Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 11: Đạo Phật: đức tin, nghi thức, mê tín, dị đoan

09 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 7027)
Chương 11: Đạo Phật: đức tin, nghi thức, mê tín, dị đoan

TỦ SÁCH ĐẠO PHẬT NGÀY NAY
ĐỐI THỌAI GIỮA
TRIẾT HỌCPHẬT GIÁO
Jean Francois Revel & Matthieu Ricard - BS: Hồ Hữu Hưng dịch
Nhà xuất Bản Văn Hóa Thông Tin 2010

Chương 11: Đạo Phật: đức tin, nghi thức, mê tín, dị đoan

Jean Francois: Sự sùng đạo mà có kẻ cho là ngu tín mà các hình thức như nước thánh, chuỗi hạt, cành lá, sự tin tưởng vào mọi thứ vớ vẩn, sự linh ứng của các thánh lễ hay các lời cầu nguyện, sự đốt nến, những biểu hiện này có mặt trong rất nhiều tôn giáo trái ngược hẳn với khía cạnh trong sáng mà người ta dành cho Phật giáo. Đó cũng hẳn là một trong nhiều lý dothành phần trí thức bị quyến rũ bởi sự minh triết Phật giáo trong khi họ lại quá chán nản với những tôn giáo khác vì những biểu hiện quá phường tuồng, quá hình thức và không hợp lý. Nhưng theo Ba, đó là một hình tượng có vẻ lý tưởng về Phật giáo khi được nhìn từ xa, khi người ta hiểu giáo lý mà không được chứng kiến sự hành trì thường nhật. Nhưng khi ta du hành qua các nước Phật giáo, hay đi thăm các tu viện ta sẽ rất đỗi ngạc nhiên với các hình thức cúng dường, nào là diễu hành, xướng ca, lễ lạy mà đối với một kẻ vô thần như Ba, thì không khác chi các loại mê tín dị đoan hay các nghi thức thờ cúng của Chính thống giáo, Công giáo, Hồi giáo hay Do Thái giáo. Ba còn có thể nói là một vài nghi thức khi diễn ra trước mắt ta ngay trong thế kỷ 20 này có vẻ gần với Công giáo thời Trung cổ hơn là với Công giáo bây giờ. Có phải chăng đó là mặt bất hợp lý, là bề ngoài những hình thức cúng tế Phật giáo đã gán vào sự minh triết của Đức Phật theo dòng thời gian hơn hai thiên niên kỷ?

Matthieu: Trước tiên trong Phật giáo cũng như trong hầu hết các tôn giáo hay truyền thống tâm linh khác, cần phải phân biệt giữa mê tínnghi thức. Đức tin trở thành mê tín, khi nó trái với lý trí, và tách rời khỏi ý nghĩa thâm sâu của nghi thức. Nghi thức thuần túy đòi hỏi sự trầm tư, sự quán tưởng cầu nguyệnthiền định. Ý nghĩa của những lời trong các bài hát là kêu gọi sự quán tưởng". Điều này rất đúng với Phật giáo Tây Tạng. Khi người ta xem xét nội dung của các nghi thức trên những bài tụng được đọc lên, người ta nhận ra như một bản hướng dẫn về các yếu tố thiền định Phật giáo như là tánh không, tình yêu và lòng bác ái. Một nghi thức là một hành trì tâm linh được tổ chức trong khung cảnh tôn nghiêm của một tu viện, giữa một bầu không khí thanh tịnh được tôn tạo bởi một thứ âm nhạc thiêng liêng không phải để kích thích tình cảm mà để làm dịu tâm hồn và khuyến khích sự trầm tư mặc tưởng. Loại âm nhạc này được xem như một sự cúng dường chứ không phải là một biểu hiện nghệ thuật. Vài loài nghi thức được kéo dài liên tục ngày và đêm trong suốt một tuần lễ. Mục đích cuộc lễ là đưa những tín đồ cùng nhau tinh tấn tu tập. Trong việc quán tưởng một mạn đà la, người ta nhấn mạnh đến một vài kỹ thuật thiền định dựa trên những hình vẽ phong phú.

Jean Francois: Về Mạn Đà La (Mantra), Ba chỉ hiểu mơ hồ. Con có thể giải thích chính xác hơn không?

Matthieu: Mạn đà la là một biểu trưng về vũ trụchúng sinh, dưới hình thức một nơi chốn hoàn mỹ, nơi ấy các thần linh chiếm ngụ. Những vị thần linh này không phải là những vị trời vì như con thường nói, Phật giáo không phải nhất thần giáo hay đa thần giáo. Đó chỉ là những phạm trù, những khía cạnh của Phật tính. Sự quán tưởng về Mạn Đà La là để đi đến nhận thức về Phật tính vốn sẵn có ở mọi chúng sinh. Những kỹ thuật thiền định đó giúp cho ta thay đổi nhận thức thông thường của ta về thế gian vốn dĩ là một sự pha trộn giữa tịnh và bất tịnh, thiện và ác trở thành một nhận thức hoàn hảo về thế giới hiện tượng. Khi ta quán tưởng về chính bản thân ta cũng như các chúng sinh quanh ta như là những khuôn mẫu của các vị thần linh trong các đền thánh Tây Tạng, ta sẽ quen dần với ý tưởng Phật tính ở khắp mọi nơi. Và ta sẽ không còn phân biệt những hình thức bên ngoài như đẹp và xấu, thù hay bạn. Nói tóm lại, những phép quán về mạn đà la ấy là những phương tiện khôn khéo để giúp chúng ta tìm lại Phật tính ở tất cả mọi chúng sinh. Sau cùng phải hiểu rằng dưới mắt của các bậc thầy Tây Tạng, những nghi thức chỉ có một giá trị tương đối, và những vị ẩn sĩ đã dấn thân vào thiền định thì hoàn toàn buông bỏ mọi nghi thức. Vài vị như đạo sư Milarepa còn đi đến chỗ công khai lăng mạ những lễ lại và nghi thức. Vậy là các dạng nghi thức tâm linh cũng tùy theo các dạng tín đồ khác nhau và cũng tùy mức độ hành trì nữa.

Jean Francois: Phải, nhưng ngày nọ ở Kamandou, chúng ta đã có dịp chứng kiến đám đông Phật tử đi diễu quanh một ngôi đền lớn mà người ta gọi là...

Mathieu: Ngôi tháp-chùa (stoupa).

Jean Francois: Vậy là những Phật tử ấy diễu hành hàng giờ chung quanh ngọn tháp, theo chiều kim đồng hồ, vì như Ba đã biết qua một cuộc du hành ở Bhoutan là khi người ta muốn đi quanh một ngọn tháp, người ta phải đi theo chiều kim đồng hồ vì một lý đo bí mật nào đó mà không ai nói cho Ba biết: Phải chăng đó chỉ là mê tín dị đoan?

Mathieu: Đây là một điểm quan trọng. Đa số các hành động mà ta cho là thuộc về đời thường, có phải chăng chúng chỉ thuần túylợi ích mà không có một ý nghĩa thâm sâu nào khác? Đi cũng chỉ là di chuyển nhanh đến một điểm nào đó, ăn chỉ là làm cho đầy bụng, làm việc chỉ là để sản xuất cho thật nhiều. Trong khi đó nếu đời sống tâm linh ngự trị toàn bộ cuộc sống, những hành động bình thường đều có một ý nghĩa. Nói một cách lý tưởng thì không có gì 1à tầm thường. Khi đi, ta có thể nghĩ là ta đi đến sự tỉnh thức, khi đốt lửa ta có thể tâm niệm "Mong sau cho những tình cảm tiêu cực của mọi chúng sinh đều bị cháy rụi", khi ăn ta có thể nghĩ: ''Cầu mong cho mỗi người đều được nếm mùi vị của thiền định'', khi mở cửa: "Xin cho cánh cửa giải thoát mở ra cho mọi người" v.v... Trong trường hợp ngọn tháp chùa, người Tây Tạng nghĩ rằng sẽ ích lợi khi diễu quanh tháp một giờ, hơn là chạy bộ chậm thể dục. Một ngôi tháp tượng trưng cho tinh thần Đức Phật (những nét chữ viết tượng trưng cho lời nói của ngài, và những hình tượng là thân của ngài). Bên phải được xem như là chỗ danh dự để tỏ lòng tôn kính Đức Phật và giáo thuyết của ngài, cho nên Phật tử đi vòng quanh tháp theo chiều kim đồng hồ. Làm như vậy tinh thần họ hướng về Đức Phật và về lời dạy của ngài.

Jean Francois: Tại sao lại có những hình vẽ những nhân vật dường như là siêu nhân? Ba tưởng Phật giáo không có thần linh.

Mathieu: Một lần nữa, đây không phải là thần linh vốn tự sẵn có môt cuộc sống riêng. Đó chỉ là biểu trưng. Khuôn mặt của vị thần tượng trưng cho nhất thể. Hai cánh tay là tánh không nhập vào lòng bác ái. Một vài vị thần có đến sáu tay tượng trưng cho sáu sự hoàn mỹ: Kỷ luật, độ lượng, kiên nhẫn, siêng năng, tập trung và minh triết. Thay vì ngắm nhìn những bức tranh tầm thường, có lẽ ích lợi hơn là đưa vào trong tâm những hình ảnh biểu tượng cho các yếu tố của đời sống tâm linh. Những khuôn mẫu biểu trưng đó giúp cho trí tưởng tượng của chúng ta tiến bộ về tâm linh, thay vì bị lôi cuốn vào những ý tưởng vẩn vơ. Một trong những trở ngại của việc thiền định là sự bấn loạn của tư tưởng. Những kỹ thuật về quán tưởng là những phương tiện khéo léo để giúp những ai luôn luôn dao động, có thể tập trung vào một hình tượng để quán tưởng ngõ hầu tìm lại được sự yên tĩnh tâm hồn. Một sự quán tưởng đúng đắn đòi hỏi ba đức tính: giữ cho hình tượng trong tâm luôn luôn trong sáng, nghĩa là luôn tập trung chú ý vào hình tượng, ý thức được ý nghĩa của hình tượng mà ta đang quán tưởng và sau rốt luôn luôn ý thức được Phật tính trong chính bản thân mình.

Jean Francois: Nhưng Ba luôn luôn nhìn thấy trong các đền chùa, Phật tử quỳ lạy trước tượng Phật, đó là thái độ thường có trước một vị thần, một vị trời, một thần tượng chớ không phải trước một hiền nhân!

Matthieu: Sự quỳ lạy trước Đức Phật là để tỏ lòng tôn kính, không phải đối với một vị trời, mà đối với một người tiêu biểu cho sự minh triết tối hậu. Sự minh triết cũng như những lời dạy của ngài có một ý nghĩa sâu đậm đối với kẻ quỳ lạy ngài. Biểu hiện lòng tôn kính với ngài cũng là một cử chỉ khiêm tốn đối trị với tính kiêu ngạo luôn là trở ngại cho mọi chuyển biến tâm hồn. Tính tự cao ngăn cản mọi hình thức minh triết cũng như lòng từ bi. Một tục ngữ có nói: "Nước không thể tích tụ trên đỉnh núi và giá trị thật sự của một con người cũng không thể tích tụ trên đỉnh của sự tự cao được''. Hơn nữa sự quỳ lạy cũng không phải là một cử chỉ máy móc. Khi ta đặt hai bàn tay, hai đầu gối và trán trên mặt đất- 5 điểm- ta tâm niệm thanh lọc năm độc chất là lòng căm ghét, ham muốn, vô minh, tự cao và ghen tị và biến chúng thành năm sự khôn ngoan. Khi đôi bàn tay trượt trên mặt đến lúc ta đứng dậy, ta nghĩ: ''Xin cho ta gánh chịu mọi đau khổ của chúng sinh để loại trừ chúng". Như thế mọi hành động thường nhật thay vì tầm thường nhạt nhẽo sẽ trở nên một sự hành trì trên phương diện tâm linh.

Jean Francois: Tuy nhiên, trong đời sống ở một tu viện Công giáo, thực tại duy nhấtThượng đế. Thế giới mà ta đang sống, "thế kỷ" như những người Công giáo thế kỷ thứ 17 gọi nó chỉ là một sự làm lệch sự chú tâm đối với điều căn bản nhất: Thượng đế. Như thế, đời sống tu hành nói chung là đời sống của kẻ đã lìa bỏ thế gian để đến ở Port Royal như Pascal hoặc đến một tu viện như những người Chartreux, là dẹp bỏ mọi hình thức vui chơi giải trí tức là những thứ làm mất cảnh giác với tính phù du của lợi lộc, những thành công giả tạo, những sự thỏa mãn tạm thời về tiền bạc hay danh vọng v.v… Người ta cố gắng gạt ra những giây phút phù phiếm đó, để tập trung vào điều quan trọng duy nhất là sự tiếp cận với Thượng đế. Những tu sĩ ở Grande Chartreuse rời thế gian để hoàn toàn chú tâm vào Thượng đế không ngừng nghỉ và cũng không xao lãng. Vậy thì theo Phật giáo, không chấp nhận Thượng đế thì đời sống tu hành lìa bỏ thế gian để làm gì? Và nếu Phật giáo không phải là một tôn giáo, tại sao nó lại giống tôn giáo đến như vậy?

Matthieu: Con tưởng chúng ta đã nói qua về vấn đề này. Dù cho gọi nó là tôn giáo hay siêu hình học cũng không có gì quan trọng. Điều duy nhất mà Phật giáo hướng tới là sự giác ngộĐức Phật đã thành tựu được. Điều này đòi hỏi một sự chuyển hóa tâm linh sâu rộng thế thì ta có thể hiểu được những người có quyết tâm đi trên con đường này sẽ dành hết thời gian cho việc tu tập. Ta cũng có thể hiểu được những điều kiện bên ngoài có thể khuyến khích hay cản trở việc tu hành. Riêng chỉ có kẻ đã giác ngộ thì hoàn toàn không bị ngoại cảnh chi phối, vì lẽ thế giới hiện tượng dưới mắt anh ta là một quyển sách mà mỗi trang đều khẳng định chân lý mà anh ta đã khám phá ra. Môt kẻ đã giác ngộ chẳng hề giao động trước sự ồn ào của một thành phố lớn, cũng như ở trong am cốc nơi sơn dã. Nhưng đối với kẻ sơ cơ, phải có điều kiện thuận tiện để phát huy sự tập trung và chuyển hóa tư tưởng. Trong sự nhộn nhịp của đời sống thường nhật, sự chuyển hóa đó đòi hỏi rất nhiều thời gian và dễ bị gián đoạn trước khi đạt đến sự thành tựu. Vì vậy những Phật tử Tây Tạng phải trải qua nhiều năm trong các am cốc xa xôi. Mục đích của họ là hướng về tâm linhmục tiêu sau cùng là sự giác ngộ để sau đó có thể giúp đỡ tha nhân.

Jean Francois: Con định nghĩa giác ngộ như thế nào?

Mathieu: Đó là sự khám phá ra thực tại tối hậu của bản thân và của mọi vật.

Jean Francois: Và trong Phật giáo người ta quan niệm đức tin như thế nào?

Mathieu: Hiển nhiên là từ đức tiný nghĩa rất hàm súcTây phương. Người ta có thể phân biệt bốn khía cạnh của đức tin. Đầu tiên là đức tin trong sáng hay cảm ứng là loại đức tin được khơi dậy khi người ta nghe một lời dạy hay một chuyện kể về cuộc đời Đức Phật hay của một vị thánh. Kế đó là một sự ngưỡng vọng, một ý muốn được biết nhiều hơn và hành trì theo giáo lý noi theo gương của một vị thánh và cố gắng đạt tới sự hoàn mỹ mà ông ấy biểu hiện. Thứ ba là một sự tự khẳng định khi chính bản thân kinh nghiệm thành quả của con đường tâm linh đã đem đến cho mình một sự an lạc càng ngày càng tăng trưởng giống như ta đi đến một xứ sở với nhiều cảnh đẹp.

Sau cùng khi sự xác tín ấy không bao giờ mâu thuẫn dù trong bất cứ hoàn cảnh nào người ta sẽ vững vàng trong việc hành trì dù trong tình huống thuận lợi hay bất lợi để càng ngày càng tiến bộ. Sự xác tín ấy trở thành một bản thể thứ hai. Đó là lòng tin bất thối chuyển.

Tóm lại đó là bốn giai đoạn trong đức tin Phật giáo. Đức tin đó không thể bỗng nhiên mà có được, mà là một sự khám phá tiệm tiến, một nhận thức về thành quả của một sự hành trì miên mật.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14852)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17777)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18208)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 14977)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13174)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21133)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32555)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15296)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12341)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12829)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27481)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12132)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34917)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17730)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11804)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12641)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14564)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32451)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19454)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12966)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14083)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14264)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15312)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14136)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14120)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11951)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53146)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11651)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13917)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13809)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20683)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14309)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13430)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13607)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34154)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16207)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14070)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14196)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13550)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15892)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13501)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22948)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27728)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13892)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24937)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13943)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31312)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13859)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15556)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14957)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant