Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương V: Người đánh cọp

09 Tháng Ba 201100:00(Xem: 6354)
Chương V: Người đánh cọp

CÁC BẬC CHÂN SƯ YOGI ẤN ĐỘ
Tác giả: Yogananda - Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG V: NGƯỜI ĐÁNH CỌP

Một hôm, người bạn học cùng lớp của tôi là Chandi lấy làm hân hoanthông báo với tôi điều này:

– Mukunda, tôi đã có địa chỉ của vị tu sĩ ngày xưa từng đánh cọp. Nếu anh muốn, ngày mai chúng ta sẽ cùng đi đến đó.

Tất nhiên là tôi đồng ý ngay. Thậm chí tôi còn cảm thấy nôn nóng, phấn khích đến tưởng như không thể chờ đợi nổi cho đến hôm sau.

Hôm ấy trời giá lạnh, nhưng chúng tôi không hề ngần ngại lúc ra đi. Mặc dù Chandi bảo là đã có được địa chỉ, nhưng đó chỉ là một địa chỉ khá mơ hồ ở khu Bhowanipur, ngoại ô Calcutta. Chúng tôi phải tìm kiếm khá lâu và vất vả trước khi đến được nơi cần đến.

Ngoài cửa nhà có treo những chiếc vòng sắt để thay cho chuông cửa. Chúng tôi khua những chiếc vòng ấy một cách ầm ĩ, theo đúng với bầu máu nóng nhiệt tình của tuổi thiếu niên và tâm trạng nôn nóng sau một thời gian dài tìm kiếm. Một người giúp việc già nua chậm rãi đi ra mở cửa. Ông nhìn chúng tôi với một nụ cười nửa mép, và hơi lắc đầu nhè nhẹ, như thể muốn nói cho chúng tôi biết rằng những tiếng động inh ỏi kia cũng không thể làm mất đi sự yên tĩnh cố hữu của nơi này.

Chúng tôi hiểu được ý nghĩ ấy của ông già, và thấy có phần hổ thẹn về thái độ của mình. Vì thế, khi được mời vào phòng khách, chúng tôi đi rón rén thật nhẹ nhàng và cố giữ thái độ nghiêm trang, từ tốn.

Tại đây, chúng tôi phải trải qua một thời gian chờ đợi tưởng chừng như có đến hàng thế kỷ... nghĩa là đủ để làm cho sự nôn nóng của chúng tôi bị đẩy lên thành sự căng thẳng cực độ. Nhưng hơn ai hết, tôi hiểu cái cổ tục này của xứ Ấn, người đi cầu tìm chân lý trước hết phải học biết sự kiên nhẫn, vì rất nhiều bậc chân sư dùng điều kiện này để thử thách kẻ đến tìm mình.

Cuối cùng, ông già giúp việc cũng xuất hiện và đưa chúng tôi sang một gian phòng khác nhỏ hơn. Vị tu sĩ tên Sohong Swami, người mà chúng tôi muốn tìm, đang ngồi xếp bằng trên giường, mình vận duy nhất chỉ có một tấm chăn, hay nói đúng hơn là một tấm da cọp. Thân hình để trần của ông lực lưỡng đến mức độ tôi chưa từng thấy ai có một thân hình tương tự như thế: to lớn và rắn chắc, bắp thịt cuồn cuộn nổi lên, cổ và vai đều to và đầy đặn. Ông để tóc dài xuống đến vai và một bộ râu đen nhánh. Khuôn mặt thoảng nụ cười hiền hòa, an lạc trong ánh mắt, nhưng vẫn còn phảng phất nét hung tợn, dữ dằn với các nếp gấp sâu và màu da nâu sạm.

Chúng tôi cúi chàođứng yên lặng một lúc lâu bên cạnh ông. Sau đó, chúng tôi phá tan sự im lặng và nói với ông lý do chuyến viếng thăm của mình. Chúng tôi bày tỏ lòng khâm phục với những gì đã được nghe về ông, và rất mong sẽ được ông vui lòng trả lời một số câu hỏi liên quan đến việc ông trở thành một tu sĩ.

Trong khi trò chuyện, tôi có cảm giác ông hiểu chúng tôi nhiều hơn những gì chúng tôi đã tự nói ra, vì cung cách cởi mở mà ông dành cho chúng tôi, cũng như những chi tiết ông đề cập đến trong cuộc nói chuyện, quả thật có rất nhiều điều tôi muốn biết nhưng lại quên không nhắc đến.

Bạn tôi hỏi:

– Thưa ông, bằng cách nào mà ông đã chiến thắng con thú dữ tợn nhất rừng già, con cọp xám ở Bengal, mà chỉ với hai bàn tay không?

Ông cười hiền hậu và nói:

– Nhiều người vẫn tưởng đó là chiến thắng anh dũng nhất trong đời tôi, vì đó là con cọp cuối cùng mà tôi đánh, cũng là con cọp hung bạo nhất và gây thương tổn cho tôi nhiều nhất, nhưng rồi tôi vẫn hạ được nó. Tuy nhiên, giờ đây đối với tôi việc ấy chỉ là một trò chơi đã qua. Tôi sẽ không có hứng thú lặp lại những trò như thế nữa. Và chiến công hiển hách nhất của tôi không phải là việc đánh cọp, mà là việc chiến thắng chính bản thân mình.

Bạn tôi há hốc mồm kinh ngạc khi nghe câu trả lời này. Riêng tôi, tôi có thể hiểu được phần nào điều ông nói về việc tự thắng bản thân, vì đã nhiều lần tôi được nghe các bậc thầy khác cũng nhắc nhở như thế. Tuy nhiên, xem việc hạ gục con cọp xám Bengal đã khiến ông lừng danh khắp nước chỉ như một trò chơi thì tôi không tưởng tượng nổi. Lẽ nào ông ta không chút tự hào về thành tích có một không hai đó của mình?

Như hiểu thấu được suy nghĩ của hai chúng tôi, vị tu sĩ nở một nụ cười hồn nhiên và nói một cách giản dị:

– Đối với các em, cọp là một con thú dữ ghê gớm. Nhưng đối với tôi, con cọp chẳng qua cũng chỉ là một giống mèo lớn mà thôi!

Tôi nói:

– Thưa ngài, tôi có nghe về chuyện người ta có thể dùng tự kỷ ám thị để xem rằng con cọp chỉ là một con mèo, và như thế họ có thể nhìn vào con cọp mà không sợ hãi. Vấn đề ở đây đối với ngài là, ngài không chỉ nhìn vào con cọp, mà ngài đánh nhau với nó. Như vậy, dù ngài có nghĩ nó là con mèo, tôi e là bản thân nó không nghĩ như thế.

– Đúng vậy, và vì thế sức mạnh là điều cần thiết. Tôi xem con cọp giống như con mèo, điều đó hoàn toàn không do tự kỷ ám thị, mà vì tôi có sức mạnh vượt trội hơn nó.

Ông đứng dậylặng lẽ tiến ra hành lang. Chúng tôi đi theo ông. Đến gần một bức tường gạch cũ, ông đưa nắm đấm thẳng vào tường. Với cử chỉ ung dung có vẻ như không hề gắng sức của ông, vách tường đã thủng ngay một lỗ. Chúng tôi nhìn rõ vụn gạch rơi xuống và khoảng trống hiện ra bên kia vách tường. Và chúng tôi hiểu rõ ngay những lời ông nói. Quả thật, với một nắm đấm như thế thì con cọp dữ đối với ông chỉ là một con mèo, vì ông có thể dễ dàng đấm gãy quai hàm nó chỉ với bàn tay không như thế.

Ông nhìn chúng tôi và nói tiếp về chuyện đánh cọp:

Sức mạnhcần thiết. Tuy nhiên vẫn chưa đủ và chưa phải là yếu tố chính yếu. Nhiều người khác cũng có sức mạnh như tôi nhưng họ thiếu sự bình tĩnh. Việc đánh nhau với một con cọp dữ của rừng xanh hoàn toàn khác hẳn với những con cọp trong gánh xiếc đã bị người ta thuần hóa bằng thuốc phiện. Bản chất dữ tợn của nó còn tăng lên rất nhiều nếu như nó đã bị người ta bắt giữ lại và bỏ đói một thời gian ngắn. Điều bất lợi lớn nhất trong cuộc chiến đấu này là: cọp chẳng bao giờ sợ người, nó vẫn xem đó chỉ là một con mồi yếu ớt chờ đợi bị xé xác ra để đánh chén ngon lành. Vì thế, nó sẽ càng hung bạo và lanh lẹ hơn nhiều nếu như đang cơn đói. Nó cần chiến thắng để no bụng. Ngược lại, người ta dù có sức mạnh vẫn thường có tâm lý lo sợ. Và nếu sự sợ hãi làm anh ta mất đi sự bình tĩnh, thì khi đó sự chiến bại dưới vuốt cọp xem như là cầm chắc. Tôi luôn luôn chiến thắng trước hết là nhờ vào tinh thần, ý chí. Bằng cách đó, tôi buộc những con cọp đối mặt với tôi phải khiếp sợ và có thái độ của một con mèo.

Những điều vị tu sĩ đang nói dường như khá quen thuộc với những gì tôi đã được biết về sức mạnh tinh thần của con người. Vì thế, tôi không chút nghi ngờ khi nghe ông giải thích về phương thức chiến thắng của mình. Đến đây, có vẻ như ông bắt đầu cho chúng tôi một bài giảng về một chủ đề chung, không chỉ là chuyện đánh cọp:

Tinh thần chính là ông chủ điều khiển thể xác, hay nói cụ thể hơn là các bắp thịt. Một nhát kiếm có sức mạnh tùy thuộc vào nghị lực của người cầm kiếm. Nói cách khác, sức mạnh của thể xác, hay là cái khí cụ vật chất của chúng ta, tùy thuộc vào lòng can đảmý chí đấu tranh. Tinh thần nuôi dưỡng sức mạnh thể xác, và cũng uốn nắn nó theo với bản chất của mình. Những tính chất mạnh mẽ hay yếu đuối trải qua nhiều đời dần dần thâm nhập vào tâm thức của mỗi chúng ta, và rồi biểu lộ ra ngoài thành những thói quen, những thói quen này tạo thành một thể xác khỏe mạnh hay yếu đuối... Vì thế, những điều này xét cho cùng đều do chúng ta tự tạo lấy, không phải là một ân huệ trời ban cho như nhiều người lầm tưởng. Sự yếu đuối của thể xác vốn bắt nguồn từ nơi tinh thần. Rồi chính sự yếu đuối ấy, vốn hình thành từ nơi tập quán, thói quen, trở lại ngăn cản sự hoàn thiện hay hướng thượng của tinh thần. Và cái vòng luẩn quẩn này kéo dài mãi mãi theo hướng dìm người ta vào chỗ yếu ớt, trụy lạc. Khi chủ nhân tinh thần không ý thức được vai trò của mình, như hầu hết người ta đều như thế, và giao phó mọi việc cho tên nô bộc thể xác quyết định, tất nhiên tên nô bộc này sẽ nắm lấy mọi quyền hạn và biến ông chủ tinh thần trở thành một tên nô lệ. Sự thất bại của con người có nguồn gốc từ mối quan hệ thể xác và tinh thần như thế.

Nghe những lời này, tôi có cảm tưởng mình đang đứng trước một nhà hiền triết hơn là một dũng sĩ đã từng đánh cọp. Vì sao một người chạy theo sức mạnh lại có thể chuyển sang theo đuổi cuộc sống tinh thần, đối với tôi vẫn là điều hết sức tò mò muốn biết.

Một lần nữa, ông chứng tỏ là biết được điều tôi đang suy nghĩ. Ông mời chúng tôi trở vào nhà và bắt đầu kể cho chúng tôi nghe về cuộc đời của chính mình, cũng là lời giải đáp cho điều tôi muốn biết:

– Từ nhỏ, tôi đã nuôi trong lòng một ý chí mãnh liệt trở thành người đánh cọp. Ý chí tôi đanh thép không lay chuyển, nhưng thể xác tôi yếu ớt.

Chúng tôi đều kinh ngạc khi nghe lời này của ông. Một thân hình vạm vỡ có một không hai như thế kia mà bảo là “yếu ớt” thì chúng tôi không sao hiểu nổi! Biết được sự thắc mắc của chúng tôi, ông nhoẻn miệng cười và nói tiếp để giải thích:

– Các em tưởng là tôi sinh ra đã có ngay xác thân lực lưỡng thế này sao? Không đâu, đó là cả một quá trình rèn luyện với tinh thầný chí sắt đá mới có thể đạt được đấy. Và chính nhờ sự tập trung tư tưởng vào những ý tưởng rèn luyện sức mạnh, cuối cùng tôi đã vượt qua được trở ngại khó khăn về thể lực. Nhưng cũng từ đó tôi luôn hun đúc cho mình một sức mạnh tâm linh, một ý chí dũng mãnh. Và chính nhờ đó mà tôi hàng phục được loài thú dữ của rừng xanh.

Bất chợt, trong đầu tôi nảy ra một ý nghĩ lạ kỳ không hiểu nổi, và tôi buột miệng hỏi ông:

– Thưa ngài, theo ngài thì tôi có thể đánh cọp được chăng?

Ông cười:

– Được chứ. Nhưng em cũng nên biết là có rất nhiều loại cọp. Loài hung dữ và tai hại nhất trong số đó là loài cọp trong khu rừng dục vọng của con người. Việc giết chết những con cọp của rừng xanh thật ra chẳng mang lại ích lợi gì. Chúng chỉ hung dữ trong giang sơn của chúng, và rất ít khi tự tìm đến gây hại cho con người. Nhưng loài cọp dữ trong nội tâm của mỗi người thì luôn chờ dịp để giết chết những điều lành của chúng ta trong từng giờ từng phút.

Tôi nói:

– Nhưng theo như chúng tôi được biết, chính ngài đã đánh hạ rất nhiều những con cọp rừng xanh như thế. Tôi muốn biết là từ khi nào và vì sao ngài đã từ một người khuất phục thú dữ chuyển sang khuất phục những vọng tưởng nội tâm như hiện nay?

Vị tu sĩ im lặng một lúc lâu. Có vẻ như ông đang hồi tưởng lại những chuyện đã xảy ra trong quá khứ, mà cũng có thể là ông đang cân nhắc xem có nên trả lời câu hỏi của tôi hay không. Lát sau, ông nở một nụ cười và bắt đầu kể:

– Khi tôi đã nhiều lần đánh hạ những con cọp dữ, tiếng tăm và sự vinh quang đã đẩy lòng kiêu căng tự phụ của tôi lên đến mức tưởng như tột cùng. Tôi quyết định không chỉ đánh hạ loài cọp, mà còn phải làm cho chúng khiếp sợ và vâng theo lời tôi như những con vật nuôi trong nhà. Tôi đã làm được điều đó, và tôi bày ra rất nhiều trò lạ mắt để biểu diễn trước công chúng về sức mạnh và khả năng khuất phục loài thú dữ của tôi. Sự thành công của tôi khiến cho mọi người đều nể sợ. Người ta xem tôi như một dũng sĩ anh hùng và đi đến đâu tôi cũng chỉ nghe toàn những lời khen ngợi, tán tụng.

Ông dừng lại một lát, với vẻ chua chát khi nghĩ về chuyện đã qua.

– Ngày kia, cha tôi đến gặp tôi với vẻ mặt suy tư: “Con ơi, cha rất lấy làm lo lắng về những việc con làm. Theo như luật nhân quả, cha sợ rằng con không tránh khỏi những thảm họa khôn lường về sau.” Tôi bật cười với cha tôi và nói: “Cha không nên tin vào những chuyện vô căn cứ như thế. Không ai có thể nhìn thấy được cái gọi là luật nhân quả ấy. Nhưng ai cũng có thể dễ dàng thấy rõ được luật của sức mạnh. Con đã chiến thắng và sẽ chiến thắng. Cha đừng lo cho con, chỉ trừ khi con thối chí và đâm ra sợ hãi. Bằng không thì chẳng có con cọp nào có thể làm hại được con.” Cha tôi có vẻ căng thẳng, người nói: “Con không thể phủ nhận luật nhân quả như thế. Kinh điển từ xưa đã từng ghi chép, và nhiều bậc thánh nhân đã xác nhận điều này. Kẻ làm điều xấu sẽ phải nhận lãnh kết quả xấu. Hơn nữa, loài thú ở rừng xanh căm ghét con, một ngày kia chúng sẽ làm hại con.” Cha tôi nói ra những lời này với vẻ lo lắng thật sự và người đã làm tôi cảm động. Tôi tìm cách nói để trấn an người: “Thưa cha, loài cọp vốn là hung dữ. Cuộc sống của chúng chỉ toàn là giết chóc. Chúng giết chết con mồi để ăn thịt, nhưng ngay cả khi đã no nê chúng cũng không tha cho những con vật hiền lành mà chúng gặp. Chúng có thể vồ chết một con nai chỉ để uống một ngụm máu rồi bỏ đi. Thưa cha, nếu như con đánh hạ những con vật hung dữ như thế thì lẽ nào lại là việc xấu? Biết đâu vì khiếp sợ với con mà chúng sẽ ngần ngại ít nhiều trong việc làm hại những loài vô tội. Việc làm như vậy làm sao lại phải chịu quả báo xấu hở cha? Xin cha đừng buộc con phải từ bỏ việc đang làm.”

Chúng tôi yên lặng lắng nghe và bị thu hút hoàn toàn vào câu chuyện. Theo phong tục Ấn Độ, cha mẹ có quyền quyết định hầu như tuyệt đối với con cái. Không có người con nào dám cãi lại cha mẹ, cho dù là trong việc chọn nghề nghiệp sinh sống hay con đường sự nghiệp của mình. Vị tu sĩ chậm rãi kể tiếp:

– Cha tôi tỏ vẻ thông cảm với những điều tôi nói. Nhưng ông vẫn không giấu được vẻ lo lắng, căng thẳng ngày càng nhiều hơn. Im lặng một lúc như để cân nhắc kỹ những điều sắp nói, rồi ông mới bảo tôi bằng một giọng rất nghiêm trọng: “Con ơi, cha cũng không giấu con chuyện này. Hôm qua, khi cha đang ngồi thiền ngoài hiên trước, có một tu sĩ lạ mặt đến và nói với cha rằng: “Tôi có một điều muốn nhắn gửi đến con ông. Nếu anh ta không từ bỏ ngay những trận đấm đá hung bạo như hiện nay, thì không bao lâu nữa anh ta sẽ phải gánh chịu một tai họa khủng khiếp. Trong sáu tháng trời anh ta sẽ phải ở trong trạng thái dở sống dở chết. Và chỉ sau đó anh ta mới biết chán ngán cảnh thế gianđi theo con đường xuất gia làm một tu sĩ.” Tuy cha tôi rất lo lắng về lời cảnh báotính chất tiên tri ấy, nhưng tôi không xem đó là quan trọng. Tôi không hề lấy đó làm điều lo lắng. Trái lại, tôi cho rằng có lẽ chính những kẻ ganh tỵ với sự thành côngdanh tiếng của tôi đã tìm cách đe dọa tôi bằng cách đặt ra một lời tiên tri vớ vẩn như thế qua trung gian của một tu sĩ.

Vị tu sĩ đột nhiên dừng lại và trầm ngâm rất lâu. Vẻ mặt ông lộ rõ sự hối hận về sai lầm đã qua trong quá khứ. Khi ông ta tiếp tục câu chuyện, giọng ông chìm xuống, thầm thì, như vọng về từ xa xăm:

– Không bao lâu sau đó, tôi đến chơi Cooch Behar. Phong cảnh nơi đây khá mới mẻ và hấp dẫn đối với tôi, nên tôi có dự tính sẽ lưu lại một thời gian để nghỉ ngơi, thư giãn. Khi biết tin tôi đến, người ta thầm thì với nhau trên đường phố và tin ấy nhanh chóng truyền lan khắp nơi. Đi đến đâu tôi cũng nhìn thấy những ánh mắt chiêm ngưỡng, thán phục và cũng đầy vẻ tò mò. Người ta tụ tập thành từng đám đông trên đường tôi đi qua, chỉ cho nhau xem và bàn tán về tôi. Nhiều người trong số họ còn cố chứng tỏ đã biết về tôi nhiều nhất, bằng cách kể lại những trận đánh cọp của tôi mà họ đã từng được xem. Tất nhiên, đã có không ít những sự thổi phồng trong khi kể chuyện, và vì thế hầu như tất cả người dân thành phố đều mong muốn nhân dịp này được một lần tận mắt nhìn thấy tôi.

Ông lắc đầu nhè nhẹ khi kể đến đây, dường như ông vẫn chưa thôi ray rứt khi nhớ lại những giây phút vinh quang hão huyền mà ngày ấy ông không hề nhận ra. Ông kể tiếp:

– Buổi chiều, khi tôi đang ngồi trong nhà trọ thì có tiếng vó ngựa dồn dập chạy đến. Tôi nhìn ra và thấy đó là những người vệ sĩ mặc đồng phục rất nghiêm trang. Họ xuống ngựa bước vào trong sân. Một người trong số họ có vẻ nhận biết tôi. Anh ta tiến lên trước và cúi chào thật lịch sự. Những người khác cũng đều chào theo anh ta. Anh ta đến gần tôi hơn và nói: “Thưa ông, tôi rất hân hạnh được diện kiến với ông hôm nay, và xin cung kính chuyển đến ông lời mời của hoàng tử Cooch Behar. Ngài muốn được gặp ông vào ngày mai.” Tôi hơi phân vân vì không muốn phải gián đoạn những ngày nghỉ ngơi thư giãn chỉ vừa mới bắt đầu. Nhưng có vẻ như đây là một trong những kiểu mời mọc mà người được mời không có quyền từ chối. Dù sao đi nữa, tôi đang ở trên lãnh thổ của ông ta, và nếu không có một lý do nào thật hợp lý thì không thể không nhận lời được. Nghĩ như vậy, tôi đành nói vài câu xã giao rồi báo cho họ biết là tôi nhận lời. Sáng hôm sau, tôi thật bất ngờ khi thấy người ta đưa một chiếc xe song mã thật lộng lẫy đến đón, lại có cả một đoàn kỵ binh đi theo hộ tống nữa. Xe đưa tôi đi một vòng quanh thành phố và phải băng qua mấy khu rừng cây mới đến dinh thự của hoàng tử. Ông này đích thân ra trước cửa để đón tôi và mời tôi vào một căn phòng sang trọng với những chiếc ghế bành lót nệm rất lớn. Sau phần nghi thức chào hỏi, hoàng tử cho tôi biết ngay mục đích của buổi gặp gỡ: “Tôi đã nghe tin đồn trong khắp thành phố này về ông. Người ta nói ông vẫn thường đánh hạ những con cọp dữ bằng tay không?” Tôi từ tốn gật đầu. Hoàng tử nở một nụ cười bí hiểm rồi nói: “Chuyện nghe có vẻ khó tin đấy. Tôi tự hỏi phải chăng ông đã đánh nhau với những con cọp đã bị cho ăn thuốc phiện?” Máu nóng trong người tôi sôi lên. Và để phản đối, tôi mặc nhiên không thèm đáp lại lời khó nghe ấy. Hoàng tử biết là cách nói khích của ông ta đã mang lại hiệu quả, liền đi thẳng vào đề: “Tôi vừa mới bắt được một con cọp Rja. Tôi có lời thách ông thi đấu cùng với nó. Nếu ông có thể tay không đánh ngã được nó, trói lại rồi rời chuồng cọp mà không cần bất cứ sự trợ giúp nào từ bên ngoài, con cọp ấy sẽ thuộc về ông. Ngoài ra là một số tiền hai ngàn ru-bi và nhiều quà tặng khác. Còn nếu ông từ chối, tôi buộc lòng sẽ phải thông báo cho thần dân trên khắp đất nước này được biết rằng ông chẳng bao giờ là một người thực sự đánh ngã được cọp cả, mà chỉ là một kẻ bịp bợm hạ đẳng.” Khi ấy, tôi giận muốn điên lên và nhận lời ngay không cần suy nghĩ. Sau này nghĩ lại, tôi mới biết hoàng tử cố tình chọc giận tôi để đảm bảo là tôi sẽ không từ chối hoặc trốn tránh. Dụng ý của ông chỉ là muốn được tận mắt xem tôi đánh nhau với con cọp hung dữ khét tiếng mà ông tin là không ai có thể đánh hạ được. Khi thấy tôi đã nhận lời, hoàng tử lộ vẻ hân hoan ra mặt. Nhìn vẻ mặt khoái trá của người, tôi chợt liên tưởng đến các hoàng đế La Mã ngày xưa đã thích thú như thế nào khi mang những người Thiên chúa tử đạo ra cho thú dữ xé xác. Hoàng tử nói với tôi: “Ông có một tuần để chuẩn bị. Và tôi lấy làm tiếc là từ nay cho đến ngày thi đấu, ông không được gặp trước địch thủ của mình.” Có lẽ hoàng tử e rằng tôi sẽ trốn mất vì khiếp sợ nếu như tôi nhìn thấy trước con cọp ấy chăng? Nếu vậy thì ông ấy đã lầm, vì tôi thà chết chứ chẳng bao giờ rút lui theo cách ấy. Tôi rời khỏi dinh hoàng tử để trở về nhà trọ, và bắt tay ngay vào việc chuẩn bị cả tinh thần lẫn thể chất cho trận đấu. Không hiểu sao tôi linh cảm thấy đây là một trận đấu không giống như bao nhiêu trận đấu khác mà tôi đã trải qua. Ngoài đường phố, người ta xôn xao đủ thứ tin đồn liên quan đến tôi và trận đấu sắp tới. Hoàng tử đã cho chuẩn bị rất quy mô và chu đáo. Ông dựng lên một khán đài với sức chứa hàng ngàn người, giữa là khu vực đấu trường với lồng sắt an toàn và con cọp Rja bị nhốt trong đó. Người ta cũng tính toán đến việc bỏ đói con cọp để nó tăng thêm phần hung dữ, tất nhiên là để cho trận đấu càng hấp dẫn hơn. Nhưng còn có một tin đồn khác nữa về tôi. Không hiểu vì sao mọi người đều biết được và lan truyền khắp nơi lời tiên tri dự báo về số phận thê thảm của tôi trong trận đấu sắp tới. Người ta bàn tán nhau, kẻ thì cho rằng tôi sẽ thắng, người lại bảo chắc chắn sẽ thua. Cả thành phố như sôi động cả lên và có vẻ như người ta không còn chuyện gì khác để quan tâm ngoài trận đấu sắp tới giữa tôi và con cọp Rja. Vé vào cửa để xem trận đấu đã bán hết trước hai hôm. Đến ngày thi đấu còn có không dưới vài trăm người chen lấn đứng từ xa ở bên ngoài vì không mua được vé để vào xem. Có một điều mà ít ai quan tâm đến. Đó là hoàng tử thu một khoản lợi kếch sù từ tiền bán vé, bất kể kết quả trận đấu sẽ như thế nào!

Khi câu chuyện được kể đến đây, cả tôi và Chandi gần như nín cả hơi thở lại để chăm chú lắng nghe. Chúng tôi quên hẳn một điều rất quan trọng: người đang kể chuyện cho chúng tôi nghe chính là người đã tham gia trận đấu. Và chính vì quên mất điều này, nên chúng tôi không dằn được tâm trạng hồi hộp, lo lắng cho số phận của người dũng sĩ đánh cọp trước cuộc chiến đấu một mất một còn sắp diễn ra. Vị tu sĩ thong thả kể tiếp:

– Khi tôi xuất hiện trên đấu trường giữa những tiếng rống kinh hồn của con cọp dữ, cả khán đài dường như đều nín lặng đi trong chốc lát. Mấy ngàn tia mắt cùng đổ dồn vào tôi, lúc đó chỉ mặc duy nhất một cái quần cụt, phô bày cả thân hình lực lưỡng với những bắp thịt cuồn cuộn đang sắp đến lúc thi thố tài năng. Tuy vậy, đứng trước con cọp hung dữ to lớn này, ai nấy đều có cảm giác tôi chỉ là một con cừu non đang nộp mạng. Tôi bước đến, mở khóa để vào lồng an toàn và khóa cửa lại sau lưng mình. Chuồng cọp đặt bên trong, và phải qua một cánh cửa sắt nữa tôi mới đối mặt với con cọp. Tuy vậy, chỉ thoáng nhìn thấy tôi bên ngoài, con cọp đã nhảy dựng lên với những tiếng gầm khủng khiếp. Những người xem đều im phăng phắc. Họ lo sợ đang nhìn thấy tôi đi dần vào chuồng cọp trong một cuộc chiến đấu có vẻ như không cân sức. Khi tôi vừa đẩy cánh cửa sắt để bước vào, con cọp liền nhảy vọt tới nhanh như một mũi tên. Tôi xoay người để tránh, nhưng cú nhảy của nó quá nhanh và móng vuốt đã chạm được vào bàn tay mặt của tôi, xé rách toạt một mảng da thịt và tạo thành một vết thương khá lớn, máu tuôn lênh láng. Tôi chợt nhớ đến lời tiên tri mà cha tôi đã kể lại và thấy rợn cả người. Tuy nhiên, tôi biết mình không còn gì để chọn lựa vào lúc này. Vì thế, tôi nhanh chóng lấy lại tinh thần, áp chặt vết thương tạm thời trên mảnh quần cụt để giảm bớt lượng máu chảy, và sẵn sàng đối phó với đòn tiếp theo. Lần này, khi thân hình to lớn của nó phủ lên người tôi, tôi nhanh nhẹn tràn sang một bên vừa tránh kịp, và giáng trả một quả đấm thôi sơn bằng tay trái ngay vào hàm cọp. Nó lảo đảo xoay quanh mấy vòng và lại phóng tới. Đã kịp thủ thế sẵn, tôi tiếp tục giáng cho nó một loạt quả đấm liên tiếp trên đầu. Nhưng điều bất lợi lớn nhất của tôi là vết thương đầu tiên. Mùi máu tươi như một thứ thuốc kích thích làm cho con cọp điên tiết lên không còn biết đau đớn, sợ sệt. Trong nhiều trận đấu trước đây, những quả đấm của tôi thường vô cùng hiệu quả. Có những con cọp sau khi bị tôi đấm vào đầu hay cằm, đã khiếp sợ đến mức không còn dám phóng tới mà chỉ thu mình chờ tôi nhảy đến tấn công. Nhưng con cọp hăng máu này rõ ràng là không còn biết sợ, nó liên tục tấn công tôi bằng những đòn chí tử, với những nanh vuốt sắc nhọn. Đã thế, bàn tay mặt của tôi đã trở nên vô dụng, và tôi chỉ có thể phản công bằng tay trái. Tôi và cọp quần nhau một hồi thì tôi không còn biết là mình đã bị thương ở những nơi nào nữa. Bản năng sinh tồn cho tôi biết là phải nhanh chóng hạ gục nó nếu không thì tôi sẽ không còn đủ sức để đứng vững nữa. Tôi lựa thế tung một cú đấm bằng hết sức mình vào đầu nó. Con cọp rống lên một tiếng đau đớn, nhưng thay vì dội ngược, nó lại chồm ngay lên và phóng đến chỗ tôi. Bất ngờ và thất thế sau khi vừa ra một đòn hết sức, tôi không tránh né kịp bị nó hất ngã ngửa ra trên sàn. Nhiều tiếng hét kinh khiếp vang lên trên khán đài. Khán giả nhao nhao cả lên và nhiều người la lớn: “Bắn chết nó đi, bắn chết con cọp ngay đi!” Người gác chuồng cọp đã sẵn sàng hành động đúng như thế, vì mọi người đều nghĩ là tôi đã thua cuộc và cần phải cứu lấy mạng sống của tôi. Nhưng lúc đó tôi và con cọp đã quấn vào nhau, chồm qua quật lại nhanh như cắt, và phát súng mất bình tĩnh của ông ta đã đi vào khoảng không vô ích. Ngay khi ấy, tôi lừa được một dịp thuận tiện, hét lên một tiếng lớn và dồn hết sức lực của mình giáng vào giữa đỉnh đầu con cọp một quả đấm. Nó ngã lăn ra sàn gạch và không còn cử động.

– Thế là con cọp đã bị hạ.

Đến đây, tôi nói chen vào và thở ra để trút hết sự căng thẳng tự nãy giờ.

– Vâng, nó đã bị hạ.

Vị tu sĩ cười một cách hóm hỉnh khi đáp lại với tôi câu này. Và ông kể tiếp:

– Tôi dùng hai tay đẫm máu tươi, banh rộng quai hàm của nó ra và đặt đầu mình vào đó trong một lúc. Khán giả đều nín thở rợn người khi chứng kiến việc ấy. Sau đó, tôi lấy sợi dây xiềng quấn quanh cổ nó và buộc vào song sắt của chuồng cọp. Rồi tôi quay lưng đi về phía cửa chuồng một cách đắc thắng. Nhưng thật bất ngờ, ngay lúc ấy con Rja vùng dậy và vươn mình nhảy vọt tới. Trong lúc đã đuối sức, tôi đã không buộc đầu dây đủ chặt, và sợi dây xiềng bị kéo tuột ra bởi sức mạnh cú nhảy của con thú. Nó phóng được tới và phủ xuống từ trên cao. Miệng nó ngoạm được một miếng lớn vào vai tôi, máu tuôn ra xối xả. Tôi ngã quỵ. Nhưng ngay lập tức tôi vùng dậy, lăn nhanh qua bên và quay lại giáng liên tục cho nó mấy đấm nữa vào đầu. Con thú giãy lên mấy cái rồi nằm im bất động. Lần này, tôi buộc nó chặt hơn rồi mới từ từ rời khỏi chuồng sắt. Bấy giờ, trên khán đài mới bùng lên những tiếng hoan hô và những tiếng la hét phấn khích. Người ta hoan nghênh chiến công hiển hách của tôi, và người ta tự hào về chuyện tôi đã tay không đánh gục con thú hung dữ nhất của rừng xanh. Tuy tôi bị thương rất nặng nề, nhưng tôi đã hội đủ các điều kiện chiến thắng: đánh gục con cọp, trói nó lại trong chuồng và đi ra mà không có sự trợ giúp của bất cứ ai. Khi người ta băng bó các vết thương cho tôi vừa xong, họ công kênh tôi đi qua khắp các đường phố. Nhiều người ném tiền vàng lên kiệu cho tôi. Cả thành phố tôn xưng tôi như một vị anh hùng chưa từng có. Hoàng tử cho người mang đến ngay cho tôi số tiền đã hứa. Nói chung, lúc bấy giờ tôi hầu như không còn thiếu bất cứ thứ gì mà từ trước tôi hằng mong muốn đạt được như tiền bạc, danh vọng... tất cả đều thừa thải. Tuy nhiên, điều kỳ lạ là bỗng dưng tôi có một tâm trạng chán ngắt, lãnh đạm với tất cả những gì đang xảy đến. Giây phút kề cận cái chết vừa qua như một gáo nước lạnh làm tôi thức tỉnh. Tôi nhận ra tất cả những gì mình theo đuổi từ trước đến nay đều chỉ là phù phiếm, không thật. Và chỉ cần bước qua lằn ranh sống chết là hết thảy đều sẽ không còn chút ý nghĩa gì nữa!

Câu cuối cùng được ông nhấn mạnh bằng cách nói chậm và rõ ràng từng tiếng. Rồi ông dừng lại trầm ngâm. Tôi nhìn thấy được trong ánh mắt ông vẻ suy tư cho thấy những kinh nghiệm tâm linh thực sự mà ông đã trải qua sau lần đối mặt cùng cái chết. Dường như cho đến nay, điều đó vẫn còn là một kinh nghiệm quý giá mà ông muốn truyền đạt với chúng tôi. Ông chớp mắt mấy cái như đang nhớ lại mọi việc rồi kể tiếp:

Thời gian tiếp theo đó quả là một thời kỳ khủng khiếp đối với tôi. Các vết thương nặng nề không khỏi ngay mà hành hạ tôi đau đớn không thôi. Bất cứ lúc nào mạng sống của tôi cũng đều nằm trong sự đe dọa mà không vị thầy thuốc nào dám đoan chắc là có thể cứu vãn được. Tôi chịu đựng cơn đau thể xác từng giây từng phút, cùng với nỗi lo sợ về một cái chết tưởng chừng như không sao tránh khỏi. Nhưng chính trong thời gian này, những sự chiêm nghiệm tâm linh của tôi về cuộc sống cũng chín mùi đến một mức độ không ngờ được. Và kỳ lạ thay, quãng thời gian này kéo dài đúng sáu tháng, khớp với lời cảnh báo tiên tri của vị tu sĩ ngày trước.

Chúng tôi không giấu được vẻ ngạc nhiên khi nghe kể đến đây. Phải chăng người ta sẽ có được khả năng biết trước mọi việc khi đã đạt đến sự chứng ngộ? Nhưng đây là một câu chuyện thật hoàn toàn do người trong cuộc kể lại, và xác nhận nó bằng chính cuộc đời mình, nên độ tin cậy là không còn gì để nghi ngờ nữa. Chúng tôi rất nôn nao muốn biết phần tiếp theo của câu chuyện.

– Làm thế nào mà tôi bình phục được sau sáu tháng kinh hoàng ấy, chính tôi cũng không hiểu nổi. Có lẽ đây là một sự thử thách mà tôi phải trải qua trước khi đạt được điều mà từ trước đến nay tôi chưa từng đạt được. Ngay khi vừa bình phục, tôi rời khỏi Cooch Behar để trở về quê quán. Tôi nói với cha tôi suy nghĩ của mình lúc đó: “Thưa cha, giờ thì con đã hiểu ra vị tu sĩ đưa ra lời cảnh báo con ngày trước chính là vị thầy đáng kính có thể cứu vớt đời con. Nhưng làm sao con có thể tìm được người vào lúc này?” Cha tôi hiểu lòng tôi lúc đó, người an ủi tôi bằng một giọng quả quyết: “Con đừng lo. Nếu ngài đã có ý muốn cứu độ cho con, chắc chắn ngài sẽ đến đây vào thời điểm thích hợp.” Và quả đúng như cha tôi đã tin tưởng. Ít lâu sau thì vị tu sĩ ấy bất ngờ xuất hiện. Người đến gặp tôi và nói bằng một giọng từ hòa, êm ái: “Con không cần đánh cọp dữ nữa. Con hãy đi theo thầy. Thầy sẽ dạy con khuất phục những con cọp tham dục ẩn nấp trong khu rừng vô minh của lòng mình. Con đã có quá đủ những lời khen ngợi, ca tụng của người đời. Giờ đây con hãy theo ta tinh tấn tu tập để đạt đến sự khen ngợi và ca tụng của những vị thiên thần và các bậc hiền thánh.”

Ngừng một chút, vị tu sĩ kết thúc câu chuyện đời mình bằng một giọng trầm trầm, chắc nịch:

– Kể từ đó, chính tôn sư là người dẫn dắt tôi trên con đường tâm linh. Người khơi dậy nơi tôi những năng lực tinh thần đã từ lâu bị quên lãng. Với sự hướng dẫn của người, mỗi ngày tôi càng mở rộng hơn lòng từ bi thương xót của mình đến với hết thảy muôn loài, và thậm chí cũng không còn để tâm hằn học, hận thù đối với loài cọp dữ trong rừng sâu nữa. Qua một thời gian, tôn sư đã đưa tôi lên núi Hy Mã Lạp Sơn để tiếp tục công phu tu tập thiền định.

Chúng tôi nghiêng mình chào tạm biệt vị tu sĩ với lòng cảm kích vô hạn. Qua câu chuyện cuộc đời của ông, chúng tôi đã học hỏi được rất nhiều, và cảm thấy vững tin hơn nữa vào những điều đã học được trên con đường tâm linh. Chúng tôi hiểu ra một điều là sức mạnh thể chất tuy không thể phủ nhận, nhưng chính sức mạnh tinh thần mới là yếu tố quyết định sức mạnh của một con người. Và điều quan trọng nhất đối với tôi, là niềm mong ước được bỏ nhà ra đi sống đời sống xuất gia của một tu sĩ giờ đây càng mạnh mẽ và nung nấu tôi hơn bao giờ hết.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14875)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17803)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18218)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 14994)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13192)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21168)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32591)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15321)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12350)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12836)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27532)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12138)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34967)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17751)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11828)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12651)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14571)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32473)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19461)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12971)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14087)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14272)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15318)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14145)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14136)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11959)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53181)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11665)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13927)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13822)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20696)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14313)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13434)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13619)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34178)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16211)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14073)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14203)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13567)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15917)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13517)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22980)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27748)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13906)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24978)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13954)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31335)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13867)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15563)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14980)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant