Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phù Trợ Người Lâm Chung

19 Tháng Hai 201100:00(Xem: 20744)
Phù Trợ Người Lâm Chung

PHÙ TRỢ NGƯỜI LÂM CHUNG
Đại sư Dagpo Rinpoche
Diệu Hạnh Giao Trinh Việt dịch - Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
Nhà xuất bản Thời Đại

blank

LỜI GIỚI THIỆU

Tôi nhận được bản Việt dịch này như một món quà hoàn toàn mang tính cách cá nhân, nghĩa là được gửi đến cho riêng tôi, từ một người bạn hiện đang sống nơi Kinh đô Ánh sáng - Paris, Pháp quốc. Tôi đã hết sức vui mừng, vì nội dung bản dịch chính là những gì tôi đang khao khát tìm kiếm từ nhiều năm qua.

Khi tôi viết những dòng này thì cha tôi đã bước vào năm thứ 88 của cuộc đời, và mẹ tôi vừa sang tuổi 81. Cả hai vị tuy vẫn còn khỏe mạnh, nhưng là cái khỏe mạnh rất mong manh của tuổi già, và không có bất cứ lý do nào để tôi có thể tin được - dù rất muốn như thế - là các vị sẽ còn ở lại lâu dài với tôi. Sự thật là trong hàng chục năm qua tôi vẫn luôn thao thức trăn trở về ngày ra đi của các vị. Là Phật tử, tôi không hề tránh né sự thật nên vẫn luôn tìm kiếm một phương thức nào đó để có thể đối mặt và chuẩn bị thật tốt cho những ngày cuối của cha mẹ mình, nhất là trong ý nghĩa tinh thần. Hơn thế nữa, chính bản thân tôi cũng đã hơn một lần có thể gọi là “trở về từ cõi chết”, nên tôi có thể cảm nhận sâu sắc lẽ vô thường một cách cụ thể và tất yếu như những gì mắt thấy tai nghe chứ không như một lý thuyết trừu tượng có được qua suy tưởng. Mỗi ngày tôi luôn tự nhắc nhở mình về một sự ra đi có thể vào bất cứ lúc nào. Vì thế, câu hỏi trước tiên của tôi trong ngày bao giờ cũng là: “Điều gì cần thiết nhất phải làm nếu hôm nay là ngày cuối của đời mình?”

Và tập sách này đã đến với tôi trong tâm trạng như thế đó. Vì vậy, chỉ riêng cái tựa đề của nó cũng đã đủ cuốn hút tôi rồi! Thật ra thì cách đây nhiều năm tôi đã từng chuyển dịch và bình giải quyển Tử thư (Bardo Thődol) nổi tiếng của Phật giáo Tây Tạng. Tất nhiên là tôi không có và cũng không đủ khả năng đọc nguyên bản tiếng Tây Tạng, nên đã sử dụng bản dịch Anh ngữ có tựa đề “The Tibetan Book of the Death” của Lama Kazi Dawa Samdup. Tuy vậy, tôi tin chắc là mình không đến nỗi bỏ sót bất cứ nội dung quan trọng nào của tập sách, vì mấy năm sau khi có dịp tiếp xúc với bản luận giảng Anh ngữ “Death, Intermediate State and Rebirth in Tibetan Buddhism” của Đại sư Lati Rinbochay thì tôi nhận ra những gì mình đã hiểu được qua bản dịch cuốn Tử thư cũng hoàn toàn phù hợp với lời dạy của Đại sư.

Mặc dù vậy, tôi không nghĩ là tất cả Phật tử Việt Nam, chẳng hạn như cha mẹ tôi, có thể dễ dàng tiếp nhận những ý tưởng được trình bày trong Tử thư. Nói cho cùng, nếu chưa có được một nền tảng hiểu biết nhất định về Phật giáo Tây Tạng cũng như một đức tin vững chắc - thậm chí là tuyệt đối - vào những gì được thuyết dạy trong Tử thư, thì người đọc sẽ rất khó lòng tiếp nhận được những ý nghĩa tuy rất sâu xa nhưng hết sức trừu tượng và cô đọng được chuyển tải trong đó. Đây cũng chính là lý do vì sao trong một quãng thời gian dài rất lâu trước đây tập sách này không được phổ biến rộng rãi mà chỉ dành riêng cho các vị hành giả, các bậc thầy đang đảm nhiệm việc phù trợ, giúp đỡ những người lâm chung hoặc vừa mới qua đời.

Nhưng việc tiếp nhận nội dung tập sách “Phù trợ người lâm chung” này lại là một điều hoàn toàn khác, mặc dù nó cũng được thuyết giảng bởi một vị Đại sư thuộc Phật giáo Tây Tạng và cũng nói về cùng một chủ đề như quyển Tử thư. Từ khi bắt đầu đọc những dòng đầu tiên, tôi đã hầu như không thể rời mắt ra cho đến những dòng cuối cùng. Tôi như người đang trong cơn khát cháy bỏng vội vàng uống lấy từng ngụm nước trong mát đổ xuống từ cơn mưa Pháp này. Và lạ lùng thay, là một người tu tập theo pháp môn Tịnh độ, lần đầu tiên tôi bất ngờ nhận ra rằng những điều được thuyết giảng ở đây là hoàn toàn phù hợp với giáo lý Tịnh độ mà tôi đã từng được biết. Nói cách khác, theo nhận thức của riêng tôi thì tập sách này có thể xem như cầu nối quan trọng giữa những phần giáo pháp về sự chết trong Phật giáo Tây Tạng với pháp môn Tịnh độ vốn vô cùng quen thuộc với đa số Phật tử Việt Nam. Qua tập sách này, người đọc có thể nhận ra những khác biệt trong cách biểu đạt của hai nền giáo pháp, nhưng thực sự là hoàn toàn tương đồng về mặt nội dung, ý nghĩa.

Vì thế, điều trước tiên tôi nghĩ đến sau khi đọc xong bản Việt dịch sách này là phải làm sao chia sẻ Pháp bảo này đến với tất cả mọi người. Hoan hỷ thay, dịch giả là chị Diệu Hạnh Giao Trinh (Paris, Pháp quốc) đã tán thành ý định của tôi và hết lòng khuyến trợ. Chị đã kính cẩn trình lên Đại sư Dagpo Rinpoche ý định này và được ngài hoan hỷ chuẩn thuận. Từ đó, chúng tôi đã cùng nhau nỗ lực làm việc để có thể sớm giới thiệu bản dịch này đến với độc giả.

Thật ra, những lời dạy mà Đại sư đã ban ra là hết sức hoàn chỉnh. Nhưng vì toàn bộ nội dung này được đưa ra trong các Pháp hội khác nhau, dành cho một số thính chúng nhất định, nên cách trình bày tất nhiên có phần khác với một quyển sách. Đại sư hoàn toàn không có ý định biên soạn một quyển sách, và việc ghi chép lại nội dung để rồi chuyển dịch, in ấn và phổ biến là những việc tùy duyên mà phát sinh, không nằm trong chủ đích ban đầu của người thuyết giảng. Tuy vậy, Ngài đã hết sức hoan hỷ tán trợ khi biết được việc làm của chúng tôi, và thậm chí đã dành thời gian chú nguyện cho công việc của chúng tôi luôn được thuận lợi, tốt đẹp.

Nhân đây cũng xin lược nói qua đôi dòng về Đại sư Dagpo Rinpoche (Dagpo Rimpoch - Lobsang Jhampel Jhampa Gyamtshog), một trong những bậc cao tăng hiếm hoi của thời đại này. Ngài sinh năm 1932 tại Nandzong, vùng Dagpo thuộc Đông nam Tây Tạng, và cũng năm ấy Ngài được đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 13 Thubten Gyatso (1876-1933) xác nhậnhóa thân tái sanh của Đại sư Dagpo Lama Rinpoche Jampel Lhundrup thuộc dòng truyền thừa Gelupa, từng là Viện trưởng Viện Dagpo Datsang ở vùng Dagpo. Năm lên sáu, Ngài được đưa vào học tại Tu viện Bamchoe (Bamchoe Monastery) và đến năm 13 tuổi Ngài được theo học ở Viện Dagpo Datsang (Dagpo Shedrup Ling), vốn nổi tiếng hết sức nghiêm khắckỷ cương. Tiêu chuẩn đào tạo của Viện này là rất cao xét về mọi lãnh vực Phật học, nhưng đặc biệthết sức chú trọng vào giáo pháp Lam-rim. Đại sư Dagpo Rinpoche từng được theo học với 34 bậc thầy uyên bác về Phật học, trong số đó có cả đức Đạt-lai Lạt-ma 14 và hai bậc thầy dạy của ngài là Kyabje Ling Rinpoche và Kyabje Trijang Rinpoche.

Đại sư Dagpo Rinpoche học tại Datsang cho đến năm 1954. Năm 1959, Ngài theo đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 sang Ấn Độ rồi ngay năm sau đó Ngài sang định cư ở Pháp theo lời mời của các giáo sư Đại học và sự cho phép của đức Đạt-lai Lạt-ma. Tại đây, Ngài dạy tiếng Tây Tạng ở trường Langues O trong suốt 16 năm, nhưng không giảng dạy Phật pháp vì xét thấy chưa đủ cơ duyên. Từ năm 1976, vâng theo huấn thị của các bậc thầy của Ngài, Ngài bắt đầu việc giảng dạy Phật pháp. Năm 1978, Ngài thành lập Phật học viện Guepele Tchantchoup Ling (sau đó trở thành Ganden Ling Institute) tại Paris. Hiện nay Ngài vẫn thường xuyên thuyết giảng tại Phật học viện này.

Vừa dạy Tạng ngữ, Ngài vừa đào tạo nhiều dịch giả, trong số đó có cô Marie Stella Boussemart chuyên dịch Tạng-Pháp và cô Rosemary Patton chuyên dịch Tạng-Anh. Họ đã theo Ngài trong tất cả các chuyến đi thuyết giảng khắp các nước như Italy, Switzerland, Holland, Belgium, Canada, Anh, Hoa Kỳ, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia... và đặc biệt là ngay tại Pháp quốc.

Từ năm 2006 đến 2008, Ngài đã năm lần liên tiếp thuyết giảng về đề tài “phù trợ người lâm chung”, mỗi lần kéo dài suốt hai ngày. Từ cơ duyên này, cô Marie Stella Boussemart đã thực hiện việc ghi chép tổng hợp nội dung của cả năm lần thuyết giảng thành một bản tiếng Pháp. Và chính nhờ đó mà chúng ta có được bản Việt dịch của đạo hữu Giao Trinh từ bản tiếng Pháp này.

Công việc chính của chúng tôi chỉ là rà soát lại toàn bộ bản Việt dịch để loại bỏ tất cả những sai sót trong việc ghi chép, chuyển dịch; đồng thời cũng thực hiện một số thay đổi cần thiếtthích hợp để chuyển từ lối văn nói sang phong cách văn viết. Những việc làm này đều nhắm đến một mục đích duy nhất là giúp người đọc có thể nhận hiểu dễ dàng hơn nhờ vào những cách diễn đạt rõ ràng, mạch lạc, và tất nhiên là vẫn trên tinh thần tôn trọng tuyệt đối những gì Đại sư đã nói ra. Đôi khi, chúng tôi cũng thêm các tiểu tựa hoặc phân đoạn lại một vài nơi, nhằm tạo ra một kết cấu chặt chẽ và hoàn chỉnh hơn cho tập sách. Xét cho cùng, từ những nội dung được trình bày cho một thính chúng cá biệt vào một thời điểm nhất định, có phần nào đó mang tính chất ứng cơ và tùy biến đối với người nghe, thì việc chuyển sang thành một quyển sách có kết cấu hoàn chỉnh dành cho tất cả mọi người không thể là một chuyện dễ dàng và có thể tùy tiện được. Vì thế, chúng tôi đã hết sức cẩn trọng trong công việc và luôn cố gắng để hạn chế mọi sai sót. Mặc dù vậy, nếu có những khuyết điểm nào thuộc về phần việc của chúng tôi làm cho độc giả cảm thấy không được hài lòng hoặc khó tiếp nhận, chúng tôi xin chân thành nhận lỗi về mình vì chắc chắn điều đó chỉ có thể là do khả năng hạn chế cũng như tầm nhận thức còn chưa thấu triệt của bản thân chúng tôi mà thôi.

Trở lại với nội dung sách này, đây có thể nói là một chủ đề vừa quen vừa lạ đối với hầu hết chúng ta. Nói là quen, vì có mấy ai trong chúng ta lại chưa từng một lần đối diện với cái chết của một trong những người thân của mình? Hơn thế nữa, còn có điều gì tương đồng và phổ biến đối với tất cả chúng ta hơn là cái chết? Kể từ khi ta mở mắt chào đời, cái chết đã bắt đầu lừng lững tiến dần về phía chúng ta, không thể tránh né, không thể ngăn chặn, cũng không thể làm cho chậm lại... Cứ như thế, tất cả chúng ta đều hoàn toàn bất lực trong sự chờ đợi một sự kiện kinh hoàng không sao tránh khỏi là cái chết.

Thế nhưng cái chết cũng là một sự kiện hoàn toàn xa lạ đối với tất cả chúng ta. Bởi không ai trong chúng ta đã từng tự mình trải nghiệm cái chết! Chúng ta chỉ nhìn thấy người khác chết và được nghe nói về cái chết từ những người... chưa bao giờ chết. Nếu đã thế thì làm sao ta có thể biết được gì về cái chết? Thử hình dung, khi cơ hội đến với ta để thực sự cảm nhận và hiểu biết được đôi điều về cái chết, thì cũng đã không còn cơ hội nào nữa để ta có thể kể lại về những kinh nghiệm tự thân đó cho tất cả mọi người. Ít ra thì điều này cũng là đúng với hầu hết những người bình thường. Và vì thế, mặc dù “cánh cửa tử” là rất gần và có thể mở ra với mỗi chúng ta bất cứ lúc nào, nhưng những gì “bên kia cửa tử” dường như vẫn là một bí ẩn muôn đời đối với những kẻ phàm phu.

Nhưng may mắn thay cho cho tất cả chúng ta, vì một đại sự nhân duyên nên cách đây hơn 25 thế kỷ đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã ra đời. Với trí tuệ toàn giác, Ngài là người đầu tiên đã có thể mô tả về cảnh giới sau khi chết cũng như mọi tiến trình diễn tiến của sự chết. Những điều này được Ngài thấy biết như thật bằng vào sự thực chứng của kinh nghiệm tự thân, hoàn toàn không xuất phát từ bất kỳ một lý thuyết suy diễn nào. Hơn thế nữa, những phương pháp tu tập để đạt đến sự chứng nghiệm về sự chết đã được Ngài truyền dạy lại, và từ đó đến nay đã có vô số các vị đại sư, hành giả... thực hành thành công, đạt đến sự thấy biết như thật về sự chết và mọi tiến trình của nó. Sự chứng nghiệm này là nền tảng quan trọng giúp các vị kiểm soát được hoàn toàn sự chết và tái sinh, hay ít ra cũng là có thể tự chọn lấy một con đường lợi lạc hơn, tốt đẹp hơn cho chính bản thân mình sau khi chết.

Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo. Thiền tông luôn quan niệm sinh tử là việc tối quan trọng của một thiền giả, và chính vì cái “sinh tử sự đại” này mà thiền sư Huyền Giác khi đến tham bái Lục tổ đã chống tích trượng đứng trơ trơ không lễ lạy! Chỉ sau khi giải quyết xong chuyện tối quan trọng này rồi ngài mới chí thành phủ phục lễ bái Tổ sư. Vì thế, có thể nói người tu Thiền không sợ chết, nhưng lại sợ nhất là không hiểu rõ về cái chết. Một khi chưa thấu triệt vấn đề sinh tử, hay nói một cách khác là chưa biết chắc được mình sẽ đi đâu về đâu sau khi chấm dứt cuộc sống này, thì hành giả dù có miên mật công phu đến đâu cũng chưa thể xem là đã nắm chắc được mục tiêu giải thoát.

Đối với các hành giả Mật tông thì điều này lại càng dễ dàng nhận thấy hơn. Toàn bộ công phu hành trì tu tập của một hành giả trong suốt cuộc đời hầu như chỉ hướng đến một mục đích duy nhất là chuẩn bị cho cái chết. Sở dĩ như thế là vì theo Mật tông thì trừ ra một số rất ít các vị đại hành giả có thể đạt được chứng ngộgiải thoát ngay trong đời sống, còn đối với hầu hết mọi người thì thời điểm chết sẽ là cơ hội tốt nhất, thuận lợi nhất để một hành giả đạt được sự giải thoát. Kinh điển Mật tông dạy rằng, khi thân tứ đại tan rã cũng là thời điểm tâm thức sẽ có một sự “lóe sáng” rất gần với tâm thức giác ngộ, và nếu chúng ta không có sự tu tập để tận dụng cơ hội này thì sau đó nghiệp lực sẽ hiện hành, tiếp tục xô đẩy, dẫn dắt chúng ta vào các cảnh giới tái sinh trong sáu nẻo luân hồi.

Riêng đối với những người tu tập theo pháp môn Tịnh độ thì sự chết chính là đích đến của một đời tu tập. Giáo lý Tịnh độ không nói nhiều về tiến trình của sự chết, nhưng xác quyết một điều là chắc chắn có sự tái sinh sau khi chết. Trên căn bản đó, nếu người tu chuẩn bị tốt các món tư lương là tín, nguyện và hạnh thì chắc chắn sẽ được sự tiếp dẫn của đức Phật A-di-đà cùng Thánh chúng và được vãng sinh về cõi Tịnh độ của Ngài.

Thật ra, kinh điển Mật tông cũng nhắc đến sự tiếp dẫn của chư Phật, nghĩa là rất nhiều vị Phật ở các cõi Tịnh độ khác nhau chứ không chỉ riêng đức Phật A-di-đà, và việc vãng sinh về cõi Tịnh độ nào là tùy theo sự phát nguyện của hành giả. Theo sách Đại Đường Tây vực ký thì ngài Tam tạng Pháp sư Huyền Trang đã phát nguyện vãng sinh lên cõi Tịnh độ của đức Bồ Tát Di-lặc, tức là cung trời Đâu-suất. Trước giờ lâm chung, Ngài đã được nhìn thấy những điềm lành rõ rệt báo trước sự vãng sinh của Ngài, và Ngài đã nói với các đệ tử một cách chắc chắn về việc Ngài sẽ tái sinh lên cung trời Đâu-suất để tiếp tục học hỏi giáo pháp với Bồ Tát Di-lặc.

Như vậy, cho dù là Thiền tông, Mật tông hay Tịnh độ... sự tương đồng ở đây chính là một nỗ lực tích cực trong suốt cả cuộc đời để hướng đến việc chuẩn bị tốt cho giây phút cuối đời. Mỗi tông phái có những pháp môn khác nhau để đạt đến mục đích này, nhưng đi vào luận giải thì tất cả đều tương hợp, tuy có những nét khác biệt nhau trong hình thức biểu đạt nhưng không hề có sự mâu thuẫn về nội dung, ý nghĩa. Chính bản thân tôi sau khi được đọc qua những lời giảng của Đại sư Dagpo Rinpoche trong tập sách này mới nhận ra và xác quyết điều đó.

Vì thế, tôi tin chắc một điều là tập sách này không chỉ dành riêng cho những ai đang tu tập theo Phật giáo Tây Tạng. Sự thật là những lời dạy của Đại sư Dagpo Rinpoche có thể mang đến lợi lạc cho tất cả chúng ta, không chỉ những người Phật tử mà kể cả những người theo tôn giáo khác, và không chỉ cho những người có tín ngưỡng mà kể cả những ai chưa đặt niềm tin vào bất cứ tôn giáo nào.

Vì sao vậy? Vì những gì được đề cập ở đây là những vấn đề rất thiết thựcliên quan đến mọi con người và mỗi người chúng ta đều có thể tự mình kiểm nghiệm tính đúng đắn của những vấn đề đó ngay trong cuộc sống; vì những phương thức được đề xuất ở đây là những điều mà bất cứ ai cũng có thể làm được nếu có một chút lưu tâmnỗ lực, và đều sẽ nhận được những lợi lạc vô biên từ việc thực hành những phương thức đó; và cuối cùng là vì dù muốn hay không muốn, dù tin hay không tin thì tất cả chúng ta đều phải đối mặt từng ngày trước cái chết đang đến gần với những người thân yêu của mình, rồi cuối cùng là cái chết của chính bản thân mình. Suy cho cùng, cho dù ai đó chưa có niềm tin vững chắc vào những gì được trình bày ở đây thì liệu họ có thể có được một lựa chọn nào khác để giải quyết vấn đề sống chết? Và đã thế thì, sao không thử qua một lần cho biết nhỉ?

Những lời dạy của Đại sư Dagpo Rinpoche trong sách này nói riêng và Phật pháp nói chung đã mang lại quá nhiều lợi lạc cho bản thân tôi và cả gia đình tôi. Vì thế, tấm lòng tri ân thành kính của chúng tôi đối với Tam bảo là không thể nói hết ở đây. Việc cố gắng giới thiệu sách này đến với tất cả mọi người chỉ là một trong những nỗ lực nhỏ nhoi để đáp đền hồng ân Tam bảo, mặc dù chúng tôi luôn tự biết về khả năng hạn chếkiến thức giới hạn của chính bản thân mình trước công việc khó khăn này. Trên tinh thần đó, chúng tôi xin hoan hỷ đón nhận mọi sự góp ý chỉ dạy từ các vị thức giả gần xa, để những sai sót nếu có đều sẽ được chỉnh sửa trước khi tái bản.

Mong sao tất cả những ai có duyên may gặp được sách này đều sẽ nhận được những lợi ích vô biên từ Phật pháp, hoặc chí ít cũng sẽ cất đi được cái gánh nặng muôn đời của nỗi ưu tư về cái chết.

Mong sao tất cả những ai hiện đang và sẽ đối mặt với nỗi kinh hoàng của cái chết đều sẽ nhận được sự quan tâm giúp đỡ thích đáng từ những người còn sống để không phải cảm thấy sợ hãi và bơ vơ lạc lõng khi sắp cất bước lên đường, trước một cuộc hành trình chưa biết sẽ về đâu.

Mong sao tất cả những ai đã, đang hoặc sẽ phải đối mặt với cái chết của những người thân yêu đều sẽ nhận hiểu được những lời dạy sáng suốt này để có thể tự mình xua tan mọi nỗi lo sợ và đau khổ, có thể thắp lên ngọn đèn Chánh pháp vào đúng lúc để giúp soi rõ con đường đi bên kia cửa tử cho người lâm chung.

Cuối cùng, thay mặt tất cả những ai đã, đang và sẽ nhận được vô vàn lợi ích từ tập sách này, xin kính dâng lên Đại sư Dagpo Rinpoche lòng biết ơn chân thành đối với tâm từ bi vô hạn và những lời thuyết giảng đầy trí tuệ của Ngài; xin cảm niệm công đức vô lượng của cô Marie Stella Boussemart, người đã thực hiện ghi chép bản Pháp ngữ, và đạo hữu Giao Trinh, người đã chuyển dịch từ Pháp ngữ sang Việt ngữ với một sự cẩn trọngtâm nguyện vị tha rộng lớn; xin tri ân tất cả các thiện tri thức, các thân hữu gần xa đã góp phần trực tiếp cũng như gián tiếp, vật chất cũng như tinh thần cho sự hình thành và ra đời của tập sách này.

Xin hồi hướng mọi công đức về cho toàn thể pháp giới chúng sinh, nguyện cho tất cả đều sẽ phát tâm Bồ-đề, tinh tấn tu tập và sớm đạt được giác ngộ viên mãn.


Trân trọng

NGUYỄN MINH TIẾN

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19906)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20972)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19341)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40622)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21311)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41144)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24155)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23092)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17883)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 27036)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20784)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33692)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 21094)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 29023)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12727)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25392)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19180)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17553)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25865)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 19053)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 19029)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 29091)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18944)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33392)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38456)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31307)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18269)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24551)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19477)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17946)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 23129)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 18054)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32285)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17419)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17451)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16112)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18596)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20809)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18117)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20154)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14936)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20967)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15092)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15802)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12958)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14530)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14953)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29478)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12793)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14560)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant