VƯỢT
KHỎI GIÁO ÐIỀU (BEYOND DOGMA)
Ðức
Ðạt Lai Lạt Ma đời thứ 14
Việt
Dịch: Tâm Hà Lê Công Ða
PHẦN THỨ BA
BẤT BẠO ÐỘNG:
MỘT TẤM GƯƠNG ÐỂ NOI THEO
TÂY TẠNG GIỮA HAI GIÒNG NƯỚC: KHÁNG CHIẾN
VÀ BẤT BẠO ÐỘNG
Thưa Ðức
Ðạt Lai Lạt Ma, đa phần người Tây phương thường hiểu về Phật giáo qua nguyên lý
của sự tái sanh, tuy nhiên chúng tôi không phải lúc nào là cũng rành rẽ về vấn
đề này. Xin Ngài vui lòng giải thích thêm cho chúng tôi biết tái sanh gồm những
yếu tố gì?
Có rất
nhiều tôn giáo và truyền thống tâm linh trên thế giới này mà tạm thời ta có
thể phân chia thành hai nhóm chính: một số thì tin vào chuyện tái sanh,
tức là tin có những đời sống được kế tiếp nhau; số còn lại thì không. Ðối với
nhóm thứ nhất, người ta tin chắc rằng sắc uẩn -tức là toàn thể xác thân con
người- chỉ hạn định trong một kiếp sống và là chủ nhân của kiếp sống đó. Còn
cái cá thể, cái ngã hay là giòng sinh thức thì được luân lưu từ đời sống này
qua đời sống khác.
Khi chúng
ta nói đến giòng sinh thức, một câu hỏi đặt ra, như vậy thức là cái gì? Thức
không phải là một thực thể đơn giản và thống nhất. Thức có nhiều mức độ khác
nhau: thô thiển, vi tế và cực kỳ vi tế. Dạng thô thiển của thức liên hệ với
những sinh hoạt của thể xác, sắc uẩn, của đời sống hàng ngày; cũng giống như sự
phân nhiệm trong não bộ đảm bảo rằng mọi bộ phận đều hoạt động theo đúng chức
năng của mình. Có thể nói đây là dạng dễ thấy và dễ hiểu nhất, nó đồng thời
cũng tan biến cùng với xác thân khi ta chết.
Tuy nhiên
còn có một dạng thức vi tế hơn không cần đến sự trợ lực của vật chất hay
bất kỳ mối liên hệ vật chất nào với thể xác con người. Ðây là dạng thức
mà chúng tôi tin rằng vẫn còn tiếp tục hiện hữu sau khi thể xác ngưng hoạt
động, nghĩa là sau khi ta chết. Nếu chúng ta cố gắng tìm hiểu nguồn gốc của
dạng thức vi tế này, bởi vì dĩ nhiên nó không thể tự dưng xuất hiện, mà phải có
nguyên nhân mang cùng bản chất như chính nó- tức là cái khoảnh khắc trước khi
dạng thức này xuất hiện. Nếu chúng ta muốn đi trở ngược lại để tìm tận cỗi
nguồn nguyên uỷ của cái khoảnh khắc của dạng thức này, tôi e rằng chúng ta
không thể làm được, vì như vậy chúng ta đã dựa trên tiền đề rằng cái thức này
đã được sinh ra ở một thời điểm nhất định hoặc là sản phẩm cuả một cái gì đó
thuộc loại vô tình. Thế cho nên khi nói về thức, chúng ta cho rằng nó không có
điểm khởi đầu. Một khoảnh khắc của ý thức được sinh ra không bởi một nguyên
nhân nào khác hơn giống như chính nó: tức là một khoảnh khắc ý thức khác, mà
không thể là từ loài vô tình nào. Ðiều này cắt nghĩa cho chúng ta hiểu về
nguyên lý tái sanh trong Phật giáo.
Một vị Ðạt
Lai Lạt Ma theo truyền thống được coi như là sự tái sanh của vị tiền nhiệm đã
mất. Nếu theo đúng nguyên tắc này, có thể nào trong tương lai chúng ta có một
vị Ðạt Lai Lạt Ma thay vì nam giới mà là một phụ nữ hoặc không phải là người
Tây Tạng?
Vâng, đây
là điều mà ta có thể hình dung được; cả hai đều có thể xảy ra. Vị Ðạt Lai Lạt
Ma thứ tư, Yonten Gyatso, là một người Mông Cổ. Lần đầu tiên trong lịch
sử Tây Tạng, đã có một nghi thức, nếu không nói là nghi lễ công quyền, công
nhận sự tái sanh của một vị lạt ma quá cố là ngài Ðệ Nhất Karmapa Rinpoche, một
vị lạt ma vĩ đại của Tây Tạng. Cũng cùng một thời gian đó, một giòng tái sanh
truyền thừa của một bậc thánh lưu vĩ đại cũng được bắt đầu, mà một người
phụ nữ có tên là Samding Dorje Pamo, đã được liên tục tái sanh suốt qua lịch sử
Tây Tạng. Bà được công nhận là người đã đạt đến một trình độ tu chứng tâm linh
vượt bực, và đồng thời cũng là người chiếm một ngôi vị quan trọng trong hệ
thống đẳng cấp tinh thần của Phật giáo Tây Tạng.
Thế nên,
nếu phong trào nữ quyền tiếp tục được phát triển, một ngày nào đó ta sẽ có một
vị Ðạt Lai Lạt Ma phụ nữ! Không có trở ngại nào trên mặt lý thuyết.
Ngài đã
từng công khai tuyên bố là sẽ từ bỏ phương thức chỉ định người thừa kế. Tại
sao, và ngài sẽ thay thế nó bằng cái gì ?
Kể từ lúc
bắt đầu cuộc đấu tranh giải phóng Tây Tạng, đã có một vài nguồn tin cố gắng
tung ra để xuyên tạc việc làm của chúng tôi. Những nguồn tin này đã nỗ lực phổ
biến cho mọi người tin rằng cuộc tranh đấu của chúng tôi không có mục đích nào
khác hơn là phục hồi lại một hệ thống quyền lực lỗi thời. Ðây là điều không
đúng sự thực. Dù chỉ mới bỏ xứ đi tỵ nạn từ năm 1959, nhưng đến năm 1962 chúng
tôi đã bắt đầu cho tiến hành thủ tục dân chủ hóa xã hội Tây Tạng. Một uỷ ban
soạn thảo hiến pháp cho Tây Tạng tương lai đã được thành lập và tôi đã cho thêm
vào bản Hiến pháp này một điều khoản nói rõ rằng, với sự chấp thuận của đa số
hai phần ba, quốc hội có quyền dẹp bỏ văn phòng Ðạt Lai Lạt Ma. Năm 1969 tôi đã
ra một tuyên bố chính thức nêu rõ văn phòng Ðạt Lai Lạt Ma và sự tồn tại của nó
hoàn toàn tùy thuộc vào ý nguyện của nhân dân Tây Tạng. Trong một bản dự thảo
liên quan đến tương lai của Tây Tạng, tôi cũng đã bày tỏ một cách rõ rằng tôi
sẽ không đảm nhiệm một vai trò chính trị nào trong quốc gia Tây Tạng tương lai
mà nó sẽ là một chính phủ dân chủ do dân chúng bầu lên. Nếu thể chế Ðạt Lai Lạt
Ma không còn phù hợp trong tương lai, nó sẽ không có lý do để hiện hữu.
Ngài
thường hay tuyên bố rằng Phật giáo, giống như Cơ Ðốc, Do thái giáo, Hồi giáo là
một trong những tôn giáo lớn của thế giới. Nhưng có lúc Ngài lại cho rằng Phật
giáo không phải là một tôn giáo. Xin Ngài vui lòng làm sáng tỏ điều mâu thuẫn
này.
Trước
tiên, nếu chúng ta y cứ vào những định nghĩa trong một số từ điển nói rằng tôn
giáo chủ yếu bao hàm niềm tin vào một đấng Thượng Ðế Sáng Tạo, và như vậy ta có
thể kết luận rằng Phật giáo không phải là một tôn giáo. Ðây là lý do tại sao mà
một số các học giả, nhà khoa học đồng thời cũng coi Phật giáo như là một
khoa học về tâm trí.
Tuy nhiên nếu chúng ta định nghĩa tôn giáo như là một phương thức tu tập tâm
linh thông qua cầu nguyện và thiền định tìm kiếm một hệ quả cho đời sau, cái mà
chúng tôi gọi là niết bàn chẳng hạn, thì trong trường hợp này ta có thể xem
Phật giáo là một tôn giáo. Hơn thế nữa, nó đồng thời vừa là một tôn giáo, một
triết học, và là một khoa học.
Tôi cũng xin được thêm rằng mối liên hệ giữa những tôn giáo này đặt căn bản hầu
như hoàn toàn vào đức tin, dành ít chỗ đứng cho lý trí; trong khi đó những
người theo chủ nghĩa duy vật thực tiễn nhất thì lại rất giáo điều khó khăn.
Phật giáo, tôi nghĩ rằng, đứng đâu đó giữa hai thái cực này. Từ quan điểm của
những người duy vật bảo thủ, Phật giáo là một tôn giáo thế nên không có chỗ
đứng trong hệ thống tư tưởng của họ. Từ quan điểm của những tôn giáo đặt nền
tảng căn bản thuần vào đức tin, Phật giáo không được coi là một tôn giáo mà là
một loại chủ nghĩa phiếm thần, hay là một khoa học tâm trí. Vì những lý do này
mà Phật giáo có cơ hội đứng ra một bên, đâu đó ở quảng giữa và có thể nhờ đó mà
trở thành một chiếc cầu nối liền giữa hai khuynh hướng cực đoan.
Mặc dù
có sự cách biệt văn hoá lớn lao, càng ngày càng có nhiều người Tây phương khao
khát đời sống tâm linh đã quay tìm về với Phật giáo thay vì Cơ Ðốc giáo. Ngài
có thể giải thích hiện tượng này không?
Tôi không
nghĩ là chúng ta không nên đi đến một kết luận quá nhanh chóng như thế bởi vì
các quốc gia Tây phương chủ yếu vẫn ở trong vòng ảnh hưởng của Cơ Ðốc giáo và
sẽ tiếp tục như thế. Hãy nhìn vào Tây Tạng, tuy là một quốc gia Phật giáo, tuy
nhiên hàng thế kỷ qua các tôn giáo ngoài Phật giáo cũng đồng thời có mặt, Hồi
giáo chẳng hạn, và kể từ đầu thế kỷ này cũng bắt đầu có một số Cơ Ðốc giáo. Thế
nên tôi nghĩ là trong số hàng triệu người Tây phương, nếu có một số ít người bị
thu hút bởi tư tưởng Phật giáo thì cũng là chuyện rất bình thường.
Ngược
lại, người Tây Tạng có thể có được những lợi lạc nào mang lại từ phía Cơ Ðốc?
Dĩ nhiên!
Qua những điều mà tôi hiểu biết về Cơ Ðốc, thì đã có một số lượng rất phong phú
của những truyền thống tuyệt vời trong tôn giáo này. Tôi cũng đã có dịp gặp gỡ
rất nhiều vị tu sĩ, nữ tu Cơ Ðốc giáo, những người đã gây một ấn tượng sâu xa
đối với tôi qua việc họ đã gánh vác những trách nhiệm lớn lao trên các lãnh vực
giáo dục và y tế -trong ý hướng phụng sự nhân loại trên khắp toàn thế giới. Một
khía cạnh tích cực khác của truyền thống Cơ Ðốc giáo đó là việc đào tạo chủng
sinh được kéo dài trong một thời gian khá lâu và rất nghiêm nhặt, như vậy người
chủng sinh đã có đủ thời gian để cần nhắc kỹ lưỡng trước khi được thụ phong
linh mục. Trong khi đó về phía Phật giáo, nhiều khi có rất nhiều tăng sĩ được
thụ giới đàn trước khi họ có những suy nghĩ về vấn đề này.
Giáo
hội Thiên chúa giáo La Mã, thông qua Ðức Giáo hoàng, đã phát biểu một quan điểm
khá bảo thủ về một số vấn đề xã hội, đặc biệt là lãnh vực tính dục. Thí dụ như
Giáo hội lên án phá thai hoặc sử dụng “áo mưa“ để ngăn ngừa bệnh AIDS. Quan
điểm của Ngài như thế nào về những vấn đề này ?
Về vấn đề
phá thai, Phật giáo quan niệm rằng sinh mạng của tất cả mọi con người đều rất
qúy giá. Trên quan điểm này, Phật giáo không tán thành việc hạn chế sinh sản.
Tuy nhiên với đà gia tăng dân số hiện nay và các nguồn tài nguyên thiên nhiên
rất có giới hạn, vấn đề đặt ra hiện nay là: năm tỷ người đang sống trên trái
đất này có hoàn toàn được hạnh phúc hay không? Hố sâu ngăn cách về mức sống
giữa các quốc gia miền Bắc và miền Nam không những mang tính cách bất công trên
mặt đạo đức mà đồng thời cả trên mặt thực tiễn. Ðây chính là nguồn gốc của các
vấn nạn và những khổ đau triền miên mà ta không thể không nghĩ tới một cách
nghiêm chỉnh. Thế nhưng, theo các chuyên gia, nếu mức sống của các quốc gia
phía Nam được nâng lên ngang tầm với các quốc gia phía Bắc, những tài nguyên
của thế giới sẽ bị cạn nguồn. Sự khảo sát này đã được dựa trên những dữ kiện
khoa học. Thế nên ta đi đến một kết luận khá hiển nhiên là phải giới hạn bớt
những người sắp sinh ra đời.
Trở lại
vấn đề phá thai: Một cách tổng quát, phá thai có nghĩa là giết người, cho nên
đây là một hành động tiêu cực. Tuy nhiên không phải là không có những trường
hợp ngoại lệ, thí dụ như đó là một quái thai hay sinh mạng của người mẹ ở trong
tình trạng hiểm nguy -nhưng xin nhớ cho rằng đây chỉ là những biệt lệ. Thế nên
quan điểm chung của Phật giáo và ngay cả chính bản thân tôi cũng luôn cổ võ cho
những biện pháp bất bạo động trong việc kiểm soát sinh sản. Tôi cũng từng
khuyến khích rằng, những phương cách tốt nhất của lối kiểm soát sinh sản bất
bạo động là nên có thêm nhiều tu sĩ và nữ tu!
Một
trong những vấn đề tranh luận chính đang chia rẽ Giáo hội Thiên chúa giáo là
vấn đề đời sống độc thân của tu sĩ, nhưng các tăng sĩ của truyền thống Phật
giáo Tây Tạng cũng sống độc thân. Theo ý kiến của Ngài, phải chăng độc thân là
điều cần yếu cho cuộc sống tu sĩ?
Trong
rất nhiều tôn giáo và truyền thống tâm linh, độc thân được coi như là một yếu
tố khá quan trọng. Nhưng dĩ nhiên đây hoàn toàn chỉ là vấn đề chọn lựa của cá
nhân và mọi người đều có quyền tự do tuân theo hay không.
Phật giáo nhận thức rằng nguyên nhân chính gây nên khổ đau là lòng tham ái, mê
đắm, những yếu tố tinh thần luôn quấy nhiễu và làm rối rắm tâm ta. Trong số
những yếu tố tinh thần tiêu cực này, những cái được coi như năng động và độc
hại nhất là thù ghét và chấp trước. Hậu quả độc hại của lòng oán ghét và hận
thù là điều quá hiển nhiên đối với mọi người. Thế nhưng chấp trước và tham ái
thường được phát triển cùng với sự phản ứng của lòng thù ghét. Một trong những
mục tiêu chính của việc tu dưỡng tâm linh là tìm ra những phương thuốc nhằm chế
ngự những yếu tố quấy nhiễu tâm hồn, tức là thù ghét và chấp trước. Có rất
nhiều hình thức chấp trước, trong đó những loại liên hệ với những kinh nghiệm
của ngũ quan thường là nguyên nhân gây nên những khổ đau lớn lao nhất cho con
người mà hiển nhiên nhất là chấp trước vào khoái lạc tình dục. Ðó là lý do tại
sao Phật giáo ca ngợi những đức hạnh của trinh tiết và sự tiết dục, cũng
như không chấp nhận bất cứ hình thức liên hệ tình dục không đúng
đắn nào.
ÐANG VÀ SẼ MÃI MÃI
LÀ NGƯỜI TÂY TẠNG
Thưa
Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, Ngài đã từng lên án Trung Cộng tìm đủ mọi cách để huỷ diệt
nền văn hoá Tây Tạng. Họ đã thực hiện điều đó như thế nào và theo ý kiến của
Ngài liệu họ có đạt được mục tiêu đó hay không?
Kể từ khi
xâm chiếm Tây Tạng, bốn mươi năm trước đây, cho đến nay Trung Cộng đã sử dụng
đủ mọi phương thức ở trong nhiều thời điểm khác nhau. Trong những năm giữa thập
niên năm mươi, họ đã cho hủy diệt hầu hết các tu viện chùa chiền, loại trừ các
thành phần trí thức, cư sĩ trung kiên, cũng như tăng sĩ bằng cách bỏ tù, tập
trung lao động cải tạo kể cả hành quyết họ trước công chúng. Rồi đến thời Cách
Mạng Văn Hóa; mà tôi nghĩ là mọi người đều biết rõ những việc mà họ đã làm.
Cuối cùng là cả một chiến dịch tuyên truyền bôi nhọ cho rằng văn hóa của Tây
Tạng là lạc hậu, đen tối, ác độc và vô giá trị, tất cả những gì thuộc về Tây
Tạng đều là thứ vô dụng, chẳng có gì để phải quan tâm. Tôi nghĩ là bây giờ họ
không còn sử dụng các phương sách này nữa.
Kể từ giữa
thập niên tám mươi, Trung Cộng đã bắt đầu đổi giọng và chính thức tuyên bố rằng
văn hóa Tây Tạng là một nền văn hoá cổ truyền, có giá trị lớn, cần phải được
bảo tồn, đó là phương thức mà họ đang sử dụng hiện nay. Họ cũng đã cho dựng lên
những bảng khẩu hiệu bằng tiếng Tây Tạng dọc theo đường phố và ngay cả ra
lệnh cho người Trung quốc sinh sống tại đây học tập ngôn ngữ Tây Tạng. Tuy nhiên đây chỉ là bề mặt, trong thực tế họ ra sức tăng cường ảnh hưởng của
Trung quốc cụ thể qua học vấn và thi cử, những kiến thức liên quan đến
Trung quốc mới là trọng tâm. Cũng xin được lưu ý rằng giảng khoá liên
quan đến truyền thống Tây Tạng rất là nghiêm túc và đòi hỏi thời gian học tập,
có khi kéo dài cả hai, ba chục năm để hoàn tất. Bây giờ ở Tây Tạng hầu như không
còn nơi nào người ta có thể theo đuổi những lớp học như thế từ lúc khởi đầu cho
đến khi hoàn tất. May ra chỉ còn ở những vùng thật xa xôi hẻo lánh, nơi mà nhà
cầm quyền Trung Cộng chưa với tay đến được. Kết quả là, trình độ học vấn
truyền thống tại Tây Tạng đang xuống đến mức thấp nhất, đó là lý do khiến hàng
ngàn người trẻ Tây Tạng đã không còn một chọn lựa nào khác hơn là tìm đến Ấn Ðộ
để theo đuổi việc học tập nghiên cứu tại các tu viện lưu vong.
Như vậy, mặc cho những tuyên truyền mà mọi người đều biết, thực tế là đang có
một nỗ lực đầy tính toán nhằm thủ tiêu nền văn hoá của chúng tôi. Cho dù có chủ
mưu hay không, sự xâm lăng của thực dân Trung Cộng là nguyên nhân chính gây nên
nạn diệt chủng nền văn hoá Tây Tạng.
Tôi xin
nêu ra một dẫn chứng cụ thể. Một người Tây Tạng đang sống tại Ấn Ðộ, gần
đây đã có dịp trở về Tây Tạng để thăm viếng cha mẹ. Khi dạo quanh khu phố cổ
của thủ đô Lhasa, khu vực chung quanh ngôi tự viện trung ương, nơi sinh sống
của đa số người Tây Tạng, điều làm cho anh ta ngạc nhiên nhất là hầu như mọi
người ở đây đều ăn mặc giống như người Trung Quốc và đều nói tiếng Trung
quốc. Bất chợt anh ta cố ý la lớn lên bằng tiếng Tây Tạng và khi thấy mọi
người có vẻ chú ý, anh ta tiến đến họ và hỏi lý do tại sao họ lại nói tiếng
Trung quốc. Mọi người đều cho biết rằng nếu không sử dụng ngôn ngữ Trung quốc,
họ sẽ bị trừng phạt,và hơn thế nữa việc nói tiếng Trung quốc làm cho họ cảm
thấy được bình đẳng ngang với kẻ thống trị.
Thưa
Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, Ngài có cảm tưởng thế nào đối với những kẻ đang gây ra
thống khổ cho nhân dân Tây Tạng?
Dĩ nhiên đôi lúc tôi cũng cảm thấy khó chịu, tuy nhiên là một người đang thực hành
giáo lý nhà Phật, do quán chiếu, mình có thể có nhiều lý do để nhìn một
cách sâu sắc hơn đối với những kẻ đang gây nên những vấn nạn, khổ đau cho kẻ
khác. Chúng ta có nhiều lý do để quan tâm đến những kẻ đang xâm lăng gây hấn
hơn là nạn nhân của họ. Tại sao như thế ? Bởi vì người đang gây ra
những vấn nạn hiện nay tức là đang tạo tác ra một tiến trình nghiệp lực mà rồi
chắc chắn họ sẽ thọ lãnh quả báo xấu ác trong tương lai; trong khi đó nạn nhân
chỉ là người đang nhận chịu khổ đau do hậu quả của những hành động tiêu cực
trong quá khứ. Thế cho nên đối với nạn nhân, qủa báo nay đã chấm dứt. Nếu suy
nghĩ theo cách này, tôi có thể phát triển được lòng từ của mình đối với những
người này.
Thưa
Ngài, sự khác nhau trong lối sống của người Tây Tạng lưu vong và những người
còn ở lại trong nước phải chăng là một nguy cơ khi đã tạo ra một khoảng cách
văn hoá giữa hai nhóm người này?
Không, Tôi
không nghĩ rằng đó là một vấn nạn. Ngay cả những người Tây Tạng tại Ấn Ðộ cũng
đã có những đời sống khác nhau, những kiến thức khác nhau do việc tiếp thu
những thông tin từ thế giới bên ngoài. Sự khác biệt là điều rất hiển
nhiên. Mặc dù sống đời tỵ nạn, nói chung là chúng tôi hoàn toàn thụ hưởng một
cuộc sống tự do. Tuy nhiên chúng tôi chỉ có 130,000 người, trong khi trong nước
có đến 6 triệu người. Ðó là lý do mà tôi luôn nói rằng họ mới là những người lãnh đạo, những người chủ của tôi. Họ là một tập thể đông đảo,
trong khi chúng tôi chỉ là một bộ phận nhỏ của cái phương trình này. Một cách
tóm tắt, tôi không thấy bất cứ vấn nạn nào trong tương lai. Dĩ nhiên có
thể là một ngày nào đó được trở về Tây Tạng, một số người sẽ cảm thấy khó
khăn trong việc thích nghi vời đời sống ở đây và thích sống ở ngoại quốc, tuy
nhiên đó không phải là một vấn nạn.
Trên
bình diện cá nhân, Ngài cảm thấy liên hệ chặt chẽ với những gì được mang lại từ
thế giới Tây phương?
Ngay từ
thuở thiếu thời tôi đã luôn bị quyến rũ bởi những tiến bộ vật chất và thành tựu
của nền khoa học kỹ thuật phương Tây. Ðiều đập vào mắt tôi trước tiên là tinh
thần ham học hỏi của người Tây phương. Chẳng hạn như bất cứ lúc nào tôi nói
chuyện về Phật giáo, tất cả quý vị đều đem giấy bút ra để ghi chép hoặc mở máy
thu băng. Người Tây Tạng, Trung Hoa và Ấn Ðộ thì không như thế, tôi để ý rằng
họ có thể lắng nghe tôi một cách thành kính, nhưng chẳng có ai bận tâm ghi
chép. Họ ngồi đó một cách yên lặng, có vẻ như đã biết hết tất cả những
điều tôi nói!
Tôi cũng
luôn luôn thán phục thái độ làm việc khoa học trung thực trên lãnh vực nghiên
cứu trong đó tinh thần vô tư, đầu óc rộng mở, kể cả hoài nghi đã đóng một vai
trò rất quan trọng. Phật giáo cũng có một đường lối tiếp cận như thế, đặc
biệt là trong truyền thống Ðại Thừa, mà nguyên tắc căn bản là không chấp
nhận bất cứ tín điều nào một cách mù quáng. Mọi việc phải được kinh qua kinh
nghiệm và thực chứng. Cho đến khi nào mọi việc sáng tỏ và có tính thuyết phục
ta mới nên chấp nhận chúng. Ðây là những gì mà tôi nghĩ là mặt tích cực
của phương Tây.
Thế nhưng
nếu qúy vị hỏi tôi thế còn mặt tiêu cực là gì... Ðiều tôi nói ra có thể là
không hoàn toàn đúng hẵn đối với các người bạn Tây phương, nhưng thỉnh thoảng
tôi để ý là qúy vị thiếu tinh thần kiên nhẫn. Tất cả quý vị đều quen với
đời sống máy móc tự động và thường là hoàn tất mọi việc một các dễ dàng. Thế
nên qúy vị dễ sinh ra tật hư là vậy. Tuy nhiên điều này cũng đã không hề ngăn
cản được rằng kiên nhẫn vẫn là một cái gì đó rất hữu ích cho đời sống con
người. Trong xã hội Tây phương người ta thường có thói quen khi phê phán một
cái gì đó thường hay quên đi tính cách tương đối của sự việc. Bạn không thể kết
luận một vật là hoàn toàn một trăm phần trăm đen hay một trăm phần trăm trắng,
một trăm phần trăm tốt hay một trăm phần trăm xấu. Mọi việc không bao giờ giản
đơn như thế: chúng có mặt tích cực đồng thời cũng có mặt tiêu cực. Thế nên theo
tôi một thái độ được coi là thực tế và hợp lý khi nhìn sự việc là, nếu mặt tích
cực trội hơn ta xem chúng là tốt và ngược lại.
Rút tỉa
kinh nghiệm, từ chỗ đứng hôm nay, Ngài nhìn về Tây Tạng trước năm 1950 như thế
nào?
Dĩ nhiên
là có một số mặt hạn chế và lạc hậu nhưng không phải là không có những khía
cạnh tích cực. Một số người có thói quen mô tả xã hội cổ của Tây Tạng như là
một thứ Shangri-la, tức là thiên đường hạ giới, dĩ nhiên đây là chuyện phóng
đại. Một số khác thì xem đó chẳng khác gì địa ngục trần gian, cũng là chuyện
phóng đại nốt.
Càng có
dịp gặp gỡ những con người và những nền văn hoá khác biệt trên thế giới tôi lại
càng nhận ra Tây Tạng có một nền văn minh tối cổ, phong phú và gạn lọc biết
chừng nào, nền văn hoá đó đã góp phần vào việc bảo tồn sự an bình tâm hồn của
con người, và như thế đó là khía cạnh khá tích cực. Có thể là vì nền văn
hoá Tây Tạng được xây dựng trên căn bản những giáo lý của Ðức Phật, vốn trưởng
dưỡng mối liên hệ hòa điệu và an bình giữa con người và môi trường sống. Mặc dù
người Tây Tạng không hoàn toàn ăn chay trường, nhưng họ đã làm đủ mọi cách để
bảo vệ muông thú , chim chóc, cá tôm. Thời xưa luật lệ của chính phủ còn cấm cả
việc săn bắn, đánh cá, bẩy chim. Chỉ có một số người Gurkhas, gốc Népal là được
miễn trừ không bị chi phối bởi luật lệ Tây Tạng, có nghĩa là họ có thể
đánh cá và săn bắn, còn người Tây Tạng , đặc biệt là vùng trung du, đã bị cấm
chỉ, và tôi cho rằng đó là một biện pháp rất tốt. Ở vào thời điểm mà chúng tôi
chưa hề bao giờ biết đến những khái niệm về “môi sinh”, “sinh thái”, nhưng
chúng tôi đã cho áp dụng những biện pháp này một cách tự động.
Ngay cả
nhìn về mặt hệ thống xã hội, tuy lỗi thời và phong kiến, nhưng nếu ta so sánh
với Ấn Ðộ và Trung Quốc cùng trong thời điểm này, nó không những ít khắc
nghiệt mà lại có phần nhân ái hơn. Cụ thể như Trung Quốc trong thời gian
này tục lệ bó chân phụ nữ hoặc thiến một số người thành hoạn quan rất khá phổ
biến, trong khi đó những việc như thế không hề được diễn ra tại Tây Tạng.
PHẦN THỨ HAI
TÂM LINH VÀ CHÍNH TRỊ
TỪ BI
Thay
mặt toàn thể nhân dân Tây Tạng, tôi xin trân trọng cảm ơn tất cả qúy vị, những
người đã quan tâm sâu xa đến nền văn hoá và truyền thống của Tây Tạng trên cả
hai bình diện tinh thần lẫn thế tục. Xin cảm ơn một lần nữa về những gì mà qúy
vị đang góp tay để gìn giữ cho những truyền thống này không bao giờ bị mai một.
Hôm
nay tôi sẽ xin được hầu chuyện cùng qúy vị về vấn đề bình an tâm hồn. Lý
do mà nền văn hóa Tây Tạng có một tầm mức quan trọng như thế - ít nhất đối với
tôi- vì nền văn hóa của chúng tôi có một tiềm năng lớn lao trong việc làm tăng
tiến sự bình an tâm hồn. Trong một giai đoạn cực kỳ khó khăn như mọi người đều
biết, xảy ra tại Tây Tạng hồi gần đây, một trong những yếu tố đã giúp chúng tôi
giữ vững niềm tin, không mất hy vọng chính là nhờ bản sắc đặc biệt của nền văn
hoá đó.
Mặc
cho bao thử thách và tình huống khó khăn, nền văn minh này đã cho phép chúng ta
bảo tồn được sự thanh thản và an bình tâm hồn. Gần đây tôi càng ngày càng có
dịp được tiếp xúc với khá nhiều các nhà khoa học phương Tây, thảo luận cùng họ
về những mối bực dọc, khủng hoảng tâm thần mà con người hôm nay đang mắc phải
cũng như tìm kiếm những phương thức khả dĩ có thể chữa trị chúng. Họ đã cật vấn
tôi khá lâu về sức mạnh và tình trạng tâm thần của nhân dân Tây Tạng, và họ đã
rất ngạc nhiên khi thấy mặc dù phải kinh qua những biến cố thương tâm, người
Tây Tạng vẫn giữ được cho mình một trạng thái bình ổn tâm hồn. Ðiều này đã được
đặc biệt ghi nhận ở một số người phải trải qua một thời gian dài trong các trại
tù, lao động khổ sai của Trung Cộng.
Tôi
xin được chia xẻ cùng qúy vị một trường hợp điễn hình. Vị phó trú trì của tu
viện Namgyal mới lưu vong qua Ấn Ðộ gần đây, đã bị Trung Cộng bắt bỏ tù từ năm
1959, rồi sau đó được chuyển vào trại lao động khổ sai, và bị đày ải trong
khoảng mười tám năm trời như thế. Sau khi đặt chân đến tu viện lưu vong của
Ngài tại Ấn Ðộ, chúng tôi lại có dịp chuyện trò tán gẫu với nhau. Ngài đã kể
lại cho tôi nghe về cuộc đời và những kinh nghiệm sống mà Ngài đã trải qua.
Ngài có nói đến chuyện sau khi bị rơi vào tay Trung Cộng, Ngài ở vào một trạng
thái khá nguy hiểm đối với một người tu sĩ, đó là khả năng có thể đánh mất lòng
từ đối với những kẻ đã hành hạ tra tấn Ngài. Ðây là một nhận định rất đáng lưu
tâm!
Tôi
thường hay trêu chọc, bảo rằng suốt qua một thời gian dài gian khổ bị Trung
Cộng hành hạ kỹ như thế mà khuôn mặt của ông ta chẳng hề đổi thay gì cả. Mặc dù
ông ấy già hơn tôi, nhưng tóc lại còn ít bạc hơn tôi nữa -qúy vị có thể không
trông thấy tóc bạc của tôi đâu vì tôi mới cạo đầu sáng nay! Nhưng điều đáng nói
hơn hết là ông ấy vẫn luôn giữ được trên môi một nụ cười tuyệt diệu. Theo tôi,
tất cả có được đều do nền văn hoá của Tây Tạng, của Phật giáo.
Cũng
có thể lấy kinh nghiệm khiêm tốn của tôi làm một thí dụ. Là một tu sĩ Phật
giáo, tôi được đào luyện về tu tập, học hỏi về triết lý và giáo lý Phật giáo,
nhưng chẳng có một chút chuẩn bị nào để đối phó với những yêu cầu của
thời đại tân tiến. Thế mà tôi đã phải gánh vác những trách nhiệm khá lớn lao.
Tôi đã bị mất tự do ở vào tuổi mười sáu và mất nước lúc lên hăm bốn tuổi. Tôi
đã phải sống kiếp lưu vong trong suốt ba mươi bốn năm qua, làm thân tỵ nạn tại
một xứ sở ngoại quốc. Trong suốt thời gian này, trong khi đang phục vụ cho cộng
đồng Tây Tạng lưu vong, đất nước chúng tôi vẫn còn đang gánh chịu biết bao điêu
linh và thống khổ. Mặc dù với tất cả những thảm trạng như thế, tôi vẫn giữ được
tâm hồn mình, bình an, thư thái.
Trong
một vài trường hợp khách du lịch trở về từ Tây Tạng hoặc các trại tỵ nạn tại Ấn
Ðộ thường có một ấn tượng sai lầm rằng người Tây Tạng hiện đang sống có vẻ rất
hạnh phúc, luôn luôn mĩm cười, có gì là đau khổ đâu. Nhận định sai lầm này có
thể là điều bất lợi duy nhất cho thái độ tinh thần của chúng tôi.
Làm
thế nào để phát triển sự bình an và thanh thản tâm hồn? Tôi luôn nghĩ rằng bản
tánh của con người là tốt đẹp. Thực tế mà nói, trong mỗi chúng ta không phải là
không có những tình cảm ganh tỵ, hận thù, tuy nhiên tôi vẫn luôn tin rằng bản
chất đích thực của con người vẫn là lòng yêu thương trìu mến và nhân ái. Từ
ngày mở mắt chào đời cho đến khi thở hơi cuối cùng, sự hiện hữu của ta gắn bó
chặt chẽ với yêu thương và nồng ấm tình người. Một thực tế mà mọi người
đều biết là trẻ con nếu được nuôi dưỡng trong một gia đình đầy tình yêu thương
thường có nhiều triển vọng phát triển đầy đủ nhân tính tốt đẹp, trong khi những
đứa trẻ trưởng thành trong một bầu khí thiếu vắng tình thương, từ bi nhân ái
chung cuộc đều có những thái độ tiêu cực trong đời sống cũng như tạo nên những
căng thẳng bất cứ nơi nào mà họ có mặt. Sự hiện hữu hay thiếu vắng tình thương
yêu, từ ái trong gia đình gây nên một tác động rất hiển nhiên. Các y sĩ
và nhà khoa học cho biết rằng trạng thái tâm hồn tĩnh lặng là một yếu tố then
chốt cho sức khỏe của con người. Thêm vào đó, những tuần lễ đầu tiên sau khi
chào đời, những tiếp xúc thể xác giữa đứa bé và người mẹ hay bất kỳ ai đó, là
một yếu tố quan trọng hàng đầu cho việc đánh thức và phát triển bộ óc của đứa
trẻ.
Chúng
ta ai cũng biết rằng những lúc mà tâm trạng mình đang phấn chấn vui vẻ, có cảm
tưởng như cả thế giới đang mĩm cười với mình, ta sẽ chấp nhận những khó khăn
hay tin buồn một cách dễ dàng hơn là lúc mà tâm hồn ta đang buồn bả, hoang mang
giao động hay bất ổn, lúc đó chỉ cần một biến cố nhỏ cũng đủ làm cho ta nổ bùng
những tình cảm tiêu cực. Nếu đời sống của chúng ta cứ luôn bị những tình cảm
tiêu cực này chế ngự , chúng ta sẽ không còn ăn ngon miệng, bị mất ngủ hoặc đau
ốm bệnh hoạn mà kết quả là đời sống của chúng ta sẽ bị thu ngắn lại. Tình trạng
thư thái tâm hồn vì thế rất quan trọng.
Con
người sống trong xã hội phương Tây thường rất chính xác như một bộ máy, họ
thích hoạt động một cách tự nhiên hơn là do động cơ thúc đẩy. Theo tôi, động cơ
thúc đẩy mới là điều quan trọng, bởi lẽ chúng ta rất khó có thể phê phán giá
trị của một hành động nếu không liên hệ đến cái gì đang nằm đàng sau hành động
đó. Nói cho cùng, năng lực của đời sống, của hoạt động nhân loại chính là
ý hướng. Nó diễn ra trong tư tưởng của chúng ta, cũng giống như sự hiện hữu của
vô vàn các phẩm vật trên thế gian này -có cái ích lợi có cái độc hại- mà ta
luôn cố gắng tìm cách thu thập hay loại bỏ; trong thế giới nội tâm, trong tâm
hồn của ta cũng thế, cũng chất chứa đủ trăm, ngàn loại tư tưởng khác nhau. Có
cái rất hữu ích vì chúng mang đến cho chúng ta hạnh phúc, cho tâm hồn ta
thư thái và thêm sức mạnh. Nhưng có cái gây phiền nhiễu ta, làm cho ta mất tinh
thần, khủng hoảng và thậm chí đẩy ta đến chỗ tự vẫn.
Tư
tưởng và tình cảm vì thế có thể là tích cực hay tiêu cực. Cho nên điều trước
tiên ta phải nhận chân giá trị của nó trước khi bồi dưỡng những cái tích cực và
loại bỏ những cái tiêu cực. Bằng cách đó, chúng ta có thể đào luyện được sự
bình an tâm hồn. Mấu chốt của vấn đề là khả năng phân biệt được những tư tưởng
nào có ích hay không. Phương cách hay nhất là chúng ta không nên để cho mình bị
vướng mắc bởi những tư tưởng, tình cảm đó. Giản dị nhất là xem chúng như một
phần của tổng thể của ta và không có gì để phải bận tâm với chúng. Những khi mà
chúng ta phải đối đầu với vấn nạn hay hiểm nguy, tình cảm giận dữ và hận thù có
vẻ như che chở ta, cho ta những nguồn năng lực mới. Tuy nhiên sự chấp trước âm
thầm len lỏi sâu vào tâm hồn ta; và ta chào đón chúng như một người bạn cố tri
thân ái. Chung cuộc, người “bạn cố tri” này sẽ là kẻ lừa phỉnh ta không thương
tiếc. Trong số những loại tình cảm này, giận dữõ và sợ hãi chẳng hạn, sẽ
nhanh chóng phơi bày bộ mặt thật của chúng, còn những tình cảm khác như chấp
trước sẽ lần hồi tạo nên những hệ qủa tiêu cực theo với thời gian. Một khi mà
chúng ta biết rõ được bản chất của các thái độ tiêu cực và nhận diện một cách
đúng đắn các hậu qủa do chúng mang lại, ta sẽ rất dễ dàng cảnh giác chúng.
Từ
đó chúng ta có thể bắt đầu giải trừ chúng đểø vun xới các tình cảm tốt
đẹp -từ bi, hỷ xả và thiện cảm. Bằng cách này chúng ta có thể trưởng dưỡng
những tình cảm tích cực và làm suy yếu dần những tình cảm tiêu cực. Ngay cả cho
dù chúng vẫn còn tiếp tục xuất hiện cũng sẽ chỉ là những tình cảm thoáng qua,
không lưu lại một dấu ấn rõ rệt nào trong tâm trí chúng ta. Trong một vài
trường hợp, tốt nhất là ta cứ việc bày tỏ nổi giận dữ hay hối hận đối với những
việc làm trong qúa khứ để loại trừ những cảm giác này. Tuy nhiên, một cách tổng
quát, nên lưu ý rằng nếu ta cứ để cho sự giận dữ và các tình cảm tiêu cực khác
bộc phát một cách dễ dàng, chúng sẽ trở thành thói quen và lần hồi biến ta
thành một người nổi nóng khá thường xuyên. Ðó là lý do tại sao mà tôi cho rằng
chúng ta cần phải áp đặt một số biện pháp kỹ luật để rèn đúc tâm hồn mình. Thứ
kỹ luật này không thể được áp đặt từ bên ngoài; chúng phải được áp đặt tự bên
trong do trí thông minh sẵn có của mỗi người. Bằng cách này ta sẽ chấp nhận
chúng một cách dễ dàng.
Ðể
huấn luyện tâm hồn, thời gian là một yếu tố quan trọng hàng đầu. Ðừng bao giờ
trông chờ việc ta có thể hoàn toàn chuyển hóa trong một vài phút, hay thậm chí
một vài tuần, khi nghĩ rằng ta đang đón nhận ân sủng từ một bậc giác ngộ
có thể giúp cho ta đạt đến kết qủa một cách nhanh chóng. Ðó là một thái độ hoàn
toàn không thực tế. Công việc tu tập đòi hỏi thời gian, trong nhiều năm, có khi
nhiều thập kỷ. Thế nhưng nếu chúng ta kiên trì, nắm vững mục tiêu và mọi phương
tiện để đạt đến cứu cánh, chắc chắn ta sẽ thu hoạch được những tiến bộ theo
thời gian.
Làm
thế nào để chúng ta giảm thiểu dần sự giận dữ và thù hận? Trong một vài trường
hợp, ví dụ như nếu động cơ thúc đẩy là lòng từ bi, giận dữ có thể là một khía
cạnh tích cực. Thù hận ngược lại, luôn luôn là một tình cảm tiêu cực. Chúng ta
phải đo lường và nhận thức được bản chất độc hại của những loại tình cảm khốn
khổ này như lòng thù hận chẳng hạn. Như tôi đã từng phát biểu trước đây, sự hận
thù làm cho chúng ta mất đi cả sức khỏe lẫn bạn bè cũng như nó sẽ làm ung thối
cả cuộc đời ta. Những tình cảm tiêu cực gây nên nhiều vấn nạn ở mọi cấp độ khác
nhau: cá nhân, gia đình, cộng đồng, quốc gia, cũng như cả quốc tế. Lịch sử nhân
loại cho chúng ta thấy rằng những kẻ gây nên những khổ đau khôn cùng cho kẻ
khác thường bị thúc đẩy bởi nỗi giận dữ vô bờ và lòng tham lam quá độ.
Thái độ như thế đã được bắt nguồn từ vô minh. Ðiều này không có nghĩa
rằng những người này có tâm địa ác độc, chung quy họ cũng chỉ là những con
người. Tuy nhiên họ đã để cho tâm trí của mình bị chế ngự và hướng dẫn một cách
mù quáng bởi những tình cảm tiêu cực, biến họ trở thành những kẻ sát nhân.
Nhìn
vào lịch sử nhân loại một lần nữa ta sẽ thấy rằng tuyệt đại bộ phận những thành
công kiệt xuất đều được thực hiện bởi những con người có lòng vị tha và tâm hồn
bình ổn. Ða phần những nhạc sĩ tài danh những nhà nghệ sĩ lớn đều có một cuộc
sống nội tâm an bình. Dĩ nhiên không phải là không có ngoại lệ, tuy nhiên một
cách tổng quát mà nói, nhà nghệ sĩ rung lên những tiếng tơ đồng phát xuất từ sự
tĩnh lặng nội tâm nhằm giải bày những nỗi lòng sâu kín của mình. Bằng cách đó,
nhà nghệ sĩ tạo ra niềm hạnh phúc và mang đến nguồn cảm hứng cho kẻ khác.
Chúng
ta cũng có thể rút ra một bài học trong thời cận đại qua tấm gương của Mahatma
Gandhi, một nhân vật kiệt xuất có ý thức kỷ luật tự giác cao. Ông ta sống
rất thỏa mãn hạnh phúc với những nhu cầu tối thiểu. Mặc dù được đào tạo từ nền
giáo dục Tây phương và ý thức được những đặc quyền đặc lợi của một cuộc sống
tiện nghi vật chất và những cơ may mà nền văn minh đó mang lại, ông đã chọn lựa
sống một cuộc sống tuyệt đối đơn giản tại Ấn Ðộ, chẳng khác gì một kẻ ăn mày.
Ðiều này phản ánh một tinh thần kỷ luật tự giác và một tâm hồn vị tha cao quý. Tất
cả mọi khía cạnh tích cực mà con người cố gắng để hoàn tất đều là kết qủa của
những tình cảm tích cực này của tâm hồn.
Kinh
nghiệm của chính bản thân tôi, cũng như của nhiều người khác, cho ta thấy ở mức
độ nào các thái độ tinh thần tích cực mang lại hạnh phúc cho cá nhân mình và
cho người khác, và ở mức độ nào các thái độ tiêu cực trở nên tàn hại. Trên căn
bản đó mỗi cá nhân cần tự mình nỗ lực vận dụng những năng lực sẵn có để phát
triển tâm hồn mình.
Con
người sinh sống trong một môi trường xã hội nhất định. Mặc dù ai cũng công nhận
rằng tốt nhất là chúng ta có nhiều bạn và không có kẻ thù, nhưng rồi mọi người
đều có cả bạn lẫn thù trong cái đám đông đó. Nhưng bạn và thù thật ra
không hiện hữu y như thế. Tình thân hữu và sự thù địch chỉ là kết qủa của nhiều
yếu tố khác nhau, trong đó yếu tố hàng đầu chính là thái độ tinh thần của chúng
ta. Khi chúng ta mở rộng vòng tay ra với tha nhân và sẵn sàng cống hiến tình
thân hữu và thân ái của ta đối với họ, lập tức chúng ta đã tạo dựng nên một bầu
khí tốt lành. Ngay cả không nhận thức được điều này, họ cũng sẽ tiến đến ta bằng một khuôn mặt rạng rỡ nụ cười -không phải là khuôn mặt căng
thẳng hay nụ cười giả dối mà là sự chân thành cởi mở. Ngược lại nếu ta
chỉ sống bằng những ác niệm, những tư tưởng tiêu cực, không thèm đếm xỉa đến
quyền lợi và nguyện vọng của tha nhân; hay nói một cách khác, chúng ta chỉ nghĩ
đến cá nhân mình và có khuynh hướng khai thác, lợi dụng kẻ khác cho những mục
tiêu cứu cánh của mình, tình huống sẽ trở nên tồi tệ. Cuối cùng rồi ngay cả
những người thân cận nhất trong gia đình cũng sẽ lánh xa ta. Như vậy, vấn đề đã
trở nên rõ ràng rằng bạn hay thù chẳng qua chỉ là sản phẩm của chính thái độ
của chúng ta.
Một
số khác đã suy nghĩ một cách sai lầm rằng tiền bạc có thể mang đến cho ta
bạn bè. Không chắc như vậy -bởi vì nó đồng thời cũng mang đến kẻ thù! Hãy
dừng lại một chút và suy nghĩ về những người đang chào đón ta với nụ cười rộng
mở trên khuôn mặt: Họ thật sự là bạn ta hay chỉ là bạn của túi tiền mà ta đang
có? Không thể biết được. Bao lâu mà ta còn tiền, có thể họ sẽ đến cụng ly sâm
banh với ta và mọi chuyện đều diễn ra một cách tốt đẹp. Thế nhưng khi ta bắt
đầu rỗng túi, bạn bè đều lần lượt biến mất như là một phép lạ. Bây giờ thì rất
khó mà điện thoại cho họ, hoặc có thể ta lại bị họ cúp máy không chừng. Tiền
bạc và của cải vật chất dĩ nhiên là cần thiết nhưng chúng không phải là vật
thiết thân. Sự giàu có thật sự chỉ được tìm thấy bên trong của mỗi con người.
Từ
bi, hỷ xả, hy vọng và nhẫn nhục là những tình cảm tốt đẹp mà tất cả các tôn
giáo lớn đều cố gắng phát huy và củng cố. Bạn không nhất thiết phải là người có
tín ngưỡng -mọi người đều có quyền có tín ngưỡng hay không- mới có thể làm tăng
tiến những thái độ tích cực này trong tâm hồn mình. Chúng ta nên nhớ rằng các
tôn giáo lớn của thế giới đều chuyên chở chung một thông điệp và khuyến
khích phát triển những đức tính tốt đẹp của con người. Mặc dù giáo điều của mỗi
tôn giáo có thể khác nhau nhưng tựu trung, thông điệp chính đều giống nhau.
Trên căn bản của mẫu số chung này, thông điệp của thương yêu và từ bi sẽ được
tung ra khắp tận cùng thế giới nếu tất cả những ai đang bước đi trên hành trình
tâm linh cùng ngồi lại làm việc với nhau trong tinh thần hoà điệu và tương
kính.
Tuy
nhiên nếu những kẻ luôn mạnh miệng cổ võ những phẩm chất tốt đẹp của con
người lại quay ra cải vã chỉ trích lẫn nhau thì làm sao họ lại có thể rao
truyền thông điệp này đến kẻ khác? Chắc chắn mọi người sẽ nói rằng, với chút ít
mai mỉa: “Coi bọn họ kìa! Khoan dung và tương kính ở chỗ nào? Ngay cả bọn họ
còn chẳng chịu được nhau thì nói gì ai.” Thế nên nếu chúng ta muốn giúp đỡ nhân
loại một cách thực tiễn, chúng ta phải bắt đầu bằng việc biến mình thành một
tấm gương tốt của lòng tương kính, sự hoà hợp và tinh thần hợp tác trước mắt
nhìn của thế giới. Nhìn từ xa, những cách biệt có vẻ như rất lớn lao. Tuy
nhiên nếu ta chịu khó tiếp cận với tha nhân và chia xẻ những kinh nghiệm của
họ, chúng ta sẽ biết cách làm thế nào để hòa điệu với kẻ khác cho dù có những
khác biệt về đức tin, giáo lý; và làm thế nào để cùng nhau phát triển các khía
cạnh tích cực của đời sống nhân loại. Cho nên việc quan trọng hàng đầu là duy
trì mối quan hệ tốt đẹp, và các phong trào tôn giáo khác biệt cần nên
chia xẻ, giao tiếp cùng nhau. Cho dù tất cả những xung đột do nguyên nhân bất
đồng tín ngưỡng xảy ra tại Bosnia hay Phi Châu, luôn luôn vẫn có những bước
khích lệ hướng về việc hòa giải. Tuy nhiên cần có những nỗ lực kiên trì trong
hướng đó!
Thưa
Ngài, gần đây chúng tôi có dịp được đọc một bản tài liệu liên quan đến nỗi
thống khổ của Tây Tạng, trong đó kể cả lời khai của một nhà sư bị tù đày hơn ba
mươi ba năm trời -hai mươi bốn năm trong nhà tù và chín năm trong các
trại lao động khổ sai. Ông ta đã trải qua những đau đớn bởi những nhục hình tra
tấn khó tưởng tượng nỗi, biến ông trở thành kẻ tàn phế suốt đời. Như thế bằng
cách nào chúng ta có thể đạt được sự bình an tâm hồn vốn hàm chứa thanh thản và
đức hạnh khi chúng ta được nghe những câu chuyện như thế? Phải chăng bày tỏ nỗi
giận dữ và làm một cái gì đó một cách thực tiễn là những đáp ứng tương xứng
nhất?
Ðiều
quan trọng nhất là ta không thờ ơ lãnh đạm đối với những chuyện như thế, ta cảm
nhận sâu xa tình huống này nhưng trong một chiều hướng xây dựng hơn, không biết
qúy vị có hiểu điều tôi muốn nói không. Chúng ta không nên để cho mình bị tràn
ngập bởi những cảm thức đến độ tê cóng. Tôi không chắc là tôi có hiểu rõ câu
hỏi của qúy vị hay không, tuy nhiên nếu vấn đề đặt ra là để duy trìõ sự an bình
nội tâm một cách có hiệu quả khi phải đối đầu với những tình huống như qúy vị
vừa trình bày, điều này tùy thuộc một phần lớn vào mức độ phát triển tinh thần
của mỗi cá nhân.
Với
những thử thách khủng khiếp mà Ngài và dân tộc Ngài đang trải qua và tiếp tục
chịu đựng, có khi nào Ngài nghĩ đến thiên nhiên, đến hoa viên cây cảnh? Ngài có quan niệm rằng chúng là những biểu hiện rõ nét của nền văn minh? Theo ý
kiến của Ngài, cảnh trí có cho ta một thông điệp nào không? Những hoa viên,
cảnh trí có thể giúp ta tìm ra được sự bình an tâm hồn, giúp ta nhận thức, đưa
ta đến con đường minh triết?
Tôi
tin chắc rằng mỗi khi tinh thần ta bị khủng hoảng, nếu ta chịu khó bước ra ra
bên ngoài ngắm nhìn phong cảnh, thở hít bầu không khí trong lành và lắng nghe
chim chóc ca hót, tâm hồn chúng ta sẽ tạm thời lắng xuống. Nói cho cùng, mặc dù
với tất cả kiến thức và khả năng, chúng ta vẫn là một phần tử của thiên nhiên,
là một sản phẩm của thiên nhiên. Tổ tiên của chúng ta hàng ngàn năm trước đã
sống rất gần gũi với thiên nhiên. Hôm nay trong chúng ta vẫn còn lưu lại những
dấu vết của đời sống đó: ngay cả trong những ngôi nhà tân tiến nhất, chúng ta
vẫn thích trang hoàng đồ đạc trong nhà bằng gỗ và cây kiểng xanh tươi -cái đó
như đã ở trong máu huyết của chúng ta.
Trong
quá khứ, tất cả cuộc sống con người hầu như nương dựa vào cây cối. Hoa là vật
điểm trang, trái cây là thực phẩm, lá và vỏ cây cho ta áo quần và nơi trú ẩn.
Chúng ta lẫn trốn trên những cành cây để đề phòng thú dữ. Chúng ta dùng
củi để sưởi ấm khi lạnh giá, và khi về già chiếc gậy nâng đỡ ta trước sức nặng
của thời gian, đó cũng là vũ khí để ta tự bảo vệ mình. Chúng ta đã gắn bó với
cây cối như thế. Bây giờ, trong các văn phòng cực kỳ hiện đại, chung quanh ta
là những máy móc tối tân, những dàn vi tính với hiệu suất cao, ta dễ dàng quên
đi những mối liên hệ chặt chẽ với thiên nhiên. Cũng là chuyện rất bình thường
khi ta cố gắng cải thiện phẩm chất của đời sống thông qua những tiến bộ của
khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên đồng thời một điều cũng khá quan trọng là nếu ta
biết được những giới hạn của sự tiến bộ đó và giữ cho mình tỉnh táo để thấy một
sự thực là ta vẫn còn nương tựa vào thiên nhiên. Nếu môi trường sống của chúng
ta bị thay đổi đến tận gốc rễ, chúng ta sẽ không còn cách gì để tự bảo vệ chính
mình. Ðó là lý do tại sao cả tư duy lẫn hành động của chúng ta đều nền đi theo
con đường Trung Ðạo.
Trong
trí tưởng của người Tây phương, thường có sự mù mờ giữa sự ức chế tình cảm và
sự tìm kiếm an bình nội tâm. Khi chúng ta ức chế một cái gì đó, chúng ta thường
mang những gì được coi là vấn nạn trong đời sống của mình đem đi dấu biệt vào
một xó xỉnh nào đó và nghĩ rằng ta có thể quên chúng đi để có thể tiếp tục sống
mà khỏi phải đối diện với chúng. Thưa Ngài, Ngài có suy nghĩ gì về nghệ
thuật ức chế này?
Tôi
nghĩ là tôi đã từng đề cập phớt qua đến vấn nạn này khi nói rằng, trong một số
trường hợp, cụ thể là sự sợ hãi chẳng hạn, không nhất thiết là một điều xấu khi
bạn cứ cho những tình cảm này bộc phát ra để rồi loại bỏ chúng. Tuy nhiên điều
này không phải là không có những mối hiểm nguy. Thực vậy, nếu ta thiếu ý thức
kỷ luật tự giác và cứ để mặc cho tất cả mọi loại tình cảm xâm nhập tâm trí ta
tuôn ra một cách tự nhiên, lấy cớ là ta phải để cho nó bộc phát, chúng ta sẽ đi
đến chỗ quá trớn và không chừng vi phạm cả luật pháp quốc gia. Trên bình diện
xã hội hay cá nhân, chúng ta cần có một thứ kỷ luật nội tâm để hướng dẫn tư duy
của ta theo một chiều hướng xây dựng. Những tình cảm của con người thường không
có giới hạn, và sức mạnh của những tình cảm tiêu cực là vô tận.
Tuy
nhiên tôi không nghĩ rằng trong trường hợp như thế chúng ta có thể gọi đó là ức
chế. Ngược lại, đây là vấn đề có vẻ rất tích cực. Chúng ta học hành và tu tập
với mục đích từng bước loại bỏ sự vô minh. Tu tập nhiều khi không phải là
chuyện dễ dàng. Mỗi khi mệt mỏi ta tưởng như sẽ không còn thể nào tiếp tục được
nữa. Thế nhưng khi bắt đầu ý thức được những lợi lạc của sự tu tập, chúng ta sẽ
tự thiết định cho mình một thứ kỷ luật và nỗ lực vươn theo. Bằng học tập, chúng
ta mở rộng tầm kiến thức của mình, nhưng điều đó không có nghĩa là ta ức chế
được vô minh!