Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thuật Ngữ

08 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 8474)
Thuật Ngữ

Thuật Ngữ


Ba thân. Ba cách thế hiện hữu và tiếp thông của một bậc giác ngộ. Pháp thântánh Không và sự chứng ngộ tánh Không, Báo thânphương tiện tiếp thông với những thiền giả cao cấp. Hóa thân xuất hiện như một thân thể vật chất trong thế giới, nhưng hình sắc và những hoạt động của nó được điều khiển một cách chủ ý và cốt ở việc giáo hóa, chỉ dạy cho những chúng sanh chưa phát triển. Một thân thứ tư, tinh túy thân hoặc tự tính thân (svabhavakaya) tiêu biểu cho sự hợp nhất của ba thân trên.

Bošn. Tôn giáo bản địa của Tây Tạng.

Bồ đề tâm. Ý định đạt đến giác ngộ cho mình để giúp đỡ, giải thoát cho những chúng sanh khác. Nó không phải là bản thân giác ngộ, mà là sự nỗ lực mong muốn đạt đến giác ngộlợi lạc của chúng sanh. Trong Đại thừa nó là cái bổ sung cần thiết cho quán chiếu thấu suốt vào tánh Không và trong Mật thừa là tiền đề sơ bộ để thực hành thật sự.

cầu nguyện (pranidhana). Sự cầu xin với chư Phật chư Bồ tát nhân danh tất cả chúng sanh, nhằm cung cấp cho họ lợi lạc, cả tâm linh lẫn tạm thời. “Cầu nguyện” gồm cả cầu nguyệnquyết tâm giúp đỡ chúng sanh, cái sau thay chỗ nghiệp và phiền não để tạo ra sự tái sanh và những khả năng siêu thường của một bồ tát.

chiến sĩ (TT. dpa bo). Nhân vật nam của mật thừa.

chủng tử tự (bija). Âm thanh một âm hiện thân một nguyên lý vũ trụ, một thực tại bổn tôn hay một tiến trình tâm linh.

chướng. Hai thứ Phiền não chướng (klesavarana) che chướng sự thoát khỏi khổ của niết bàn. Sở tri chướng (jneyavarana) là những tri giác sai lầm căn bản về thế giới, chúng che ám giác ngộ trọn vẹn.

cõi pháp, pháp giới (dharmadhatu). Thực tại tối hậu của mọi sự.

Dakini. Những vị thần mật thừa, phái nữ, giúp đỡ thiền giả và trông coi sự thực hành và hạnh kiểm của thiền giả.

dấu in (vasana) tập khí, ấn tượng. Những dấu vết tâm thức của kinh nghiệm và hành động quá khứ làm sanh khởi hoàn cảnh sanh tử hiện tại.

đại ấn. Một thực hành cao cấp được xếp vào hàng Vô thượng (anuttara) Tantra Yoga ; nhắm đến sự phát hiện trực tiếp thực tại tự nhiên của thế giới biểu hiện bề ngoài.

định tĩnh (samatha). Sự làm yên tĩnh có hệ thống hoạt động tâm thức nhờ thực hành tập trung nhất tâm. Nó là phương tiện để đạt được tám cấp độ thiền và tiền đề để thực hành quán chiếu phân tích.

geshe (kalyanamitra). “Bạn tâm linh” ; một danh hiệu dành cho một người có thẩm quyền đặc biệt về kinh điển và những chủ đề Phật giáo căn bản.

giác ngộ. Trạng thái Phật quả do hoàn thiện hai kho trí huệcông đứcxóa bỏ hai chướng. Đó là cấp độ chứng đắc duy nhất vượt khỏi sanh tử.

giai đoạn, hai (krama). Hai giai đoạn của thực hành Mật thừa. Cái thứ nhất, giai đoạn phát sanh (utpattikrama) gồm sự phát sanh quán tưởng những bổn tôn và trụ xứ của các vị. Cái thứ hai, giai đoạn thành tựu (utpannakrama) là sự thành tựu của tiến trình này do tri giác tánh Không của mọi hình tướng xuất hiện.

hạt (bindu). “Những chất” của hệ thống tâm sinh lý của thiền giả. Trong mật thừa, bindu trắng hay chất trắng, tương đương với Bồ đề tâm. Nó phải được “nấu chảy” ở trung tâm đầu và “nhỏ giọt” xuống kinh mạch trung ương xuống các trung tâm phía dưới, tạo ra bốn cái “xuất thần”.

hậu chứng đắc. Trạng thái theo ngay sau bất kỳ kinh nghiệm trực tiếp, siêu việt nào về tánh Không, cái này gọi là “trạng thái chứng ngộ thực sự”. Trong trạng thái chứng ngộ thực sự, tri giác về thế giới bề ngoài nhường chỗ cho tri giác về tánh Không của thế giới, nhưng trong trạng thái hậu chứng đắc, tri giác định kiến về thế giới bề ngoài trở lại làm biến chất một cách vi tế kinh nghiệm trước đó.

hiểu biết (jnana). Tổng quát, là hiểu biết hay Trí ; đặc biệt, là trí huệ nhờ đó thế giới giả tạo bề ngoàithật tánh của nó được tri giác đồng thời.

hình tướng xuất hiện, thế giới bề ngoài (TT. snang ba). Thực tại như nó xuất hiện với một cá nhân bình thường. Với một người như vậy, tri giác của họ bị điều kiện hóa, bị méo mó khiến họ kinh nghiệm thực tại trong hình thức những sự vật rời rạc, cô lập. Đồng nghĩa : thế giới huyễn ảo, thực tại giả tạo bề ngoài.

hồi hướng (parinama). Sự chia xẻ với những người khác hành động đức hạnh của mình, thực hành thành công của mình và chứng đắc của mình. Nó cốt ở cầu nguyện, quán tưởng, và thái độ chúng khép lại mỗi thời thực hành, và cũng gồm sự hồi hướng theo thủ tục của những thiền giả khi nhận thực phẩm.

huyễn, hư vọng (mayopama, bhranti). Mayopama, “như huyễn, như một trò huyễn thuật”, nhấn mạnh sự kiện rằng tâm thức làm méo mó kinh nghiệm về thực tại theo kiểu một nhà ảo thuật làm sai lạc những tri giác của chúng ta. Tri giác bị quy định, bị điều kiện hóa của chúng ta khiến cho thế giới xuất hiện như một cái gì không là như vậy.

khí (prana). Những sức mạnh tâm-vật lý của tâm thức, thân thể và môi trường.

kho, hai (sambhara). Hai sự tích tập thần lực cá nhân : kho công đức căn cứ trên hạnh kiểm và nghi lễ, và kho trí huệ. Khi đã đầy đủ, hai kho cung cấp những yếu tố cần thiết để hoàn thành kinh nghiệm trực tiếp về tánh Không.

không phân biệt (niravalamba). Trong trí huệ, tri giác thoát khỏi những sự bị quy định định kiến, chúng đã “tạo ra” những bản sắc độc lập của thế giới giả tạo bề ngoài.

mantra (thần chú). Âm thanh trong hình thức các chữ và lời có thể tương thông với những thực thể các bổn tôn mật thừa, ban cho những thần lực siêu nhiên (siddhi) hoặc làm tịnh hóa và đưa đến chứng ngộ.

niết bàn. Sự dừng dứt của khổ đau cá nhân do nhổ dứt mọi phiền não. Trong Đại thừa, niết bàn được dùng phân biệt với giác ngộ. Giác ngộ bao gồm không chỉ sự nhổ dứt thống khổ mà còn là sự chứng đắc những khả năng chỉ có Phật chứng được và những huệ quán vào thực tại.

phiền não. Những tác động của tâm thức ngăn che sự tĩnh lặng của niết bàn. Có sáu phiền não chủ yếu : vô minh, tham, sân, nghi, kiêu mạn và những tà kiến ; và một số phiền não phụ.

phương tiện (upaya). Sự biểu hiện năng động của Bồ đề tâm. Nó là cái bổ sung của trí huệ ba la mật, làm quân bình những phát giác mãnh liệt của trí huệ và là cái mà bồ tát dùng để liên hệ với chúng sanh, khéo léo (thiện xảo) chuyển mỗi hoàn cảnh thành một cơ hội cho sự tiến bộ của tất cả.

phương tiện xã hội, bốn (samgrahavastu, tứ nhiếp pháp). Bốn thực hành của một bồ tát chủ yếu vì lợi lạc của những người khác : bố thí, giao thiệp tốt, tham dự vào sự phát triển của người khác và phụng sự như một tấm gương cho những người khác.

quán chiếu phân tích (vipasyana). Tiến trình khảo sát chi tiết đối tượng thiền định cũng như là cách thế hiện hữu của đối tượng đó. Nó bao gồm tư tưởng và nhằm thấu rõ tiến trình ý niệm. Kết quả của nó là sự tiếp nhận tri giác trực tiếp về tánh Không.

repa. Một thiền giả đã làm hoạt động nội nhiệt bằng yoga tummo và như vậy chỉ mặc một áo vải mỏng dù trong mùa đông.

Siddha. Thành tựu giả ; người thành tựu những siddhi.

siddhi. Những thần lực siêu thường khai triển từ thực hành yoga : thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, bay lên, tha tâm thông, và kiểm soát được thân thểthế giới bên ngoài. Mọi thành tựu (siddhi) đều là thế gian, sanh tử, chỉ trừ sự thành tựu tối thượnggiác ngộ.

tantra. Những kinh điển của Phật Thích Ca và những vị Phật khác liên hệ đến sự thực hành bí mật, mật thừa.

tánh Không (sunyata). Bản tánh thực sự của mọi sự vật ; sự không có bản sắc, tự tánh của bản ngã con người và của sự vật.

tạo tác (prapanca). Dòng bên trong của sự ý niệm hóa được điều khiển bởi những định kiến đã in dấu. Từ ngữ này gồm cả hai cái : dòng chảy bên trong của tư tưởng tạo dựng và cái ngã cùng môi trường sinh ra từ những định kiến đã in dấu đó.

Thân-huyễn. Thân được tâm thức kiểm soát của một thiền giả thành tựu. Đồng nghĩa : thân-cầu vồng, thân-kim cương.

thiền, những cấp độ thiền (dhyana). Những trạng thái riêng biệt, siêu-vững chắc đạt được qua sự làm định tĩnh tâm thức bằng tập trung nhất tâm. Có tám cấp độ liên tiếp nhau của định tĩnh (tám thiền), loại trừ tư tưởng và những vọng động của tâm thức. Bốn cái đầu thuộc về cõi sắc và bốn cái sau thuộc về cõi vô sắc. Sự kéo dài của chúng thuộc vào sức mạnh của tiến trình loại trừ vọng niệm. Chúng là những trạng thái chung cho mọi yoga và về bản chất hoàn toàn thuộc sanh tử.

thức căn bản (alayavijnana). Thức thứ tám, theo hệ thống Duy Tâm do Asanga phát triển trong thế kỷ thứ năm. Nó là tầng nền của thức cá nhân, mang theo những dấu in của những “chủng tử” của những kinh nghiệm quá khứ và tương lai.

thực tại, hai (satyadvaya). Hai cách thế hiện hữu của những hiện tượng. Thực tại bề ngoài (samvrtisatya, tục đế, chân lý quy ước) là thế giới xuất hiện trong hình thức những bản sắc độc lập theo tri giác bình thường bị quy định bởi những định kiến. Thực tại tuyệt đối (paramathasatya, chân đế, chân lý tuyệt đối) là tánh Không của tất cả mọi hiện tượng, đó là sự không có bản sắc, tự tính độc lập của chúng.

thực tại bề ngoài, thế giới bề ngoài (samvrtisatya). Thế giới như nó xuất hiện khi tri giác bị quy định bởi những quy ước ngôn ngữ. Danh từ “thực tại” nhấn mạnh sự kiện rằng do tính tự nhất quán của nó, nó có vẻ là một thực tại vững chắc với chúng sanh bình thường.

tiệc vòng tròn : Một tiệc cúng được chúng hội dakini tham dự.

tịnh quang (TT. od gsal, Skt. abhasvara). Kinh nghiệm về trạng thái tự nhiên, nguyên sơ, không tạo tác chỉnh trị của tâm thức.

tummo (canda). Sức nóng bên trong (nội nhiệt) được khai triển bởi một loại yoga mật thừa.

tự tánh (svabhava). “Bản sắc nội tại” của mọi sự. Tâm thức bình thường chia ngăn kinh nghiệm của nó thành những đối tượng xuất hiện như những thực thể độc lập, riêng rẽ. Sự vắng mặt bẩm sinh “bản sắc” trong con người và sự vật chính là tánh Không còn gọi là vô tự tánh, nó là cách thế hiện hữu chân thật.

trạng thái tự nhiên (TT. gnas lugs). Cách thế tự nhiên của sự hiện hữu của tất cả mọi sự ; trạng thái tâm thức trong đó kinh nghiệm không bị méo mó bởi những tri giác định kiến về những bản sắc.

trí huệ (prajna). Tổng quát, mọi hiểu biết đúng. Đặc biệt, trí huệ siêu việt (ba la mật), trí huệ trực tiếp về tánh Không của người và vật. Trong một kinh nghiệm như vậy, tri giác về thế giới giả tạo bề ngoài tạm thời bị biến mất.

Vajradhara. Phật siêu sử, nguồn gốc của dòng Kagyu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26277)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21680)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23469)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 14762)
Hiện đại hoá đạo Phật không có nghĩa là thế tục hóa đạo Phật. Đạo Phật đi vào cuộc đời nhưng không bị cuộc đời làm giảm mất đi những đặc tính siêu việt của nó.
(Xem: 12975)
Có thể nói Đức Đạt Lai Lạt Ma là nhà hoằng pháp vĩ đại nhất của PG trong thời hiện đại, và được xem là người có nhiều tác phẩm Phật học được người Tây Phương tiếp nhận và tìm đọc nhất.
(Xem: 19883)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 13834)
Tôi có nhân duyên với Đạo Phật từ khá sớm, hồi còn học trung học vào đầu thập niên 40. Thế Giới ấy đối với tôi là niềm vui thíchtin tưởng càng ngày càng lớn.
(Xem: 22797)
Ðạo Phật dạy rằng tâm là nhân duyên chính khiến ta bị luân hồi. Nhưng cũng chính tâm lại là cái duyên lớn nhất giúp ta thoát vòng sanh tử.
(Xem: 12004)
Chúng ta an vị Phật là rước Phật trong lòng chúng ta đem thờ tại chùa, để khi nhìn thấy Phật tại chùa mà nhớ Phật trong lòng của chúng ta...
(Xem: 12437)
Con đường đưa đến tuệ giác thì sao? Tu thiền định sẽ đoạn diệt vô minh. Cố gắng hiểu biết ba đặc tính của vạn pháp. Không có cái ngã nào biệt lập.
(Xem: 24121)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 13746)
Rõ ràng, đối với đạo Phật, tâm là cơ sở, là đối tượng, đồng thời cũng là công cụ của việc thực nghiệm đời sống tâm linh. Tâm là gốc của sinh và tử...
(Xem: 21110)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, Tenzin Gyatso, có thể nói là một trong những tên tuổi lớn trên thế giớigần đây luôn được rất nhiều người tôn kính.
(Xem: 25715)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 19269)
Bây giờ, tâm thức tồn tại bằng sự tùy thuộc trên nguyên nhânđiều kiện (nhân duyên). Tâm thức hôm nay hiện hữu do bởi tâm thức hôm qua.
(Xem: 23272)
Tenzin Palmo đã kể lại cuộc sống ẩn cư của cô cho Vickie Mackenzie với tất cả lòng nhiệt thành cởi mở. Cô nói về những trở ngại, gian nan cô đã vượt qua, những thôi thúc thử thách mãnh liệt...
(Xem: 21416)
Đức Phật Thích Ca được tôn kính như bậc Thầy vĩ đại, một Thiện hữu, một vị Gương mẫu Toàn giác. Pháp hay giáo lý của Ngài chứa đựng những nguyên tắc căn bản, bất biến của Công bằngChân lý.
(Xem: 18348)
Nhờ Phật giáo, tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi và đem lại hơi ấm cho tim tôi, sự tu tập ấy tỏ ra khá hữu ích cho tôi trong cuộc sống thường nhật.
(Xem: 14017)
Cách tốt nhất để đem đến ý nghĩa cho cuộc đời bạn là khiến nó có lợi cho những người khác, bằng lòng bi mẫn của bạn với họ. Đó cũng là cách tốt nhất để tìm thấy bình an, hạnh phúc...
(Xem: 15502)
Phật giáo và các khoa học vật chất có giao diện to lớn với nhau trên nhiều mức độ triết lý, thăm dò bản chất về nguồn gốc của vũ trụ, và bản chất tối hậu của vật chất.
(Xem: 17906)
Từ xưa đến nay, Đạo Phật luôn khẳng định rằng “số mạng là do mỗi người tự tạo, phước đức đều do chính mình tự cầu.” Như vậy, kẻ làm việc xấu ác tự nhiên sẽ mất phước đức...
(Xem: 21997)
Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minhdịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.
(Xem: 17587)
Ý thức được cái chết là điều hệ trọng: phải hiểu rằng ta không ở lâu trên địa cầu này. Không ý thức được cái chết, ta sẽ không thể tận dụng toàn vẹn cuộc sống của ta.
(Xem: 31010)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 28133)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 14907)
Bằng cách tập trung vào sự kiện của tình trạng bị quy định chặt chẽ và sự cần thiết cho tinh thần phải trải qua một cách mạng, Krishnamurti dẫn chúng ta đến nền tảng chung, đến cái nguồn của cả cá thể lẫn xã hội.
(Xem: 17183)
Tác phẩm Phật Giáo và Khoa Học của giáo sư Phúc Lâm là một trong số ít các tác phẩm về thể tài phân tích Phật giáo dưới cái nhìn của khoa học.
(Xem: 22649)
Ngày nay đã qua, đời sống ngắn lại, Hãy nhìn cho kỹ, ta đã làm gì? Hãy cùng tinh tấn, thiền tập hết lòng, Đừng để tháng ngày trôi đi oan uổng.
(Xem: 28320)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 14051)
Mỗi giây phút trong cuộc sống đều tượng trưng cho một giá trị vô biên. Thế nhưng chúng ta lại cứ để cho thời gian trôi đi như những hạt cát vàng lọt qua kẻ hở của bàn tay
(Xem: 17079)
Thông điệp của Đức Bổntuyên thuyết từ hơn hai mươi lăm thế kỷ, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là thông điệp về sự tỉnh thức, về trí tuệ siêu tuyệt và về lòng từ bi nhân ái.
(Xem: 22332)
Không biết rửa bát thì khi cầm tách trà lên, có thể ta cũng không biết uống trà. Cầm tách trà lên ta có thể chỉ nghĩ đến những chuyện khác mà không biết là ta đang nâng tách trà trong tay.
(Xem: 14197)
Chúng ta cần biết ý nghĩa Giáo Pháp là gì. Giáo Pháp hay Pháp bảo là một từ ngữ tiếng Phạn mà có nghĩa đen là một “phương sách phòng ngừa”.
(Xem: 21504)
Phật giáo nhìn tính dục dưới khía cạnh của sự thèm khátđau đớn : đó là một mối hiểm nguy xô đẩy con người vào cảnh đọa đày của dục vọng và khổ đau.
(Xem: 20849)
Ðức Phật — Ðấng hoàn toàn giác ngộ — thuộc họ Gautama tên là Siddartha. Danh xưng Tất-đạt-đa có nghĩa là Nhất thiết nghĩa thành, Thành tựu chúng sinh...
(Xem: 28592)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 15093)
Tôn giáo được giới thiệu ở đây là một hệ thống giáo dục thiết thựcvăn hóa tinh thần được khám phá ra cho thế gian cách đây chừng 25 thế kỷ bởi một Vị Ðạo Sư hoàn toàn giác ngộtừ bi.
(Xem: 26625)
Cuốn sách mang đến cho bạn đọc những suy ngẫm nghiêm túc về hạnh phúc mà đôi khi có thể chúng ta ngộ nhận hoặc lầm lẫn với niềm sung sướng.
(Xem: 19321)
Đức Phật dạy rằng nếu muốn tự giải thoát ra khỏi thế giới Ta bà thì phải tuân theo ba lời giáo huấn tối thượng như sau : đạo đức, chú tâmtrí tuệ. Khi nào biết noi theo ba lời giáo huấn ấy thì ta sẽ đạt được sự giải thoát cá nhân...
(Xem: 31668)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 30699)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 21041)
Đạo Phật nhận rằng: Vạn vật chúng sinh đều có Phật tính. Con người đều có khả năng thành Phật. Do đấy, con người trong đạo Phậtcon người của mọi tầng lớp xã hội, mọi quốc gia...
(Xem: 26325)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 23620)
Hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thân tướng nữ nhân, tay cầm bình tịnh và cành dương liễu, còn được gọi dưới danh hiệu PHẬT BÀ QUAN ÂM NAM HẢI, là 1 hình ảnh rất gần gũi với dân tộc Việt Nam...
(Xem: 25664)
Vào khoảng đầu năm 1996, tình cờ tôi được xem một bức tranh của họa sĩ Samyot Hananundasule, trong cuộc triển lãm dưới chủ đề "Nhìn lại quá khứ" tại Viện Nghệ thuật Quốc gia Thái Lan.
(Xem: 25484)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 19753)
Cuốn sách nhỏ này trước hết dành cho độc giả trí thức chưa có hiểu biết đặc biệt gì về Phật pháp, mà muốn biết thực sự đức Phật đã dạy những gì.
(Xem: 18525)
Cuốn sách là những chỉ dẫn đơn giản, dễ hiểu về cách nhìn sự vật và cách sống theo giáo pháp của đức Phật, về cách thương yêu chính mình...
(Xem: 17821)
Thiên đườngđịa ngục là những khái niệm hầu như không xa lạ đối với bất cứ ai trong chúng ta. Tuy vậy, trong thực tế thì chúng ta luôn có những cách hiểu và cảm nhận khác nhau...
(Xem: 19099)
Mất đi quê hương vào tuổi mười sáu và trở thành một người tỵ nạn vào tuổi hai mươi bốn, tôi đã đối diện với rất nhiều khó khăn suốt dòng đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant