Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương VI: Thuật phi thân

09 Tháng Ba 201100:00(Xem: 6597)
Chương VI: Thuật phi thân

CÁC BẬC CHÂN SƯ YOGI ẤN ĐỘ
Tác giả: Yogananda - Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG VI: THUẬT PHI THÂN

Một hôm, người bạn tôi là Upendra đến tìm tôi và nói với vẻ rất hăm hở:

– Này Mukunda, hôm qua tôi đã gặp một chuyện rất lạ lùng. Trong một buổi thuyết giảng, có vị tu sĩ kia đã bay lơ lửng lên không trung, với độ cao cách đất khoảng chừng một mét.

Tôi nhìn anh ta, nhoẻn miệng cười và hỏi:

– Có phải tên ông ta là Bhaduri, cư trú ở đường Circular?

Upendra gật đầu lộ vẻ ngạc nhiên:

– Thế ra anh đã biết vị này rồi sao?

Tôi đáp:

– Vâng, vì ông ta ở gần nhà tôi nên tôi cũng thường đến gặp ông.

Nghe tôi nói thế, Upendra có vẻ bị thu hút vào câu chuyện. Anh ta muốn được nghe biết thêm về vị tu sĩ đặc biệt ấy. Tôi liền kể cho anh ta nghe:

– Tôi được gặp ông ta trong một trường hợp tình cờ. Khi ấy, ông đã luyện thuần thục phép khí công Patanjali. Ông có thực hành khí công trước mắt tôi một lầnđến nay tôi vẫn còn nhớ rất rõ. Trong căn phòng kín, ông ngồi vận khí và tôi có cảm giác như một cơn giông bão khủng khiếp đang tràn qua. Rồi sau đó, ông thay đổi hơi thở của mình và tạo ra một ấn tượng yên tĩnh, êm ả sau cơn giông tố. Những cảm giác lạ thường trong lần ấy khiến cho tôi mãi mãi không sao quên được.

Upendra tỏ vẻ hoài nghi. Anh ta hỏi:

– Tôi nghe nói rằng ông ta không bao giờ bước ra khỏi nhà. Có thật vậy chăng?

– Vâng, đúng vậy. Ông sống theo lối nhập thất đã từ hơn 20 năm rồi. Ông chỉ ra khỏi cửa vào những dịp thánh lễ, và những lúc ấy ông thực hành hạnh bố thí với rất đông những người hành khất hoặc những kẻ đói khổ.

Upendra lại hỏi:

– Vì sao ông ta có thể lơ lửng được trên không, đi ngược lại với những định luật tự nhiên?

Tôi nói:

– Tất nhiên là chính tôi cũng không hiểu biết nhiều hơn anh lắm đâu. Nhưng tôi nghe nói một số môn khí công có thể làm cho cơ thể con người ta nhẹ đi, và vì thế có thể lơ lửng trên không theo ý muốn. Trong một số trường hợp khác, các bậc chân tu đã chứng ngộ cũng có được năng lực kỳ diệu ấy mà chúng ta không thể giải thích bằng những quy luật thông thường.

Upendra hỏi tiếp:

– Tôi biết là ông ấy thường có những buổi thuyết giảng cho đệ tử vào buổi chiều. Tôi rất muốn được biết thêm nhiều hơn nữa về ông ta. Anh có thường đến tham dự các buổi thuyết giảng của ông ấy chăng?

– Vâng, tôi rất thường đến dự các buổi thuyết giảng của ông ấy, và học được khá nhiều điều từ những kinh nghiệm thực tiễn trong việc tu tập của ông ta.

Sau câu chuyện với Upendra, buổi chiều hôm ấy trên đường đi học về tôi ghé vào thăm vị tu sĩ. Thật ra, ông cũng rất ít khi tiếp khách. Vì vậy, trước cửa nhà bao giờ cũng có một người đệ tửnhiệm vụ canh cửa và từ chối những chuyến viếng thăm không báo trước. Tôi đã sắp bị mời ra như những người khác, thì may thay tu sĩ đã xuất hiện đúng lúc từ bên trong. Người nói:

– Đừng cản trở Mukunda. Cậu ấy có thể đến đây bất cứ khi nào cậu ấy thích.

Trong khi đi cùng tôi lên căn phòng của mình, tu sĩ nói:

– Việc sống giam mình trong căn nhà nhỏ này, thật ra không chỉ nhằm giúp ích việc tu tập của tôi, mà còn nhằm tránh cho người đời một số ý tưởng không hay. Em biết đấy, chân lý của bậc giác ngộ thường làm cho những kẻ phàm tục phải thất vọngđau khổ vì họ không thể bám víu vào những ảo tưởng hư dối của mình được nữa. Vì vậy, nếu không phải là những kẻ thật tâm cầu đạo thì chẳng nên để cho họ nghe biết chân lý cao siêu của các bậc hiền thánh, kẻo sẽ làm cho họ thất vọngchán ngán cuộc sống này.

Chúng tôi cùng bước vào một căn phòng nhỏ đơn sơ. Chính trong căn phòng này, tu sĩ trải qua phần lớn thời gian của đời mình, vì ông thường rất ít khi ra khỏi cửa phòng.

– Bạch thầy, thầy là vị tu sĩ đầu tiên mà con được biết sống ẩn dật theo cách này.

Vị tu sĩ cười đáp lại:

– Sự giác ngộ không giới hạn ở bất cứ một hình thức tu tập nào. Điều quan trọng là có thể nhận ra được bản chất của mọi sự việc.

Ông ngồi xuống chỗ của mình trên sàn nhà. Tôi cũng tự tìm cho mình một chỗ thích hợp. Lúc này tôi mới lặng lẽ ngắm nhìn ông, đang chuẩn bị nhập vào thiền định. Tuy đã bước sang độ tuổi bảy mươi, ông không có vẻ gì là già nua, suy yếu. Ông ngồi thẳng lưng, thân hình to lớn, vạm vỡ và cân đối. Khuôn mặt đạo mạo với một chòm râu bạc, đôi mắt tinh anh dừng lại ở một điểm vô định trong không gian, cho thấy ông đang tập trung tư tưởng hoàn toàn trong cơn thiền định.

Bất giác, tôi cũng sửa lại tư thế ngồi và bắt đầu nhập thiền. Cả hai chúng tôi cùng trải qua thời gian êm ả quý giá này chừng hơn một giờ. Sau đó, tu sĩ lên tiếng trước, nói với tôi bằng một giọng êm ái, từ hòa:

– Con đã khá thuần thục trong việc ngồi thiền đấy. Nhưng con đã đạt được kinh nghiệm tâm linh thực sự nào chưa?

Ông có ý nhắc nhở tôi về mục đích của việc hành thiền:

– Con không nên nhầm lẫn giữa mục đíchphương tiện.

Tôi hiểu điều ông muốn nói. Việc thực hành thiền định chỉ như một phương pháp rèn luyện tâm linh. Sự rèn luyện ấy giúp chúng ta đạt đến điều gì thì còn cần phải có sự soi rọi của một trí tuệ minh mẫn và sự dắt dẫn của một bậc minh sư nữa.

Vị tu sĩ lại nở nụ cười quen thuộc và chuyển sang một đề tài khác. Ông chỉ vào mấy cái bọc lớn để trên chiếc bàn nhỏ và nói:

– Đây là những thư tín từ Hoa Kỳ gửi đến. Một số các tổ chức tu tập tinh thần ở đó thường quan hệ với tôi để nhờ hướng dẫn việc tu thiền. Tôi rất vui được giúp họ. Em nên biết, phép tu thiền cũng như ánh nắng mặt trời, mang lại hơi ấm khắp nơi mà không là sở hữu của riêng ai cả. Và sự giải thoát của con người hoàn toàn giống nhau ở cả phương Đông và phương Tây.

Lúc bấy giờ, tôi rất vô tư khi nghe những lời này của vị tu sĩ. Mãi về sau, tôi mới hiểu ra là ông đã nhìn thấy trước sứ mạng truyền bá thiền học sang Hoa Kỳ mà tôi sẽ thực hiện trong nhiều năm sau đó, vì thế ông muốn gieo vào lòng tôi ít nhiều những tư tưởng đầu tiên về việc giảng dạy thiền học ở phương Tây.

Tôi nói với ông một cách chân thành:

– Bạch thầy, thầy nên viết một tập sách hướng dẫn việc tu thiền. Sẽ có rất nhiều người được lợi lạc qua sự truyền dạy theo cách ấy của thầy.

– Tôi đã truyền dạy cho các môn đồ. Họ sẽ truyền dạy cho đệ tử của họ. Đó là những cuốn sách sống độngthực tiễn hơn nhiều. Một cuốn sách được viết ra trên giấy không thể mang lại niềm tin như những con người sống, và hơn thế nữa, nó thường chịu sự phê phán hẹp hòi của những kẻ chẳng hiểu biết gì.

Chiều hôm đó tôi ở lại với ông cho đến khi các đệ tử của ông quy tụ về để nghe thuyết giảng. Buổi giảng pháp của ông có sức thu hút rất mạnh. Ông trình bày những vấn đề một cách lưu loát, và khiến cho người nghe tiếp nhận được một cách dễ dàng những gì ông muốn nói.

Khi buổi giảng kết thúc, một người đệ tử đến trước ông và nói:

– Bạch thầy, thật tôn quý thay đức hy sinh cao cả, thầy đã từ bỏ mọi sự giàu sang sung sướng để đi theo con đường tu tập khắc khổ và mang đến cho chúng con mùi vị của đạo pháp.

Sự thật là lúc còn niên thiếu, vị tu sĩ này đã từ bỏ gia đình rất giàu có để ra đi xuất gia. Nhưng tôi nghe ông đáp lại lời nói ấy rằng:

– Con đã nói ngược lại với sự thật mất rồi. Những gì thầy từ bỏ chỉ là chút tiền bạc và những thú vui trần tục vô nghĩa. Đổi lại, thầy đã đạt được niềm an lạc hạnh phúc vô biên không gì hơn được. Nếu so sánh như thế thì có đáng gọi là một sự hy sinh chăng? Ngược lại, chính người thế gian đã từ bỏ đi những giá trị tâm linh quý báu mà họ hoàn toàn có thể được hưởng, để chạy theo những niềm vui tạm bợ trong phút chốc, những của cải vật chất mà không giúp gì cho họ khi đối mặt với những đau khổ của kiếp người. Những người như vậy, họ mất nhiều hơn là được. Và chính cách chọn lựa của họ mới là điều đáng ngạc nhiên một cách kỳ lạ!

Và để kết luận, vị tu sĩ đưa ra một nhận xét đầy tính cách thực nghiệm:

Nhân quả xoay vần là một định luật khách quan từ ngàn xưa không ai tránh khỏi. Nếu chúng ta biết tự lo cho tương lai của mình bằng những việc làm tốt đẹp của hôm nay, thì đó chính là sự đảm bảo chắc chắn hơn bất cứ một công ty bảo hiểm nào của thời đại. Cuộc sống thế tục đầy dẫy những khổ đau, dằn vặt, và con người ta trở nên yếu ớt, thụ động vì thấy mình bất lực. Họ luôn khẩn cầu, van nài ở bất cứ một thế lực siêu nhiên nào đó để có được sự giúp đỡ, cứu rỗi. Nhưng họ không biết rằng chỉ có tự mình mới có thể cứu vớt được chính mình bằng những thay đổi tích cực trong nhận thứclối sống.

Về sau, tôi vẫn thường đến với vị tu sĩ này sau những giờ tan học. Người dành cho tôi một sự ưu ái đặc biệt mà tôi dễ dàng nhận ra nhưng phải mãi đến sau này mới hiểu được nguyên nhân. Ngày tôi chuẩn bị lên đường sang Hoa Kỳ, người đã nói rõ với tôi nguyên nhân ấy:

– Con hãy an lòng đi đến nơi ấy. Tinh hoa của nền văn hóa Ấn Độ được thể hiện qua pháp môn thiền định sẽ được con truyền bá rộng rãi trên đất Mỹ. Sứ mệnh thiêng liêng của con đã được xác định từ lâu xa về trước. Và ta tin chắc rằng với đạo tâm vững chắc, con sẽ thành công. Người dân nước Mỹ sẽ dành cho con một sự chào đón nhiệt tình và nồng hậu.

Nhưng tôi chỉ thật sự hiểu thấu những tư tưởng của vị tu sĩ khả kính và giàu nghị lực này sau khi chính bản thân tôi đã vượt qua rất nhiều thử thách. Và mối quan hệ hướng dẫn của ông với những người giàu đức tin ở nước Mỹ xa xôi kia có tác dụng gieo cấy trong tôi một ấn tượng tốt đẹp mà sau này đã giúp tôi mạnh mẽ hơn trên con đường truyền bá đạo pháp sang nơi ấy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14307)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14566)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11846)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14366)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13281)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14648)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12648)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25263)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27896)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26367)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17236)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16528)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15919)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22148)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17137)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24918)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21983)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19078)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16175)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21727)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16787)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14670)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16710)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25029)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18783)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21199)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14779)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14378)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16619)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18016)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12931)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14948)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12720)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13892)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14607)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28039)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27210)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14352)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20971)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14673)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24195)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28700)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14738)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13299)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16464)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27255)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12021)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16081)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21502)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12379)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant