Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

02

08 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 6184)
02


2

 

Sáng hôm nay, khắp các đường trong thành Ca-tỳ-la-vệ và các thành lân cận, lính nhà vua mỗi người mang một cái trống, vừa đánh vừa rao:

Mời các công nương, mỹ nữ! Tối nay tại cung, Hoàng thượng có mở cuộc thi sắc đẹp. Mời các cô các bà hãy đến dự cho đông. Thái tử sẽ chấm cuộc thi. Mỗi người sẽ được một giải thưởng. Và giải thưởng quý nhất sẽ tặng người đẹp nhất! Mời các công nương, mỹ nữ ! Tối nay tại cung...

Tiếng rao lanh lảnh lách qua rèm, tim các cô thiếu nữ đập mạnh trong lồng ngực theo với tiếng trống thúc giục ngoài đường. Những làn da tuyết ửng hồng, những làn da nâu ửng đỏ, vì máu chạy mau thêm trong huyết quản. Mắt các cô đang xa xăm bỗng bừng sáng lên vì một ý nghĩ: “Ồ được Thái tử chấm thi!” Thế là ngày ấy họ lăng xăng trang điểm để kịp tối vào cung.

Nhà vua mở ra cuộc thi không phải không duyên cớ. Thái tử Tất-đạt-đa đã 19 tuổi rồi. Trên nét mặt ngây thơ trong sáng như gương nước mùa xuân thường lộng thoáng một áng mây buồn. Mỗi lúc gặp con, vua cha liếc thấy không khỏi không liên tưởng đến lời thầy đoán xưa.

Một hôm, Tịnh-phạn vương hội triều thần lại rồi phán bảo:

– Các khanh còn nhớ lời đạo sĩ A-tư-đa nói về Thái tử Tất-đạt-đa chứ? Lòng trẫm mong rằng lời đoán thứ nhất thực hiện, nghĩa là Thái tử sẽ làm một vị Đại vương; nhưng để ý mà xem, thì chừng như Thái tử sẽ bỏ ngôi báu mà ra đi, bỏ lại bao nhiêu công trình quý giá mà mấy mươi tiền triều đã ra công xây dựng. Trẫm hội các khanh lại đây là cốt nhờ các khanh tìm cho trẫm một cách gì để giữ Thái tử lại và đưa về con đường của tiên tổ.

Một lão thần đứng dậy tâu:

– Tâu Hoàng thượng, chỉ có lưới tình là vây được Thái tử. Ngàn vạn sợi dây đồng không buộc nổi những ý tưởng phiêu lưu mà một sợi tóc của mỹ nhân cũng đủ giữ lại dễ như bỡn.

Bá quan đều tán thành lời tâu của lão thần. Nhưng Tịnh-phạn vương lại phán:

– Đàn bà thì chẳng thiếu gì, nhưng sắc đẹp tùy theo mắt mỗi người. Trẫm biết con trẫm thích ai mà lựa?

– Như thế, tâu Hoàng thượng, thì nên bày ra cuộc thi sắc đẹp cho toàn thể tiểu thư trong nước, Thái tử sẽ chấm lấy hoa khôi. Và hoa khôi ấy sẽ là vợ Thái tử.

Thế là theo lời tâu, vua mở cuộc thi sắc đẹp. Trời chưa tối hẳn, đèn trong hoàng thành đã nối ánh sáng của mặt trời. Qua vòm cửa hoàng thành cao vòi vọi, nhẹ trôi một dòng muôn sắc. Đây là tất cả những công nương, mỹ nữ của một nước hiệp lại để làm vui lòng một người. Đây là nơi tụ hội của nhiều lối trang sức khác nhau nhắm một mục đích chung là làm đẹp lòng người vương giả. Trên những làn tóc óng ả đã chải chuốt công phu, họ phủ lên một mảnh lưới dịu và mỏng như tơ trời; và trên những áng da ngời, những khổ lụa mịn như phấn quấn quanh vài vòng, làm nổi bật những tấm thân cân đối như những tượng thần Hy Lạp, và chạy xuống tận đôi gót chân để mỗi nhịp đi là gợn lên những làn sóng cong và mềm như những lưỡi nước liếm bờ...

Họ lần lượt đi ngang trước mặt Thái tử, hai mắt to và đen nhìn xuống mũi giày; những ngón tay bóng loáng–vì mới nhuộm dầu–và suôn sắn như những đọt hải đường kéo lên một chéo áo để khỏi vướng bước chân đi. Nhưng sao những cổ chân tròn trĩnh có đeo vòng kia lại cứ ngập ngừng như sợ đạp phải một cái gì tôn nghiêm thế? Khi họ đến trước mặt Thái tử để nhận một giải thưởng trao từ tay Ngài, họ hạ đầu xuống thấp một chút nữa, để lộ nốt ruồi (Tilka) bóng loáng giữa hai hàng mi cong. Sau khi đã nhận lãnh một món đồ, họ rảo bước mau ra: một oai linh gì làm cho họ ngợp ngợp, khi đi ngang trước Thái tử. Hễ nàng nào được hoan hô đẹp hơn những kẻ trước, nàng ấy bỡ ngỡ đứng lại nhìn quanh, không biết đấy là những tiếng khen tặng mình hay một kẻ sau vừa đến; dưới sự cao cả, điềm đạmoai nghi của Thái tử, các nàng mất hết tự hào, thấy mình nhỏ nhoi và thấp hèn quá. Họ cảm nghe như đi lạc vào một thế giới không phải để đón tiếp mình. Và cứ như thế, một nàng qua, tiếp theo một nàng đến, một vẻ đẹp theo sau một vẻ đẹp. Và cứ như thế họ đi qua... với nhan sắc của họ, may ra còn thoáng chói vọng lại vài ánh kim khí của đôi hoa tai tròn, trước khi lẩn vào bóng tối.

Không nàng nào có thể làm gợn dậy một lượn sóng tình trong lòng Người rất tinh khiết đang ước vọng tuyệt đích ấy. Không một sợi tơ luyến ái có thể vướng víu Ngài với những con bướm vừa mới lướt qua. Nhưng khi giải thưởng cuối cùng đã trao xong thì nàng Da-du-đà-la tiến đến. Thái tử giật mình: chưa bao giờ Ngài thấy một người đẹp đến thế. Nàng đi đến, vây bọc giữa một khung huyền ảolinh động, thân hình nàng đều đặn và thanh cao lạ lùng: hình như bao nhiêu vẻ đẹp của đất trời đều hiệp vào đây để tạo nên một tuyệt tác giai nhân. Làn da hồng mịn thế kia có thể ví được với màu hồng mịn của da trời một buổi bình minh. Hai mắt xanh ướt và thăm thẳm sâu kia là hai hồ nước ngọc. Và tóc nàng dưới làn lưới mỏng, gợn lên từng lượn sóng nhung đen. Nàng khoan thai bước từng bước vương giả như đi vào chỗ quen thân. Nàng đến trước mặt Thái tử, hai tay chắp tréo trước ngực, đầu cúi xuống trong một dáng điệu thanh cao để chào Ngài. Rồi đài các nàng ngước đầu lên, đứng thẳng lại–cổ cao ba ngấn, lộ màu da hồng trên tấm áo trắng tinh. Hoa môi bừng nở nhụy răng ngà, ở đấy cất lên một giọng trong thanh như tiếng bát sứ cổ:

Thái tử còn một vật gì để dành cho em?

– Hỡi người đẹp nhất trong những người đẹp, bao nhiêu bảo vật đã hết rồi. Nhưng nàng hãy nhận vật này thế lại.

Nói xong, Thái tử mở chuỗi ngọc ở cổ Ngài, nắm vào hai đầu mối dây. Chuỗi ngọc xanh ngời, long lanh muôn ánh nến, như một chuỗi hạt nước biếc rung rinh, sắp nhỏ dưới tay ngà. Ngài đeo chuỗi ngọc vào cổ nàng tiên ấy. Nàng sung sướng nhìn Thái tử, cảm ơn. Thái tử nhìn lại sung sướng được ban ơn.

Ngày hôm sau, trong buổi chầu, các quan tường thuật lại với vua cuộc thi sắc đẹp và những dáng điệu của Thái tử khi nàng Da-du-đà-la, con gái của tiểu vương Thiện-giác đến. Nhà vua cười, phán bảo:

– Thế là ta đã bắt được mồi. Bây giờ phải kiếm cách gì để nhử cho con phượng hoàng ấy ra khỏi mấy từng mây xanh.

Thế là ngài truyền cho các quan đến cung vua Thiện-giác hỏi vợ cho Thái tử. Nhưng các quan buồn bã trỡ về đem theo một lời gần như thách đố của vua Thiện-giác: “Theo tục lệ nhà tôi, mỗi khi ai muốn đến hỏi con gái, phải thi võ nghệ. Trong những người đến dự thi, ai có tài hơn cả sẽ được vợ. Tục ấy không thể miễn cho một ai, dù đấy là Hoàng tử Tất-đạt-đa.”

Vua Tịnh-phạn nghe xong, lòng buồn rười rượi Ngài biết con ngài về văn chương, triết học thì không một ai sánh kịp, nhưng còn võ nghệ thì làm sao thắng nổi những tay vô địch về tài bắn eung như Đề-bà-đạt-đa, về tài cưỡi ngựa như A-nậu-đà-la và về tài múa kiếm như Nan-đà. Nhưng Thái tử vẫn thản nhiên quỳ xuống tâu vua:

– Xin phụ hoàng đừng lo ngại. Những môn võ nghệ cung tên, con đều có học cả. Phụ vương cứ truyền rao cho mọi người ai muốn thi tài võ nghệ với con hãy đến vũ trường dự thí.

 

Bảy ngày sau, trên vũ trường, có cuộc thi tàí rất sôi nổi. Ở đấy, từ sáng sớm đã tề tựu đủ cả các hạng người trong thành, từ những bậc vương tước cho đến cùng dân. Công chúa Da-du cũng có dự. Nàng đi đến trong đám rước cô dâu. Âm nhạc nâng từng bước chân ngựa; những rèm kiệu hoa hoè phơi phới tung bay; và đàn bò kéo xe, bệ vệ đi từng bước một vì sợ làm rơi mất những vòng hoa rực rỡ móc trên những cặp sừng vàng.

Các tay dự thi đều là dòng dõi đế vương, thân thích với Thái tử: Đề-bà-đạt-đa, A-nậu-dà-la, Nan-đà. Thái tử Tất-đạt-đa đến trên mình con ngựa Kiền-trắc. Kiền-trắc đưa ra những tiếng hí dài, vì nó chưa bao giờ quen với một đám đông như thế, và Thái tử nhìn đám đông ngạc nhiên thấy rằng tuy khác địa vị, khác cách ăn mặc, họ vẫn giống nhau trong những nét vui mừng.

 

Thái tử nghĩ đến đấy, bỗng có tiếng hô bắt đầu cuộc thi bắn. Nan-đà nắm một chiếe cung và sai người đem một ếi trống đồng để cách xa 400 thước. A-nậu-đà-la cũng làm thế. Trống của Đề-bà-đạt-đa để xa hơn, nhưng Tất-đạt-đa chấp hết: Ngài bảo đem để trống của mình rất xa, xa cho đến lúc nào mặt nó chỉ còn thấy nhỏ lại bằng con nghêu. Mỗi người lần lượt bắn: Ba cái trống trước bị xuyên ba mũi tên, tiếng hoan hô nổi dậy một góc trời. Đến lượt Tất-đạt-đa nhắm bắn. Công chúa Da-du hồi hộp, kéo tấm lưới xuống quá mắt: nàng e sợ mũi tên không trúng đích. Hoàng tử rút mạnh sợi dây, thanh cung uốn cong như một nhành trúc yếu, hai đầu cung chúm lại và gãy ngang trong tay Thái tử. Ngài vứt cung xuống và bảo: “Thứ cung này chỉ để cho con nít chơi. Ở đây ai có chiếc cung nào tốt hơn thế nữa?” Một người trong đám mách rằng ở đền Simbahanou có một cái cung bằng đồng đen nặng lắm, chưa ai có thể trương lên nổi. Ngài sai người đến mượn. Một chốc, hai tên lính hì hục mang cung về. Ngài nắm lên, rồi trao cho mọi người dự thi thử trước. Nhưng họ chỉ trương ra nhiều nhất là được một gang tay rồi phải thả xuống. Thái tử một tay đỡ lấy thanh cung, đưa thẳng ra đằng trước và tay kia kéo mạnh dây đồng. Ngài thả dây: một tiếng ngân dài làm chuyển động cả không gian như một tiếng chuông đồng. Những kẻ tàn tật không đi xem được cuộc thi, ở nhà nhìn nhau hỏi: “Tiếng gì lạ thế?” Và có người biết chuyện trả lời: “Đấy là tiếng dây cung mà Thái tử Tất-đạt-đa đang thử”. Sau khi thử cung, Thái tử nắm một chiếc tên lắp vào dây, nhắm đích. Một tiếng ngân, một tia sáng như sao băng xuyên qua hai mặt trống đồng!

 

Đến cuộc thi kiếm, Đề-bà-đạt-đa trổ tài trước. Chàng cầm một thanh kiếm, tìm một gốc cây to bằng một ôm người lớn, phát ngang một lát, thân cây đứt thành hai đoạn. A-nậu-đà-la lựa một cây to lớn hơn và Nan-đà một cây lớn hơn nữa. Nhưng hai cây rất lớn mọc song nhau. Tất-đạt-đa nhẹ đưa một lát kiếm, nhanh như phóng một làn chớp, và lạ thay, hai cây vẫn đứng sững? Nan-đà mừng rỡ reo lên : “A ha! Không đứt!Công chúa Da-du chỉ kịp tựa vào vai con thị tỳ cho khỏi gục ngã. Nhưng một cơn gió thoảng qua, hai cây cùng ngã lăn ào xuống một lượt. Thì ra lát kiếm của Thái tử quá bén và quá phẳng, nên hai thân cây tuy đã đứt ngang, vẫn còn giữ được thăng bằng trên đôi gốc phẳng.

Cuộc đua ngựa tiếp theo. Ngựa phải chạy ba vòng quanh vũ trường. Khi Nan-đà, Đề-bà-đạt-đa, A-nậu-đà-la về tới mức vòng đầu thì ngựa của Tất- đạt-da còn một khoảng nữa mới hết vòng... thứ ba. Con ngựa Kiền-trắc chạy nhanh quá, người ta không nhìn rõ nó chạy hay bay, chỉ biết mỗi giọt nước miếng của nó từ mép rơi xuống đất là nó chạy được một trăm sải. Nan-đà vội kêu lên : “Không, với con ngựa Kiền-trắc thì không ai địch nổi. Phải đem một con ngựa hết sức hung hăng ra đây thử xem ai cưỡi được”.

 

Quân giữ ngựa đem ra một con ngựa đen như mực, hai mắt đỏ ngầu, mũi phồng bọt mép trắng cả hàm. Nó cố trườn tới như chực bứt ba sợi dây buộc ở cổ mà chạy. Nan-đà rồi Đề-bà-đạt-đa thay nhau mỗi người cưỡi thử một lượt. Nhưng chưa ngồi yên được trên mình ngựa, đã bị nó hất xuống đất, mình mẩy lấm một lớp đất bụi và một lớp thẹn thùng. A-nậu-đà-la ngồi được trên mình ngựa một hồi. Chàng mở dây xích ở cổ nó, vói tay bịt lấy hàm ngựa, hai chân thủc mạnh vào hông, con vật bực tức nhảy lồng lên như một luồng gió bão. Nhưng bỗng nó đứng lại, hạ cổ xuống, bốn chân xiêu hẳn về đằng sau, và A-nậu-đà-la chúi nhào về phía trước đầu ngựa. Bọn kỵ mã hốt hoảng chạy ra giữ con quái vật lại, và mọi người đồng thanh kêu : “Hãy đem nó vào chuồng, đừng để Thái tử Tất-đạt-đa cỡi nữa!Nguy hiểm lắm!” Nhưng Thái tử truyền giữ nó lại. Ngài ung dung bước ra, nắm vào bờm nó, miệng lẩm bẩm vài lời dịu ngọt, tay phải vuốt ve từ đầu đến cổ, đến hông ngựa, và mọi người ngạc nhiên thấy nó đứng yên, hiền từ như đã quen với Thái tử lắm. Ngài nhảy lên mình ngựa, ngựa khoan thai đi giữa tiếng hoan hô của khán giả. Vua Thiện-giác hấp tấp chạy đến bên Thái tử, nói với một giọng đứt quãng vì sung sướng:

– Chừng ấy cũng đủ thấy tài vô địch của Thái tử rồi! Thôi, người hãy nhận lấy viên ngọc quý của nhà ta đi.

 

Trong lúc ấy, nàng Da-du-đà-la đứng dậy nắm lấy một vành hoa sứ, vén mảnh lưới đen viền vàng lên quá trán, rồi đi đến phía Thái tử. Tất-đạt-đa nhảy xuống ngựa, oai phong như một pho thần tượng, bộ áo vũ trắng nổi bật cạnh sắc đen nháy của lông ngựa. Nàng Da-du cúi mình rất thấp trước Thái tử, rồi nâng vòng hoa lên trong đôi tay rung rung vì cảm động, nàng quỳ xuống bên chân Ngài, mắt ngước lên, cổ vươn cao trong một niềm khát vọng tôn thờ, những tia hạnh phúc bừng sáng trong đôi mắt xanh ngời.

Thái tử đỡ nàng dậy, và tay trong tay, hai người tài sắc nhất của thành Ca-tỳ-la-vệ , bước song song đi giữa tiếng hoan hô của muôn vạn lòng sung sướng.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14307)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14566)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11846)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14366)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13281)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14648)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12648)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25263)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27896)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26367)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17236)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16528)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15919)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22148)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17137)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24918)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21983)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19078)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16175)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21727)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16787)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14670)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16710)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25029)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18783)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21199)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14779)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14378)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16619)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18016)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12931)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14948)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12720)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13892)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14607)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28039)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27210)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14352)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20971)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14673)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24195)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28700)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14738)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13299)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16464)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27255)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12021)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16081)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21502)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12379)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant