Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

07. Duyên sinh

06 Tháng Hai 201100:00(Xem: 5764)
07. Duyên sinh

THƯƠNG YÊUTHÔNG CẢM
Bình Anson
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo TL. 2005 - PL. 2549
07-

Duyên sinh

Hòa thượng Nyanatiloka
Bình Anson lược dịch

Tiếng Pāli của lý Duyên khởi hay Duyên sinhPaticcasamuppāda (tiếng Anh là Dependent Origination). Đây là thuyết về điều kiện tính (conditionality) của tất cả hiện tượng tâm lý - vật lý (tâm-vật). Thuyết nầy cùng với thuyết Vô ngã (anattā) lập thành điều kiện thiết yếu để có thể thông hiểuthực chứng lời dạy của Đức Phật. Thuyết này diễn tả tính cách tương quan, có điều kiện tính, của một dòng chảy liên tục gồm những hiện tượng tâm-vật của sự hiện hữu, theo quy ước được gọi là cái Tôi (ego), con người, con vật, v.v.

Trong khi thuyết Vô ngã được trình bày bằng cách phân tích, phân chia sự hiện hữu thành các thành tố, cho đến tận cùng chỉ còn là những hiện tượng trống rỗng, phi thực thể, thì ngược lại, lý Duyên khởi, được trình bày bằng lối tổng hợp, và chỉ rõ ràng mọi hiện tượng đều tương quan với nhau, làm duyên (tạo điều kiện) cho nhau bằng cách nầy hay cách khác. Toàn bộ tạng Thắng Pháp (Abhidhamma pitaka, A-tỳ-đàm tạng hay Vi Diệu Pháp tạng) chỉ đề cập hai giáo thuyết: tính chất Hiện tượng - nghĩa là vô ngã tính; và tính chất Duyên sinh - nghĩa là điều kiện tính, của mọi sự hiện hữu. Giáo thuyết đầu hay phương pháp phân tích, được áp dụng trong Bộ Pháp Tụ (Dhammasangani), bộ sách đầu tiên của tạng Thắng Pháp; giáo thuyết sau hay phương pháp tổng hợp, áp dụng trong Bộ Vị Trí (Patthāna), bộ sách cuối cùng của tạng Thắng Pháp.

*

Mặc dù đề tài nầy thường được nhiều học giả Tây phương bàn luận, nhưng đa số các vị ấy thường hiểu lầm ý nghĩamục đích thật sự của lý Duyên khởi. Ngay cả những thuật ngữ dùng để chỉ 12 chi phần của giáo lý này cũng thường bị diễn dịch sai.

Duyên khởi thường được tóm lược như sau:

- Vô minh duyên hành: Do vô minh, các hành có điều kiện để sinh ra. Hành là những tư tâm sở (cetanā) hay ý chí đưa đến tái sinh, còn gọi là hành nghiệp.

- Hành duyên thức: Do hành nghiệp (trong đời quá khứ) mà thức (hiện tại) có điều kiện phát sinh.

- Thức duyên danh sắc: Do thức, các hiện tượng tâm-vật lý có điều kiện phát sinh. 

- Danh sắc duyên lục nhập: Do danh sắc, sáu căn (5 căn vật lýý căn) có điều kiện phát sinh.

Quá khứ 1. Vô minh (avijjā)
2. Hành (sankhārā)
Nghiệp hữu (kamma-bhava)
5 nhân: 1, 2, 8, 9, 10
Hiện tại 3. Thức (viññāna)
4. Danh sắc (nāma-rūpa)
5. Lục nhập (āyatana)
6. Xúc (phassa)
7. Thọ (vedanā)
Sinh hữu (upapatti-bhava)
5 quả: 3, 4, 5, 6, 7
8. Ái (tanhā)
9. Thủ (upādāna)
10. Hữu (bhava) 
Nghiệp hữu (kamma-bhava)
5 nhân: 1, 2, 8, 9, 10
Vị lai 11. Sinh (jāti)
12. Già chết (jarā-marana)
Sinh hữu (upapatti-bhava)
5 quả: 3, 4, 5, 6, 7
- Lục nhập duyên xúc: Do lục nhập, ấn tượng cảm quan (hay xúc) có điều kiện phát sinh.

- Xúc duyên thọ: Do xúc, cảm thọđiều kiện phát sinh.

- Thọ duyên ái: Do thọ, tham áiđiều kiện phát sinh.

- Ái duyên thủ: Do ái, chấp thủđiều kiện phát sinh.

- Thủ duyên hữu: Do thủ, mà hữu có điều kiện phát sinh. Hữu là tiến trình năng độngthụ động của đời sống, gồm Nghiệp hữu (nghiệp đưa đến tái sinh, kamma-bhava) và Sinh hữu (hậu quả của nghiệp hữu, upapatti-bhava).

- Hữu duyên sinh: Do nghiệp hữu mà có tiến trình tái sinh

- Sinh duyên già chết: Do tái sinh, già và chết (sầu, bi, khổ, ưu, não) có điều kiện phát khởi. Như thế, toàn bộ khổ uẩn nầy lại sinh khởi tiếp tục trong tương lai.

Ðồ biểu dưới đây chỉ rõ tương quan duyên khởi giữa 3 đời kế tiếp (quá khứ, hiện tạivị lai).

1. Vô minh duyên hành: Các nghiệp thiện, bất thiện về thân, ngữ, ý, đều do vô minhsinh khởi. Hành nghĩa là các tư tâm sở (cetanā, tác ý) thiện và bất thiện, những hành động cố ý, tóm lại là Nghiệp (kamma, Sanskrit: karma).

Ở đây, Nghiệp trong Phật giáo chỉ là một thuật ngữ có nghĩa là những hành động cố ý, thiện hay ác, đem lại hậu quả trong hiện tại, hoặc làm nhân cho số phận và sự tái sinh trong tương lai. Nghiệp không bao giờ có nghĩa là hậu quả của hành động, như nhiều học giả Tây phương thường hiểu lầm.

Bằng cách nào nghiệp hành được phát sinh do duyên vô minh? Về bất thiện nghiệp tương ưng với tham, sân hay si, các nghiệp hành nầy có điều kiện (duyên) là vô minh tương ưng bất ly với chúng, luôn luôn trong mọi trường hợp. Vậy, vô minh là một duyên cho các bất thiện hành (nghiệp), qua câu sinh duyên (sahajāta-paccaya), tương ưng duyên (sampayutta-paccaya), hữu duyên (atthi-paccaya) v.v. Hơn nữa, vô minh đối với bất thiện nghiệp còn là một duyên như thân y duyên (upanissaya-paccaya), chẳng hạn như khi vô minh đi kèm với tham, xúi giục một người phạm các tội ác như giết người, trộm cắp, tà dâm, v.v. Trong trường hợp ấy, vô minh là một duyên tự nhiên thân y (pakati-upanissaya-paccaya). Nó cũng có thể trở thành một sở duyên thân y (ārammanūpanissaya-paccaya), duyên của tư tưởng chúng ta. Ðiều nầy xảy ra như trường hợp có người nhớ lại một tình trạng vô minh về trước, phối hợp với khoái lạc, và khi hồi tưởng như thế, các bất thiện pháp khởi lên, như dục tham, sầu, ưu, v.v.

Với các nghiệp (hành) thiện, vô minh chỉ có thể làm một điều kiện gọi là thân y duyên, chứ không bao giờ làm câu sinh duyên v.v., bởi vì thiện tâm vào lúc hành thiện đương nhiên không thể tương ưng với bất cứ một bất thiện pháp nào, như vô minh. Vô minh là một duyên, kể như tự nhiên thân y duyên (pakatupanissaya), chẳng hạn một người bị vô minh và thói khoe khoang thúc đẩynỗ lực để đắc các thiền, và cuối cùng nhờ kiên trì cũng đạt các thiện tâm ấy. Vô minh cũng có thể là thân y duyên cho các nghiệp thiện, kể như sở duyên thân y, thí dụ một người tư duy về vô minh là căn để của mọi đau khổ trên đời, và cuối cùng đạt đến tuệ giác và nhập vào một trong bốn thánh đạo.

2. Hành duyên thức: Các Hành (nghiệp) thiện và bất thiện, là nguyên nhân cho sự tái sinh trong tương lai ở một sinh thú hay cõi (gati) thích hợp. Hành nghiệp đời trước tạo điều kiện cho sự khởi sinh trong bụng mẹ một tập hợp danh sắc mới, gồm 5 uẩn, ở đây được biểu trưng bằng Thức. Nhưng tất cả những dị thục thức (vipāka) như vậy (như nhãn thức, nhĩ thức, v.v.) cũng như tất cả tâm pháp tương ưng (thọ, v.v.) đều là vô ký về phương diện nghiệp. Cần hiểu rằng ngay từ sát-na đầu tiên nhập thai mẹ, dị thục thức của bào thai đã hoạt động rồi.

Ðể giải tỏa ngộ nhận của vài học giả Tây phương về lý Duyên khởi như là kinh nghiệm cá nhân về một sát-na nghiệp duy nhấtngộ nhận về tính cách đồng thời của cả 12 chi phần, ở đây, cần phải xác định rõ rằng lý Duyên khởi phải được hiểu như gồm 3 đời kế tiếp; và điều nầy không những phù hợp với các trường phái Phật Giáo khác nhau, và với tất cả các luận giải cổ điển, mà còn phù hợp với giải thích có ghi trong kinh tạng. Thí dụ, trong Tương Ưng Nhân Duyên (Tương Ưng, XII.51) có ghi: "Khi Vô minh (1) và Thủ (9) chấm dứt, thì không có Hành nghiệp (2=10), dù là công đức, phi công đức, hay bất động - phước hành, phi phước hànhbất động hành - được phát sinh, và như vậy không có Thức (3=11) nào sẽ khởi lên trở lại trong một mẫu thai mới". Thêm vào đó: "Bởi vì, nếu Thức không tái xuất hiện trong mẫu thai, thì trong trường hợp ấy, Danh sắc (4) có sinh khởi không?" Xin xem đồ biểu ở trên.

Mục đích của Đức Phật khi giảng dạy Duyên khởi là để chứng minh cho nhân loại đau khổ thấy rằng, do duyên vô minh và bị mê hoặc mà cuộc tồn sinh và khổ đau hiện tại đã phát sinh; và do sự diệt tận của vô minh, và từ đó ái diệt và thủ diệt, mà không còn sự tái sinh nào sẽ tiếp theo, và như vậy, tiến trình hiện hữu đứng dừng lại, từ đó, chấm dứt mọi đau khổ.

3. Thức duyên danh sắc: Nếu không có Thức thì không thể có tiến trình hiện hữu gồm tâm lývật lý. Danh (hay Tâm, nāma) ở đây cần được hiểu là các tâm pháp dị thục như là thọ, tưởng, hành (cetanā, ở đây chỉ cho phi nghiệp hành), xúc, tác ý (Trung Bộ, 9; Tương Ưng XII.2). Có bảy tâm sở (cetasika) căn bản tương ứng với mỗi tâm: thọ, tưởng, hành, xúc, tác ý, mạng và định - như giải thích trong quyển Thắng Pháp Tập Yếu. Sắc (rūpa) ở đây có nghĩa là 4 thành tố vật lý (dhātu, giới: đất, nước, lửa, gió) và 24 sở tạo sắc (upādā-rūpa), theo Thắng Pháp.

Danh hay Tâm luôn luôn do duyên thức: Thức là một duyên kể như câu sinh (sahajāta), hỗ tương (aññamañña), tương ưng (sampayutta) v.v. cho Tâm, vì 4 tâm uẩn luôn luôn hợp thành một đơn vị bất khả phân.

Thức đối với Sắc là một duyên kể như câu sinh, chỉ vào lúc sát-na nhập thai, còn sau đó là một duyên như Hậu sinh duyên (pacchājāta-paccaya) và Thực duyên (āhāra). Cũng như cơn đói tiếp tục khởi lên là một duyên và là một chỗ y cứ cho thân xác đã sinh từ trước, thức khởi lên sau đó cũng là một duyên và chỗ sở y cho sự duy trì của thân tiền sinh.

4. Danh sắc duyên lục nhập: Sáu Nhập hay Sáu Xứ chỉ 5 giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) và ý xứ (manāyatana), tức là tâm thức.

Tâm (danh, nāma) đối với 5 sắc xứ (5 giác quan, āyatana) là một duyên theo kiểu Hậu sinh duyên. 

Tâm, nghĩa là thọ, v.v. với nghĩa là ý xứ - vì luôn luôn tương ưng với nhau, không rời - là một duyên theo kiểu câu sinh duyên.

Sắc (rūpa), ở đây là 4 giới (4 đại), đối với 5 sắc xứ, hay giác quan, là một duyên kể như Thân y duyên (nissaya)

Sắc với nghĩa là 5 căn vật lý, đối với ý xứ là một duyên kể như thân y và tiền sinh (purejāta-paccaya).

5. Lục nhập duyên xúc: Nếu không có 5 giác quan thì không thể có cảm giác, và nếu khôngý xứ thì không có ấn tượng của Tâm. 

Như vậy, 5 giác quan - mắt, tai, mũi, lưỡi, thân - đối với 5 ấn tượng tương ứng là một duyên, kể như thân y (nissaya)tiền sinh (purejāta), còn ý xứ đối với ấn tượng tâm là một duyên kể như câu sinh, tương ưng, hỗ tương.

6. Xúc duyên thọ: Các ấn tượng cảm quaný thức đối với cảm giác tương ưng, là một duyên kể như câu sinh, tương ưng, hỗ tương.

7. Thọ duyên ái: Bất cứ cảm giác nào, dù dễ chịu, khó chịu hay trung tính, thuộc thân hay tâm, quá khứ hay vị lai, đều có thể trở thành một duyên, theo kiểu Thân y duyên, loại Sở duyên thân y, cho tham ái. Ngay cả cảm giác đau đớn thuộc vật lýtâm lý cũng có thể trở thành một Sở duyên thân y cho khát ái - do cái khát vọng muốn thoát ly khỏi cảm giác đau đớn ấy.

8. Ái duyên thủ: Thủ được giải thích là một dạng tăng cường của khát ái. Có 4 loại thủ: (i) Dục thủ (kāmūpādāna): bám vào sắc dục; (ii) Kiến thủ (ditthūpādāna): chấp thủ vào tà kiến; (iii) Giới cấm thủ (sīlabbatūpādāna): chấp thủ vào nghi thức; (iv) Ngã luận thủ (attavādūpādāna): chấp thủ vào luận cứ có một bản ngã

Dục ái đối với dục thủ là một duyên tự nhiên thân y. Ðối với kiến thủ, giới cấm thủ và ngã luận thủ, thì ái là một duyên, theo kiểu câu sinh, hỗ tương, nhân duyên v.v. Nó cũng có thể là một duyên tự nhiên thân y. Chẳng hạn, do khát vọng tái sinh lên trời v.v. mà người ta có thể bám lấy những nghi thức, lễ tục, với hy vọng đạt được đối tượng khát ái của họ bằng cách đó.

9. Thủ duyên hữu: Các nghiệp hữu thiện và bất thiện, cũng như quả dị thụctính cách thụ động - tiến trình tái sinh, đều bao hàm trong Hữu nầy.

Nghiệp hữu gồm 5 nhân: vô minh, hành, ái, thủ, và tiến trình tạo nghiệp (xem số 1, 2, 8, 9, 10 ở đồ biểu). Sinh hữu gồm 5 nghiệp dị thục (xem số 3, 4, 5, 6, 7 ở đồ biểu).

Tiến trình tạo nghiệp ở đây, nói cho đúng, là một thuật ngữ để chỉ chung các tư tâm sở tạo nghiệp và tất cả tâm sở tương ưng, trong khi vòng khoen thứ 2 (Hành) chỉ có tiêu biểu cho nghiệp tích lũy từ trước. Nhưng cả hai Hành và Hữu, thật ra, cũng chỉ cho một thứ, tức là nghiệp làm nhân cho Tái sinh, như sẽ trình bày dưới đây.

Thủ có thể là một thân y duyên cho nhiều loại nghiệp thiện và bất thiện. Chẳng hạn Dục thủ có thể là một duyên thân y tự nhiên cho sát sinh, trộm cướp, tà dâm, tà ngữ, tà niệm v.v. Giới cấm thủ có thể đưa đến tự mãn, cuồng tín, tàn bạo v.v. Thủ đối với ác nghiệp tương ưng, cũng là một duyên theo kiểu câu sinh, tương ưng, hỗ tương.

10. Hữu duyên sinh: Do nghiệp hữu thiện hay bất thiện mà có Sinh hữu hay tiến trình tái sinh. Câu số 2 và 10, như đã trình bày, thật ra cùng chỉ một điều là nghiệp làm nhân cho tái sinh, nói cách khác, tư tâm sở (tác ý) là hạt giống, từ đó khởi lên lên đời sống mới, cũng như từ hột xoài khởi lên cây xoài mới.

Ở đây, 5 nghiệp nhân (vô minh, hành, ái, thủ, hữu) thuộc đời quá khứđiều kiện cho những nghiệp quả trong đời hiện tại; và 5 nghiệp nhân trong hiện tạiđiều kiện cho 5 nghiệp quả (dị thục quả: thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ) của đời kế tiếp (xem đồ biểu ở trên). Bộ luận Thanh Tịnh Ðạo, chương XVII, có ghi:

Có năm nhân trong quá khứ,
Và năm quả trong đời hiện tại.

Hiện tại chúng ta lại gieo năm nhân,

Và tương lai gặt hái năm quả.
Trong tiến trình biến chuyển liên tục của hiện tượng tâm-vật nầy, không có một cái gì truyền từ một sát-na nầy đến sát-na kế tiếp. Vì thế, không có một thực thể trường tồn hay bản ngã, cái tôi, ở trong tiến trình hiện hữu để luân chuyển từ đời nầy đến đời sau. Không có một con người hay một linh hồn nào đi từ đời trước đến đời nầy; tuy vậy, bào thai hiện tại không thể hiện hữu nếu không có những nhân duyên đi trước (Thanh Tịnh Ðạo, Chương XVII). Có thể chứng minh điều nầy bằng nhiều ví dụ, như tiếng vang, ánh sáng ngọn đèn, dấu ấn, hay hình ảnh do gương phản chiếu (Thanh Tịnh Ðạo, Chương XVII).

Người nào không biết gì về các pháp do duyên sinh, và không hiểu rằng nghiệp (hành) là do vô minh sinh ra, v.v. thì sẽ nghĩ rằng chính cái ngã của mình biết hoặc không biết, hành động và sai khiến hành động, và chính cái ngã ấy khởi lên vào lúc tái sinh. Hoặc người ấy cho rằng các nguyên tử, hay một vị Tạo hóa, với sự trợ giúp của tiến trình thai nghén, đã hình thành cái thân nầy, hay chính cái ngã có các căn gây cảm thọ, ước muốn, chấp thủ, tiếp tục và tái hiện hữu trong một sự thọ sinh mới. Hoặc người ấy cho rằng tất cả loài hữu tình sinh ra do định mệnh, hay tình cờ ngẫu nhiên sinh ra (Thanh Tịnh Ðạo, Chương XVII).

Khi nghe nói đạo Phật dạy rằng bất cứ gì trong thế gian đều do duyên sinh, một số người có thể kết luậnđạo Phật giảng dạy một loại định mệnh thuyết, và con người không có ý chí tự do, hoặc ý chí là không tự do.

Thật ra, vấn đề con người có một ý chí tự do hay không thì không cần thiết đối với người Phật tử, vì người ấy biết rằng ngoài những hiện tượng tâm-vật hằng biến ccũng chỉ là một giả danh, không tương ứng với một thực tại nào. Vấn đề ý chítự do hay không cũng phải được dẹp bỏ, vì ý chí hay hành là một hiện tượng tâm chỉ chớp lên trong một sát-na, và như vậy, nó không có một hiện hữu kế tục từ trong sát-na trước. Về một sự kiện không hiện hữu, hay chưa hiện hữu, ta không thể hỏi nó có tự do hay không tự do. Câu hỏi duy nhất có thể chấp nhận là: - Sự phát sinh của ý chí có vượt ngoài duyên sinh, hay nó cũng là duyên sinh? Nhưng câu hỏi đó cũng có thể áp dụng cho tất cả tâm pháp khác, và các hiện tượng vật lý nữa. Nói cách khác, câu hỏi đó là cho tất cả mọi sự kiện, tất cả sự sinh khởi của bất cứ cái gì. Câu trả lời sẽ là: - Dù là do ý chí sinh, hay do cảm thọ sinh, hay do bất cứ tâm pháp, sắc pháp nào sinh, thì sự sinh khởi của bất cứ việc gì cũng đều tùy thuộc vào các duyên (điều kiện). Nếu không có duyên, thì không bao giờ có cái gì có thể sinh khởi hay hiện hữu được.

Theo đạo Phật, mọi sự thuộc tâm lý hay vật lý xảy ra phù hợp với các định luật và các điều kiện (duyên). Nếu không như vậy, thì chỉ có một mớ hỗn độn càn khôn và sự ngẫu nhiên bất định. Nhưng điều nầy không thể xảy ra, và nó mâu thuẫn với mọi định luật của tư duy.

11. Sinh duyên già chết: Nếu không có sinh ra thì không thể có già chết, không có nỗi đau đớnkhổ não. Như vậy, Tái sinh đối với Già chết là một duyên, kể như Thân y duyên (upanissaya).

*

Về tầm quan trọng của lý Duyên khởi, Ðức Phật dạy: 

"Nầy Anandā, giáo pháp Duyên khởi này rất thâm sâu, thật sự thâm sâu. Chính vì không thông hiểu giáo pháp này mà thế gian giống như một cuộn chỉ rối ren, một tổ chim, một bụi rậm lau lách, và không thể thoát khỏi các đọa xứ, cõi dữ, phải chịu khổ đau trong vòng luân hồi sinh tử." (Trường Bộ, 15)

Trong một đoạn kinh khác, Ngài dạy rằng: 

"Người nào hiểu được lý Duyên khởi, là hiểu Pháp; và người nào hiểu được Pháp, là hiểu lý Duyên khởi." (Trung Bộ, 28)

(Trích: Nyanatiloka Maha Thera, 
"Buddhist Dictionary" - Từ điển Phật học

Sri Lanka, 1970)






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14317)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14576)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11853)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14375)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13284)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14653)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12649)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25281)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27916)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26385)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17247)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16536)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15933)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22165)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17145)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24950)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 22005)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19087)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16179)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21733)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16799)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14676)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16724)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25042)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18793)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21202)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14783)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14380)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16628)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18021)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12938)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14954)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12731)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13899)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14620)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28057)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27231)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14359)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20998)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14676)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24212)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28721)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14745)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13307)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16470)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27271)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12024)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16081)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21522)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12385)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant