Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

09

08 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 5624)
09


9

 

Tịnh-phạn vương sống qua những năm buồn vô hạn từ khi Thái tử bỏ cung điện ra đi. Ngài nhớ tiếng, nhớ hình ngườị con anh dũng mà bây giờ không biết đang phiêu bạt nơi nao.

Còn công chúa Da-du, thì không có gì khuây khoả nổi! Mất đấng chúa tể của lòng mình, nàng không còn biết cái vui là gì nữa. Trong cung điện cũ tiếng đàn địch đã im bặt lâu rồi, thế mà âm thanh còn vang dội lại trong tai người cô phụ, tưới mãi dầu vào ngọn lửa tiếc thương. Tuy thế lòng nàng vẫn còn ấp ủ chút hy vọng: Thái tử còn sống. Mỗi khi nghe ai nói đến một kẻ tu hành đang ẩn náu ở một xứ xa nào, nàng liền tâu với Tịnh-phạn vương cho quân ruỗi ngựa đi tìm. Quân về mình còn lấm bụi phương xa, quỳ xuống tâu với Tịnh-phạn vương, giữa hai hơi thở:

– Tâu bệ hạ, chúng tôi đã gặp rất nhiều kẻ tu hành không nhà, không cửa, nhưng về Thái tử Tất-đạt-đa, viên ngọc quý của thành Ca-tỳ-la-vệ. chúng tôi tìm chẳng được tăm hơi.

 

Một hôm, sau những ngày đông buồn bã đã trôi qua, những đọt xoài non đã điểm trắng trên lá xoài xanh, cảnh vật đã choàng xong chiếc áo xuân mới, nàng Da-du đi dạo quanh hồ. Ở đấy, xưa kia, thảm nước xanh đã nhiều lần chiếu vẻ đẹp phương phi của Thái tử bên cạnh vẻ đẹp hiền hậu của nàng. Cũng ở đấy, mặt nước hồ buồn bây giờ chỉ chiếu lẻ một bóng hình tiều tuỵ của kẻ vọng phu: hai mắt nàng không còn trong sáng như xưa nữa, vì đã bao lần làm suối cho lệ chảy; vành môi đẹp của nàng hơi trĩu xuống ở hai bên khoé dấu vết của những đêm cắn cổ tay vào miệng cho tiếng khóc khỏi bật lên. Làn tóc óng ả dợn sóng của nàng bây giờ bới lại theo kiểu những người quả phụ. Ngọc vàng không còn quấn quýt bên tay nàng nữa. Áo nàng may bằng vải thô thường để dùng trong lúc tang chế. Nàng nắm sợi dây lưng nạm ngọc của Thái tử mà nàng giữ mãi bên mình làm kỷ niệm sau cái đêm hãi hùng, mở đầu cho những chuỗi ngày sầu hận–cái đêm Thái tử bỏ cung điện ra đi. Gần nàng, một đứa bé độ 9, 10 tuổi, mặt mày tuấn tú đang đuổi theo đàn bồ câu. Đấy là La-hầu-la, sợi dây giao nối mối tình cua Thái tử và nàng Da-du.

Trong lúc con nàng đang nô đùa với đàn chim, nàng tư lự ngồi ngắm mây trôi, như cố tìm trong ấy một vết tích của người chồng lưu lạc. Nhưng nghe sau lưng có tiếng động, nàng giật mình xây lại, một người thị nữ quỳ xuống bên cạnh, thưa:

– Thưa lệnh bà! Có hai người lái buôn ở xứ Hạt-tin-bua (Hastinpour) tên Đề-vy (Tripourha) và Bà-lỵ (Bhallouk), ở từ phía Nam lại. Họ mang theo đủ các loại hàng quý, các thứ chim lạ và ngọc ngà đầy bao; nhưng có một tin quý nhất: họ đã gặp Thái tử.

Máu chảy rần rần trong huyết quản công chúa, nàng vội vã đứng dậy, mắt ứa lệ mừng, giọng run run vì cảm động:

– Con hãy bảo họ vào trước màn gấm (Tục Ấn Độ, những người đàn bà quý phái khi tiếp chuyện với người lạ phải đứng khuất sau một bức màn), kể chuyện gặp Thái tử cho ta nghe. Nếu thật như lời họ nói, ta sẽ ban thưởng cho họ bao nhiêu ngọc vàng cũng không tiếc.

Hai người lái buôn được mời vào trong Cung Vui bước từng bước kính cẩn trên những bậc thềm vàng, đi ngang qua những phòng rộng nguy nga, giữa hai hàng cung nữ. Họ đến trước màn hoa và nghe ở trong đưa ra một giọng nói thanh tao và ngân nga như tiếng chuông đồng:

– Hỡi các người ở phương xa lại! Phải chăng các người đã gặp Thái tử Tất-đạt-đa.

Đề vỵ trả lời:

– Thưa lệnh bà, chúng tôi đã gặp Người cao cả ấy!. Chúng tôi đã quỳ xuống hôn chân Ngài. Ngài bây giờ rực rỡ danh vang, oai phong hơn một ví đại đế. Ngài đã thành Phật, chinh phục cả muôn loài vì cái đạo Từ bi mà Ngài đã tìm được dưới gốc bồ-đề. Ngài đi thuyết pháp từ xứ này sang xứ khác và thu hút sau bước chân Ngài biết bao tâm hồn lung lạc, như một làn gió hút theo bao nhiêu lá vàng rụng trên đất...

Công chúa sung sướng hỏi dồn:

– Nhưng cái Đạo nhiệm mầu ấy, Ngài làm thế nào để tìm được?

Bà-lỵ thay lời bạn, kể lại cho công chúa nghe cái đêm giông tố tơi bờiđức Phật đã chiến đấu và toàn thắng được bao nhiêu dục vọng nhơ nhớp xấu xa của thế gian đã hiện hình dưới quyền chỉ huy của Ma vương. Chàng tả cái buổi mai rực rỡ huy hoàng, sau khi Ngài đã chứng được quả bồ-đề và nỗi do dự của Ngài trước khi đi truyền đạo vì Ngài nhận thấy chúng sanh mảì quay cuồng trong trường danh lợi, đắm say trong vũng lầy nhục dục, uống lỗi lầm trong muôn suối si mê, chưa đủ trí, đủ sức để nhận hiểu chân lý cao thâm huyền diệu mà Ngài đã tốn biết bao tâm huyết mới tìm ra được. Nhưng may thay! Lòng từ bi của Ngài thúc giục Ngài phải cứu chúng sanh đau khổ. Ngài nhận thấy đấy là bồn phận của Ngài như Ngài đã tự nguyện khi mới xuất gia. Dầu công cuộc truyền đạo có khó khăn bao nhiêu, Ngài cũng không thể chối từ để an hưởng một cách ích kỷ Đạo vô thượng mà Ngài đã vì chúng sanh nhiều hơn là vì mình, tìm ra được. Vả chăng, trong đám bùn lầy, không phải không nẩy lên được những chồi sen quí, trong đám người si mê không phải tuyệt nhiên không có những kẻ tinh anh. Và dầu tinh anh hay mê muội, mỗi người đều có sẵn một mầm giải thoát. Xét như thế, Ngài quyết định đem Đạo Ngài ra truyền bá khắp thế gian.

Thế rồi Ngài vượt núi đi đến xứ Ba-la-nại (Bénarès), vào trong Vườn Nai, tìm nhóm ông Kiều-trần-như để thuyết pháp cho họ nghe. Các ông này thấy Ngài đi đến, tỏ vẻ khinh bỉ. Nhưng khi đến gần, thấy tướng mạo ọai nghi và rực rỡ của Ngài, họ kính cẩn đứng dậy chào, rồi lặng yên nghe thuyết pháp.

Người hiểu được giáo lý đầu tiên là ông Kiều- trần-như. Sau ông, bốn người đồng tu là: Ác-bệ, Thập-lịch Ca-diếp, Ma-ha-nam, Bạc-đề đều khai ngộ được cả. Luôn trong ba tháng, Ngài thuyết phápVườn Nai, có một chàng thanh niên tên Đa-xá và 54 người khác thuộc dòng quí phái xin qui y theo Ngài.

Sáu chục người đệ tử đầu tiên ấy, sau khi giữ đủ giới luật và được đức Phật cặn kẽ dặn dò, đều được Ngài thọ ký cho đi truyền đạo khắp nơi. Ngài rời Vườn Nai, đi về phía Nam, đến xứ ưu-lâu-tần-loa. Ở đấy, Ngài độ cho một vị tổ sư rất thần thông và rất có thế lực của đạo thờ lửa là ông Ca-diếp, và hai em ông. Rồi Ngài lại đi đến xứ Ma-kiệt-đà. Vua Tần-bà-sa-la gặp lại Ngài vui mừng khôn xiết, và sau khi đổ nước hoa vào hai bàn tay Ngài, vua xin cúng cho Ngài vườn Trúc Lâm rất có tiếng đẹp ở xứ ấy để Ngài dùng làm nơi thuyết pháp. Ở đấy, giáo lý của Ngài rất được dân gian sùng phục. Chẳng bao lâu, cả xứ Ma-kiệt-đà từ vua cho đến dân đều theo Đạo Ngài cả. Số đệ tử mỗi ngày mỗi đông, trong ấy, chín trăm người được đắp y như Phật và được Ngài cho đi truyền giáo khắp nơi.

– Thưa lệnh bà–Bà-lỵ kết luận–phương pháp tu hành của Ngài dạy tuy không thể kể xiết được nhưng có thể tóm tắt trong một câu này mà chúng tôi được nghe Ngài dạy: “Tránh các việc dữ, làm các việc lành, giữ tâm ý trong sạch, đấy là đạo của chư Phật.

Tịnh-phạn vương nghe tin, tức tốc truyền cho sứ giả đi mời Phật về. Nhưng chín lần, chín đoàn sứ giả ra đi, chín lần mất tích. Mỗi ngày Tịnh- phạn vương và nàng Da-du lên lầu, đưa tầm mắt ngóng trông bọn sứ giả. Nhưng xa xa, không thấy có đám bụi mù nào dấy lên dưới chân những con tuấn mã của bọn sứ giả. Ai có ngờ đâu bọn sứ giả khi đến Trúc lâm, gặp lúc Phật đang thuyết pháp, những lời ấm áp, êm dịu của Ngài đã lách vào tâm hồn họ, như một làn hương lẫn trong gió mà vào phổi, như một giọt sương thắm đượm vào giữa nhuỵ hoa, họ đã say mê mà quên mất nhiệm vụ của họ là đến mời Phật về. Lần thứ mười, Ưu-đà-di khi vào vườn Trúc lâm, lượm một nắm bông gòn nhét vào tai, đến bên chân Phật, quỳ xuống thưa một mạch những lời dặn của Tịnh-phạn vương.

Đức Như Lai nhận lời ngay. Ngài bảo giữa đại chúng:

Đã lâu ta có ý định về thăm nhà, vì đấy cũng là một bổn phận của kẻ tu hành. Hỡi các Tỷ kheo, các người không nên viện một cớ gì để không báo ân cha mẹ. Ta sẽ về thăm phụ hoàng ta. Ưu-đà-di, người hãy về trước, báo tin ấy cho Ngài hay.

Ưu-đà-di sung sướng sụp lạy tạ Ngài, rồi nhảy lên mình ngựa phi về cung.

Tin Phật sắp trở về tung ra trong thành Ca-tỳ-la-vệ như một tràng pháo nổ. Thôi, đã qua rồi những ngày buồn bã trôi giữa dòng tiếc thương và mong nhớ! Dân trong thành trở lại hoạt động vui vẻ như thời còn Thái tử, cái lẽ kiêu hãnh của dân gian Mọi người thi nhau trang hoàng cửa nhà mình để làm vui lòng đấng tôn quý nhất của cả nước. Từ phía cửa Nam vào tận trong hoàng cung, đường đều lát toàn cành xoài thơm và tưới trào nước hoa sứ. Trên bến sông đức Phật sẽ sang ngang, mấy chục cặp voi được trang hoàng rừc rỡ đã đợi sẵn để đón Ngài về. Bọn ca nhi vũ nữ đã được lệnh đi theo Ngài để vừa múa hát vừa tung hoa sao cho chân voi Ngài sẽ ngập dưới đường hoa.

Nàng Da-du nóng lòng muốn gặp Ngài ngay, sai quân khiêng kiệu đưa mình đến gần cửa Nam, nơi Tịnh-phạn vương đã truyền dựng tịnh xá cho Ngài, và đứng đấy ngóng trông về phía trước. Và phía trước, bọn Ba-li-a (Paria) sống chui rúc trong những vòm lá ở ngoài thành, cũng đã dậy từ lúc gà chưa gáy, đợi tiếng trống đầu tiên báo hiệu Ngài về, hay tiếng voi ré là trèo lên cây, để khỏi làm bẩn mắt đấng Tinh khiết. Nhưng bầu trời vẫn im lặng trong sự chờ đợi, không vang dội một tiếng trống hay tiếng voi ré. Họ bắt đầu chán nản, và để khỏi mỏi mắt trông chờ, họ cúi xuống lượm lá úa rơi trên đường, uốn lại một nhành cây hay chấp thêm một vài cành hoa vào cột khải hoàn môn.

Giữa lúc ấy, một người chậm rãi đi đến, đầu cạo trọc mình choàng một chiếc áo cũ, tay nắm một bình bát hình trái bí. Theo sau có mấy người khác cũng choàng một thứ áo ấy. Nhưng người đi đầu có vẻ oai nghi lạ kỳ, và trên đường người đi, toả ra một luồng tôn nghiêm kính cẩn. Người ấy nắm bình bát đưa ra trước cửa mọi nhà: người ta đổ đồ ăn vào đấy với vẻ sùng bái như khi dâng lễ cúng thần. Nhiều kẻ thấy mình đứng không vững trên hai chân run, liền sụp quỳ xuống, và cảm thấy rất yên ổn trong dáng điệu ấy. Khi đến gần cửa Nam, nàng Da-du từ trong chạy xổ ra, kêu lên: “Ôi Thái tử!” Nàng nghẹn ngào không nói được nên lời, quỳ xuống ôm lấy chân Phật mà khóc...

Một người đệ tử đi theo Ngài, bạch:

– Thưa Thế Tôn! Ngài đã dứt hết dục vọng, tránh tất cả những sự đụng chạm của những bàn tay đàn bà, sao còn đứng yên để bà Da-du ôm chân Ngài như thế?

Phật trả lời:

– Các người hãy coi chừng đấy! Đừng làm tổn thương một tâm hồn đang bị ràng buộc trong tình cảm, vì sự dửng dưng của các người, khi đã thoát ra ngoài vòng trần luỵ! Các người càng nhẫn nhục bao nhiêu, các người lại càng được tự do bấy nhiêu...

Xưa kia, mấy vạn năm rồi, ta là một gã lái buôn tên Ram, ở miền bể phía Nam đối diện với hòn đảo Lan-ca, nơi có rất nhiều ngọc quý. Vợ ta, nàng Lúc-mích, chính là Da-du bây giờ, cùng với ta sống ở đấy. Nhà ta nghèo túng, ta phải tính cuộc đi làm ăn xa. Nhưng vợ ta khóc lóc, xin ta hãy ở nhà, vì nỗi đường xá xa xôi, hiểm trở. Nhưng ta không muốn ở nhà để nhìn thấy sự nghèo túng của vợ rất yêu quý của ta. Ta đành dứt tình, vượt biển ra khơi, trải qua bao nhiêu lần sắp chết vì bão tố, ta lặn xuống đáy bể, mò được một viên ngọc quý hơn tất cả nhũng kho tàng eủa các vua chúa hiệp lại. Ta lận hòn ngọc vào lưng, dong buồm trở về xứ cũ. Nhưng ở đấy dân gian đang bị nạn đói kém. Ta đi mấy ngày đường không có một hạt cơm ăn, nhưng cũng lần mò về được tới nhà. Về nhà ta thấy vợ ta đang nằm bất tỉnh, sắp chết đói ở ngưỡng cửa vì đã mấy ngày thiếu ăn. Ta liền nắm hòn ngọc chói như ánh mặt trời, chạy đi từng nhà xin đổi lấy một nắm gạo. Một người láng giềng chạy ra đưa cho ta một ô gạo và nhận hòn ngọc quý về. Lúc-mích thoát chết nhờ nắm gạo ấy, sung sướng ứa lệ nói với ta: “Ôi quả thật, tình chàng đối với em không bờ bến.

Thuở ấy, để cứu mạng một người thân, vỗ về một tâm hồn đau khổ ta đã mất hòn ngọc quý. Nhưng bây giờ dầu ta có cứu bao nhiêu mạng người, có vỗ về bao nhiêu tâm hồn đau khổ, thì viên ngọc quý–một vạn lần quý hơn viên ngọc xưa–mà ta đã tìm được dưới những làn sóng sâu hơn, nguy hiểm hơn trước, viên ngọc bây giờ không vì một sự gì có thể lu mờ mất mát đi được. Cái bé nhỏ của viên ngọc xưa đối với viên ngọc bây giờ cũng như tổ kiến sánh với hòn núi Mérou; tình thương xưa sánh với lòng Từ bi của ta bây giờ như một vũng sương đọng trong dấu chân con thỏ sánh với biển lớn. Một khi tình thương đã vượt ra ngoài sự ràng buộc của dục vọng, thì không có gì có thể làm cho nó đụe vẩn đi được.

Tịnh-phạn vương ở trong triều nghe tin con về, đầu cạo trọc, tay nắm bát đi xin những đồ ăn của bọn cùng dân hạ tiện, thì nổi giận đùng đùng. Ngài bứt râu bạc, ngài khạc xuống đất ba lần. Ngài truyền thắng ngựa chiến cho ngài ra cừa Nam. Ngựa ngài vụt qua trước mặt đám dân kinh ngạe, khi họ chưa kịp phủ phục bên đường. Gần đến cửa Nam, ngài thấy một đám người đen nghịt chen chúc trên đường rộng, mà người đi đầu là Phật. Ngài đưa mắt quang đãng nhìn cha ở đằng xa phóng ngựa tới với một vẻ hung hăng như một viên tướng ra trận. Nhưng đến gần, Tịnh-phạn vương bỗng dịu lại trước cái nhìn hiền từtôn kính của người con đứe hạnh. Phật chắp tay vái chào đứe cha với một dáng điệu nhu thuận mà oai nghi. Tịnh-phạn vương nhìn con, nhận thấy một vẻ thiêng liêng hiện trên đỉnh trán rộng và một oai lực làm khuất phục cả mọi người đi theo sau. Ngài cảm biết rằng người đang đứng trước mặt mình đấy đã xa xôi với mình lắm rồi, không còn giữ lại dấu vết gì của vị hoàng tử xưa nữa. Tuy vẫn ở trong phạm vi người, vẫn lăn lộn với người, con ngài bây giờ đã thoát ra ngoài vòng trần tục, đã vượt lên mấy tầng cao trên nhân thế rồi!

Mặc dầu thế, Tịnh-phạn vương vẫn làm ra vẻ trách con:

– Có đời nào một vị Thái tử như Tất-đạt-đa, người sắp nối ngôi ta, trị vì một đại quốc, một vị Thái tử oai phong như thế mà khi về nước lại ăn mặc tầm thường, đầu cạo trọc, nắm bát đi xin từng miếng ăn, miếng uống của đám Ba-li-a! Đáng lẽ ra, con phải trở về giữa sự oai nghi hùng tráng của một rừng gươm giáo, giữa sự vang rền của tiếng trống, tiếng chiêng. Con thấy đó, quân lính đang dàn đặc hai bên đường, cả một kinh thành đang đợi con về để tung hô thiên tuế. Sau chín, mười năm trời con bỏ cung điện ra đi, để cha con phải nuốt sầu trên ngôi báu, vợ con phải đau khổ trong Cung Vui, và cả một kinh thành đã im lìm trong không khí tang tóc, cha tưởng ngày về của con hết sức rực rỡ để bù lại những ngày ảm đạm đã qua. Cha có ngờ đâu bao nhiêu sự sắp đặt linh đình của cả nước, bao nhiêu dàn bày oai nghi của cả triều đình chỉ để đón chờ một kẻ đói cơm rách áo! Con ơi! Sao thế hử?

– Thưa phụ vương, đấy là tục lệ của dòng họ con.

Tịnh-phạn vương dẫy nẩy:

Dòng họ con kể từ đức Ma-ha-sa-ma đến nay đã gần một trăm đời vua, có khi nào có một hành vi lạ lùng như thế đâu?

– Thưa phụ vương, con không nói đến cái giòng giống thế gian, nối nhau qua khí huyết, con muốn nói đến dòng giống của chư Phật quá khứvị lai. Xưa và sau này chư Phật làm thế nào, bây giờ con làm thế ấy. Con chỉ biết giữ gìn cái kho báu vô giá mà các đức Phật đã truyền lại cho con.

Tịnh-phạn vương ngạc nhiên nhìn chiếc áo đã ố màu của Phật, hỏi:

– Kho báu gì đâu?

Thế là Phật dịu dàng nắm tay cha, đi về phía hoàng thành, giữa Tịnh-phạn vương và nàng Da-du. Vừa đi, Ngài vừa thuyết pháp cho dân chúng đang kính cẩn theo sau Ngài nghe. Với giọng ấm dịu và trong sáng, Ngài rải rắc trong tâm hồn mọi người nỗi an lành thanh tịnh. Ngài tung vãi ánh sáng ra khắp nơi, đuổi tan những làn u ám đang đọng trong tâm trí mọi người.

Tịnh-phạn vương nhìn sững miệng Ngài, say sưa uống những lời quý hơn vàng ngọc. Và công chúa Da-du đôi mắt dần dần ráo lệ, mỗi lúc mỗi tươi thêm.

 

Đêm ấy, trong cung điện của Tịnh-phạn vương, không có tiếng đàn tiếng địch, thế mà mọi người nghe như reo dậy trong lòng mình một điệu nhạc thiêng. Và khi đặt lưng xuống chiếu, dân gian trong thành Ca-tỳ-la-vệ thấy mở ra trướe mắt mỗi người một con Đường Vàng sáng rực, rộng thênh thang, trên ấy những bóng vàng đang nhẹ nhàng tiến bước...


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14305)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14565)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11841)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14360)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13275)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14644)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12646)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25242)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27878)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26356)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17232)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16526)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15917)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22139)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17132)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24908)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21967)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19068)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16171)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21722)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16784)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14667)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16705)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25027)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18777)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21197)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14779)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14374)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16615)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18012)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12924)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14946)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12712)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13889)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14604)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28027)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27190)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14347)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20966)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14673)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24179)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28687)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14736)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13288)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16457)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27240)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12019)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16077)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21492)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12377)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant