hướng, không dính dấp với cuộc đời này.

Tốt tiếp theo, làm theo như tôi, thoát khỏi quê nhà,
Ít ra cho đến khi đã tự đầy đủ,
Học thánh pháp từ một lama chân chính
kinh nghiệmchứng ngộ – và nhớ những điểm then chốt.

Tránh ba khuyết điểm của một cái bình(11) khi nghe Pháp.
Kiềm chế thân, khẩu, ý và hãy tư duy ý nghĩa của nó.
Bám chắc vào những lời gây tác động.
Ngăn chặn sự bùng nổ của những phiền não.
Hãy làm cho thánh pháp các người đã nghe thành quả.

Về những sự việc của cuộc đời này hãy nghĩ như sau –
Về sự dính líu vào mọi việc rắc rối
Của chính trị và nhà cầm quyền, hãy nghĩ thế này :

Tham muốn đã đạt lại tăng thêm khát khao như nước muối.
Công việc thì không cùng như sóng gợn lăn tăn của một dòng sông.
Thịnh và suy như đầy và khô của một ao nước.

Những thức tình định kiến ám ảnh này
Là một tấm màn che lấp sự sanh lên các cõi cao và giải thoát,
Một móc sắt kéo chúng ta vào các cõi thấp trong sanh tử,
Những hạt giống để sanh đi sanh lại muộn phiền,
Một đám mây dày mưa xuống những điều bất hạnh,
Một tên trộm đánh cướp đức hạnhgiá trị của chúng ta.
Gốc rễ nảy sinh mọi lầm lỗi của chúng ta.

Thăm dò sâu vào căn để của các bạn :
Vô minhlầm lạc là chính các bạn
Định kiến là chính các bạn
Là phái viên do các bạn gởi đến.
Từ vô thủy đến giờ các bạn đã tự kéo mình vào
Đầm lầy của nghiệp xấu trong đại dương sanh tử.

Giờ hãy quán xét mình kỹ càng :
Tự chính các bạn không có màu sắc, không hình thể.
Nếu gởi bạn đi, bạn sẽ không đi.
Nếu giữ bạn lại, bạn không ở lại.
Nếu tìm kiếm bạn, bạn không thấy được.
Nếu nắm bắt bạn, bạn không thể bắt.

Trước kia không biết tự tánh của mình,
Các bạn xoay tròn bánh xe khổ não trong đại dương cuộc sống.
Bây giờ, trong lâu đài của định tâm và an thân,
Hãy quán xét trước mặt bạn với đôi mắt tỉnh giác rạch ròi
Và ở đàng sau người canh giữ sự tỉnh giác trầm tư.
Hãy trở về trạng thái bổn nhiên của bạn mà không cố gắng hay lơ đãng.
Hãy biết con đường buông xả như vậy, những người may mắn kia.

Rồi Mila bỏ đến núi Lachi cùng với Wangchuk Dorje và vài người khác, nơi đó họ tu hành.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10198)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11255)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13593)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13745)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22223)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21877)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27391)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17790)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11741)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12331)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25251)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23296)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28595)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22776)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25724)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22314)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14002)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13442)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22488)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26399)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18490)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18969)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34524)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27392)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28432)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21397)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14910)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19222)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10622)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18580)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15667)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13197)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13423)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14030)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11796)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11635)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11346)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11902)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19950)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12400)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13945)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13277)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31995)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13445)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12759)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13339)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11907)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21874)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11098)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12910)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant