Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

8. Sự bối rối của Rechungpa

08 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 7485)
8. Sự bối rối của Rechungpa

8

Sự bối rối của Rechungpa


Một buổi sáng khi Jetsušn Milarepa và “con” của ngài là Rechungpa đang ở trong động Núi Khối Đỏ, Rechungpa đến gần ngài. Sau khi đảnh lễ nhiều lần, ông quỳ gối chắp tay và nói :

Con tán thán hiện thân của Jetsušn :
Thân thể trần truồng mà sáng chói,
Lời nói hiện bày âm thanh kim cương ngọt ngào không dứt,
Tâm chìm trong cảnh giới thanh tịnh của thực tại.

Con, Rechungpa Dorje Drak,
Sinh trong đồng bằng Gungthang thượng
Có được thân người do phước đức đã gom
Và gặp ngài, bậc cứu độ vinh quang của chúng sanh.

Được dẫn dắt bởi lòng từ bi bao la của Thầy
Con bắt đầu đi vào giáo pháp của con đường sâu xa.
Đặc biệt, con nỗ lực trong giáo lý tummo,
Và khi kinh nghiệmchứng ngộ ban sơ khởi lên,
Thầy đã phát hiện cho con cái tối hậu.
Niềm tin vào cái thấy đã sinh ra ở bên trong,
Và con có được đức tin không lay chuyển.

Jetsušn, rồi Thầy đã nói với con,
“Mọi kinh nghiệm như huyễn xảy ra
Đều là những tạo tác huyễn hóa của tâm.
Hãy đi đến trạng thái thực tại bổn nhiên.”

Đã xảy như thế này :

Con lạc khỏi tỉnh giác trong sáng tự nhiên
Và rơi vào sự xáo động của những ảo tưởng tâm thức.

Đôi khi những ảo giác thuộc đất xảy ra :
Trong khi những biến cố khủng khiếp như bẫy sập, đất chuồi và đá rớt,
Con chú tâm vào thật tánh của chúng,
Và dòng chảy của những hình tướng tư tưởng đa dạng chiếu sáng
Như là những quang minh của ánh sáng rực rỡ, vàng chói.

Đôi khi những ảo giác thuộc nước xảy ra :
Con bị cuốn đi bởi nước trôi ào ạt
Và ném vào những làn sóng của đại dương
Và chúng chiếu sáng như những quang minh màu xanh đậm.

Đôi khi những ảo giác thuộc lửa xảy ra :
Những lưỡi lửa lóe sáng ; và con rơi vào một cảnh rùng rợn,
Bị bao phủ trong lửa đỏ sậm và khói –
Và chúng chiếu sáng như là những quang minh bốc lửa.

Nhưng có khi những ngọn gió lớn gầm thét,
Con bị thổi vào khoảng tối của không gian
Và lắc lư tới lui với âm thanh gấp gáp.
Không có điểm định hướng nào trong tâm
Con bị nỗi sợ hãi cái trống không cùng cực khống chế.

Khi những ảo giác phá hoại ấy xảy ra
Thiền định bị đứt quãng và lạc đường.
Con phải đối phó với điều ấy như thế nào ?
Lama nhân từ, xin hãy nói.

Để trả lời Mila hát :

Với thân, khẩu, ý kính cẩn
Con cầu nguyện dịch giả Marpa
Người đặt con vào con đường không hư huyễn
Bằng cách đập tan chuồng cũi huyễn hoặc.

Giờ hãy nghe, Rechungpa :
Đôi khi đang chú tâm vào trạng thái thực tại
Ảo giác thuộc về đất được kinh nghiệm,
Và cũng như thế với nước, lửa, gió và hư không.
Do chúng mà sợ hãi tấn công,
Những màu sắc sáng tự nhiên của các đại chiếu sáng,
Và những sáng tạo như huyễn và đa dạng xuất hiện.

Thân thể này có được là từ hành động (nghiệp)
Đã tích tập bởi vô minh qua thời gian vô thủy,
Chính cái tâm thức tác nhân chủ yếu
Tiếp tục gieo những hạt của hành động vô minh
Vào miếng đất của tâm thức căn bản.

Từ thời vô thủy đến nay
Con đã lạc mất mình trên cánh đồng bao la của huyễn hoặc
Trong những thân như huyễn tạo thành cách sai lầm đó.

Bây giờ do những giáo huấn của lama
Tâm thức con bị ép lại một chút,
Và những ảo giác gây khổ đau được trải nghiệm
Bởi sự xâm nhập yếu ớt của bốn đại vào cửa những kinh mạch –
Dấu hiệu của sự nới lỏng bớt những kinh mạch bị thắt gút
Và sự khơi động khí và hạt trắng.

Tại sao lại khổ sở hay sợ hãi
Hay kinh hoàng bởi việc này ?
Đó là dấu hiệu khó chịu của sự thực hành tốt,
Một chút nhỏ của kinh nghiệm thiền định
Dấu hiệu mở ra của những kinh mạch,
Sự phát hiện vẻ huy hoàng của bốn đại.

Giờ đây là giáo huấn của lama của con về điều ấy,
Sự cổ vũ của ngón tay ngài chỉ bày –
Hãy mang nó trong tâm, đứa con cao quý !

Nếu con muốn cái thấy của trí huệ thực sự,
Hãy khám phá bản tánh của tâm
Với chính tâm theo lối này :

Tâm này tự bản tánh trong sáng và trống không,
Như hư không tự do với mọi vật ;
Không chút gì hiện hữu
Để có thể biến nó thành một đối tượng cho sự hiểu biết.

Lấy ví dụ, điều này giống như sự bất lực
Của một con mắt để thấy chính nó,
Hay của hư không để phát lộ
Bản chất không thể phát lộ của mình.

Tâm không thể thấy chính nó –
Chủ thể và đối tượng không thể là hai ;
Bởi thế, để thấy tâm
Con phải nhìn và thăm dò bằng con mắt của trí huệ.

Khi thăm dò và khảo sát cặn kẽ
Với sự thẩm sát và khám phá theo lối phân tích
Cái tâm thì giống như tim bấc của một ngọn đèn
Chiếu sáng chỉ qua sự tỏa sáng của chính nó.

Cũng thế, dù cái tâm tự nhiên, tự sáng này
Thì trong sángthoát khỏi mọi che tối,
Nó sanh và diệt theo nhân quả
Trong mỗi niệm của tánh Giác
Và chỉ biết nó qua phân tích quán sát.
Bấy giờ cách thức nào cho sự chứng ngộ ấy ?

Trong chứng ngộ tánh Không nhờ cái giác bất nhị,
Phúc lạc, trong sángthoát khỏi dòng tư tưởng,
Ngay sự chứng ngộ này do cái giác ấy
Thoát khỏi nhị nguyên của chủ thể và đối tượng,
Của người biết và cái được biết,
Thì sự chứng ngộ này cũng chỉ là một quy ước danh xưng.
Hãy biết rằng những quy ước danh xưng
Không thể xem là hiện hữu
Một cách chủ quan, khách quan hay cả hai.

Để tóm tắt, nó như thế này :
Tâm thức nền tảng này
Tự trong chính nó là không có gì hết thảy.
Trong tánh Không của thực tại
Không có người-chứng-ngộ và cái được-chứng-ngộ được chứng ngộ,
Không có người thấy và cái bị-thấy được thấy,
Không có người biết và cái để biết được biết,
Không có người tri giác và đối tượng tri giác được tri giác.

Như thế, bằng cách chặt đứt những giả định lầm lạc của con từ bên trong.
Bằng cách chứng ngộ, thấy, biết và tri giác.
Sự không hiện hữu của bất kỳ một trung tâm nào ở trong tâm,
Hãy hiểu rằng mọi hình tướng này –
Những chuyển hóa đa dạng của tâm –
Là Một Vị trong tánh Không của thực tại.

Trong tánh Không, không có tăng thêm hay giảm bớt
Không có xuất hiện, biến mất hay thay đổi.
Thực tại này của tâm tự giác,
Dầu cho nó xuất hiện như hợp lưu của nhiều lầm lỗi,
Tự bản chất vốn thoát khỏi sanh hay diệt,
Đến hay đi, hay biến dịch sát na.
Trong đó, không có hơn hay thiếu, không đầy hay khuyết,
Không có sự giúp đỡ hay làm hại, không có hiện hữu hay không hiện hữu chút nào.

Thức nền tảng này của Tự Tâm
Không có nền tảng khởi nguyên,
Không có nhân hay duyên tạo tác
Vì sự thường hằng của nó, không có cái gì để cần làm cho sáng tỏ
Trong những chức năng ý thức phù du của nó ;
Và lúc cuối cùng không có sự chấm dứt.

Tánh Giác rốt ráo trong sáng và thông tỏ này.
Không phân biệt với hư không,
Mà chỉ là đồng nhất
Tuy nhiên do những duyên cho đối tượng mà cái nhiều xuất hiện ;
Cái nhiều xuất hiện, mà chỉ là một –
Và trong đó không có đặc tính nào được tri giác thấy.

Mở cánh cửa ra tánh Không của đặc tính (vô tự tánh),
Giác trong sáng thanh tịnh tràn ngập khắp nơi,
Và dầu khắp nơi, không ở nơi đâu một đặc tính có thể được tìm thấy.

Dầu vô tự tánh hiện diện trong trạng thái của thực tại,
Những huyễn hóa chớp nhoáng lóe qua tâm.
Dầu những lỗi lầm đa dạng xảy ra,
Không có căn cứ hay gốc gác nào trong chúng có thể được nắm bắt.

Hãy trau dồi sự hòa nhập này vào trạng thái bổn nhiên
Qua thẩm sát và khám phá triệt để
Bằng trí huệ phân tích.

Như thế, hôm nay ta đã tiết lộ cho con ta
Lời khuyên bảo này của người cha ;
Sau khi thực hiện ý nghĩa tối hậu của nó,
Mong con có phước đức hướng dẫn
Cho tất cả chúng sanh đến giải thoát.

Phadampa Sangye, một đạo sư Ấn Độ có những thành tựu phi thường, đến Tây Tạng năm 1092. Ngài được kể lại trong chương 30 của Một Trăm Ngàn Bài Ca như là một trong năm thiền giả giác ngộ của thời đại. Ngài là một đệ tử của những thành tựu giả Ấn Độ Nagarjuna và Virupa và thuộc về phái Mật thừa của Tu viện Vikramasila. Dòng giáo lý của ngài, được gọi là “Sự làm bình yên khốn khổ” (TT. sdug bsngal zhi byed) đã không tồn tại như một hệ thống độc lập, như ngài tiên đoán trong câu chuyện đó. Tuy nhiên, ngài cũng đem những giáo lý “Cắt Đứt” (TT. gcod) đến Tây Tạng và Nepal và dạy cho nữ thiền giả Nepal nổi tiếng Ma Chig Lab Drošn, người đã sáng tạo ra hình thức “Cắt Đứt” đặc biệt của riêng mình. Hệ thống Cắt Đứt tiếp tục nguyên vẹn đến ngày nay và là dòng phái duy nhất đã truyền trở lại Ấn Độ sau khi phát triển ở Tây Tạng.

Câu chuyện này gồm hai bài ca nổi tiếng – “Bài Ca Điên” và “Bài Ca Không Sợ Hãi” của Mila – cả hai nằm trong Một Trăm Ngàn Bài Ca. Những giáo huấn chót của Phadampa Sangye cho dân chúng Dingri, thành phố phía tây nam Tây Tạng nơi ngài đã lập ra một tu viện và chính Mila thường đi đến đó, đã được đưa vào cuốn sách Sách Tây Tạng về Đại Giải Thoát (của Evans Wentz).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10183)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11233)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13571)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13710)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22180)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21840)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27352)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17765)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11722)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12316)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25237)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23260)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28561)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22756)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25671)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22273)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13982)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13421)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22444)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26335)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18453)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18949)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34481)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27348)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28374)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21358)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14879)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19191)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10613)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18558)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15658)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13174)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13415)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14016)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11785)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11623)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11336)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11882)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19935)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12388)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13936)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13268)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31935)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13426)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12747)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13322)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11878)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21845)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11085)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12890)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant