Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương VI: Thuật phi thân

09 Tháng Ba 201100:00(Xem: 6596)
Chương VI: Thuật phi thân

CÁC BẬC CHÂN SƯ YOGI ẤN ĐỘ
Tác giả: Yogananda - Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG VI: THUẬT PHI THÂN

Một hôm, người bạn tôi là Upendra đến tìm tôi và nói với vẻ rất hăm hở:

– Này Mukunda, hôm qua tôi đã gặp một chuyện rất lạ lùng. Trong một buổi thuyết giảng, có vị tu sĩ kia đã bay lơ lửng lên không trung, với độ cao cách đất khoảng chừng một mét.

Tôi nhìn anh ta, nhoẻn miệng cười và hỏi:

– Có phải tên ông ta là Bhaduri, cư trú ở đường Circular?

Upendra gật đầu lộ vẻ ngạc nhiên:

– Thế ra anh đã biết vị này rồi sao?

Tôi đáp:

– Vâng, vì ông ta ở gần nhà tôi nên tôi cũng thường đến gặp ông.

Nghe tôi nói thế, Upendra có vẻ bị thu hút vào câu chuyện. Anh ta muốn được nghe biết thêm về vị tu sĩ đặc biệt ấy. Tôi liền kể cho anh ta nghe:

– Tôi được gặp ông ta trong một trường hợp tình cờ. Khi ấy, ông đã luyện thuần thục phép khí công Patanjali. Ông có thực hành khí công trước mắt tôi một lầnđến nay tôi vẫn còn nhớ rất rõ. Trong căn phòng kín, ông ngồi vận khí và tôi có cảm giác như một cơn giông bão khủng khiếp đang tràn qua. Rồi sau đó, ông thay đổi hơi thở của mình và tạo ra một ấn tượng yên tĩnh, êm ả sau cơn giông tố. Những cảm giác lạ thường trong lần ấy khiến cho tôi mãi mãi không sao quên được.

Upendra tỏ vẻ hoài nghi. Anh ta hỏi:

– Tôi nghe nói rằng ông ta không bao giờ bước ra khỏi nhà. Có thật vậy chăng?

– Vâng, đúng vậy. Ông sống theo lối nhập thất đã từ hơn 20 năm rồi. Ông chỉ ra khỏi cửa vào những dịp thánh lễ, và những lúc ấy ông thực hành hạnh bố thí với rất đông những người hành khất hoặc những kẻ đói khổ.

Upendra lại hỏi:

– Vì sao ông ta có thể lơ lửng được trên không, đi ngược lại với những định luật tự nhiên?

Tôi nói:

– Tất nhiên là chính tôi cũng không hiểu biết nhiều hơn anh lắm đâu. Nhưng tôi nghe nói một số môn khí công có thể làm cho cơ thể con người ta nhẹ đi, và vì thế có thể lơ lửng trên không theo ý muốn. Trong một số trường hợp khác, các bậc chân tu đã chứng ngộ cũng có được năng lực kỳ diệu ấy mà chúng ta không thể giải thích bằng những quy luật thông thường.

Upendra hỏi tiếp:

– Tôi biết là ông ấy thường có những buổi thuyết giảng cho đệ tử vào buổi chiều. Tôi rất muốn được biết thêm nhiều hơn nữa về ông ta. Anh có thường đến tham dự các buổi thuyết giảng của ông ấy chăng?

– Vâng, tôi rất thường đến dự các buổi thuyết giảng của ông ấy, và học được khá nhiều điều từ những kinh nghiệm thực tiễn trong việc tu tập của ông ta.

Sau câu chuyện với Upendra, buổi chiều hôm ấy trên đường đi học về tôi ghé vào thăm vị tu sĩ. Thật ra, ông cũng rất ít khi tiếp khách. Vì vậy, trước cửa nhà bao giờ cũng có một người đệ tửnhiệm vụ canh cửa và từ chối những chuyến viếng thăm không báo trước. Tôi đã sắp bị mời ra như những người khác, thì may thay tu sĩ đã xuất hiện đúng lúc từ bên trong. Người nói:

– Đừng cản trở Mukunda. Cậu ấy có thể đến đây bất cứ khi nào cậu ấy thích.

Trong khi đi cùng tôi lên căn phòng của mình, tu sĩ nói:

– Việc sống giam mình trong căn nhà nhỏ này, thật ra không chỉ nhằm giúp ích việc tu tập của tôi, mà còn nhằm tránh cho người đời một số ý tưởng không hay. Em biết đấy, chân lý của bậc giác ngộ thường làm cho những kẻ phàm tục phải thất vọngđau khổ vì họ không thể bám víu vào những ảo tưởng hư dối của mình được nữa. Vì vậy, nếu không phải là những kẻ thật tâm cầu đạo thì chẳng nên để cho họ nghe biết chân lý cao siêu của các bậc hiền thánh, kẻo sẽ làm cho họ thất vọngchán ngán cuộc sống này.

Chúng tôi cùng bước vào một căn phòng nhỏ đơn sơ. Chính trong căn phòng này, tu sĩ trải qua phần lớn thời gian của đời mình, vì ông thường rất ít khi ra khỏi cửa phòng.

– Bạch thầy, thầy là vị tu sĩ đầu tiên mà con được biết sống ẩn dật theo cách này.

Vị tu sĩ cười đáp lại:

– Sự giác ngộ không giới hạn ở bất cứ một hình thức tu tập nào. Điều quan trọng là có thể nhận ra được bản chất của mọi sự việc.

Ông ngồi xuống chỗ của mình trên sàn nhà. Tôi cũng tự tìm cho mình một chỗ thích hợp. Lúc này tôi mới lặng lẽ ngắm nhìn ông, đang chuẩn bị nhập vào thiền định. Tuy đã bước sang độ tuổi bảy mươi, ông không có vẻ gì là già nua, suy yếu. Ông ngồi thẳng lưng, thân hình to lớn, vạm vỡ và cân đối. Khuôn mặt đạo mạo với một chòm râu bạc, đôi mắt tinh anh dừng lại ở một điểm vô định trong không gian, cho thấy ông đang tập trung tư tưởng hoàn toàn trong cơn thiền định.

Bất giác, tôi cũng sửa lại tư thế ngồi và bắt đầu nhập thiền. Cả hai chúng tôi cùng trải qua thời gian êm ả quý giá này chừng hơn một giờ. Sau đó, tu sĩ lên tiếng trước, nói với tôi bằng một giọng êm ái, từ hòa:

– Con đã khá thuần thục trong việc ngồi thiền đấy. Nhưng con đã đạt được kinh nghiệm tâm linh thực sự nào chưa?

Ông có ý nhắc nhở tôi về mục đích của việc hành thiền:

– Con không nên nhầm lẫn giữa mục đíchphương tiện.

Tôi hiểu điều ông muốn nói. Việc thực hành thiền định chỉ như một phương pháp rèn luyện tâm linh. Sự rèn luyện ấy giúp chúng ta đạt đến điều gì thì còn cần phải có sự soi rọi của một trí tuệ minh mẫn và sự dắt dẫn của một bậc minh sư nữa.

Vị tu sĩ lại nở nụ cười quen thuộc và chuyển sang một đề tài khác. Ông chỉ vào mấy cái bọc lớn để trên chiếc bàn nhỏ và nói:

– Đây là những thư tín từ Hoa Kỳ gửi đến. Một số các tổ chức tu tập tinh thần ở đó thường quan hệ với tôi để nhờ hướng dẫn việc tu thiền. Tôi rất vui được giúp họ. Em nên biết, phép tu thiền cũng như ánh nắng mặt trời, mang lại hơi ấm khắp nơi mà không là sở hữu của riêng ai cả. Và sự giải thoát của con người hoàn toàn giống nhau ở cả phương Đông và phương Tây.

Lúc bấy giờ, tôi rất vô tư khi nghe những lời này của vị tu sĩ. Mãi về sau, tôi mới hiểu ra là ông đã nhìn thấy trước sứ mạng truyền bá thiền học sang Hoa Kỳ mà tôi sẽ thực hiện trong nhiều năm sau đó, vì thế ông muốn gieo vào lòng tôi ít nhiều những tư tưởng đầu tiên về việc giảng dạy thiền học ở phương Tây.

Tôi nói với ông một cách chân thành:

– Bạch thầy, thầy nên viết một tập sách hướng dẫn việc tu thiền. Sẽ có rất nhiều người được lợi lạc qua sự truyền dạy theo cách ấy của thầy.

– Tôi đã truyền dạy cho các môn đồ. Họ sẽ truyền dạy cho đệ tử của họ. Đó là những cuốn sách sống độngthực tiễn hơn nhiều. Một cuốn sách được viết ra trên giấy không thể mang lại niềm tin như những con người sống, và hơn thế nữa, nó thường chịu sự phê phán hẹp hòi của những kẻ chẳng hiểu biết gì.

Chiều hôm đó tôi ở lại với ông cho đến khi các đệ tử của ông quy tụ về để nghe thuyết giảng. Buổi giảng pháp của ông có sức thu hút rất mạnh. Ông trình bày những vấn đề một cách lưu loát, và khiến cho người nghe tiếp nhận được một cách dễ dàng những gì ông muốn nói.

Khi buổi giảng kết thúc, một người đệ tử đến trước ông và nói:

– Bạch thầy, thật tôn quý thay đức hy sinh cao cả, thầy đã từ bỏ mọi sự giàu sang sung sướng để đi theo con đường tu tập khắc khổ và mang đến cho chúng con mùi vị của đạo pháp.

Sự thật là lúc còn niên thiếu, vị tu sĩ này đã từ bỏ gia đình rất giàu có để ra đi xuất gia. Nhưng tôi nghe ông đáp lại lời nói ấy rằng:

– Con đã nói ngược lại với sự thật mất rồi. Những gì thầy từ bỏ chỉ là chút tiền bạc và những thú vui trần tục vô nghĩa. Đổi lại, thầy đã đạt được niềm an lạc hạnh phúc vô biên không gì hơn được. Nếu so sánh như thế thì có đáng gọi là một sự hy sinh chăng? Ngược lại, chính người thế gian đã từ bỏ đi những giá trị tâm linh quý báu mà họ hoàn toàn có thể được hưởng, để chạy theo những niềm vui tạm bợ trong phút chốc, những của cải vật chất mà không giúp gì cho họ khi đối mặt với những đau khổ của kiếp người. Những người như vậy, họ mất nhiều hơn là được. Và chính cách chọn lựa của họ mới là điều đáng ngạc nhiên một cách kỳ lạ!

Và để kết luận, vị tu sĩ đưa ra một nhận xét đầy tính cách thực nghiệm:

Nhân quả xoay vần là một định luật khách quan từ ngàn xưa không ai tránh khỏi. Nếu chúng ta biết tự lo cho tương lai của mình bằng những việc làm tốt đẹp của hôm nay, thì đó chính là sự đảm bảo chắc chắn hơn bất cứ một công ty bảo hiểm nào của thời đại. Cuộc sống thế tục đầy dẫy những khổ đau, dằn vặt, và con người ta trở nên yếu ớt, thụ động vì thấy mình bất lực. Họ luôn khẩn cầu, van nài ở bất cứ một thế lực siêu nhiên nào đó để có được sự giúp đỡ, cứu rỗi. Nhưng họ không biết rằng chỉ có tự mình mới có thể cứu vớt được chính mình bằng những thay đổi tích cực trong nhận thứclối sống.

Về sau, tôi vẫn thường đến với vị tu sĩ này sau những giờ tan học. Người dành cho tôi một sự ưu ái đặc biệt mà tôi dễ dàng nhận ra nhưng phải mãi đến sau này mới hiểu được nguyên nhân. Ngày tôi chuẩn bị lên đường sang Hoa Kỳ, người đã nói rõ với tôi nguyên nhân ấy:

– Con hãy an lòng đi đến nơi ấy. Tinh hoa của nền văn hóa Ấn Độ được thể hiện qua pháp môn thiền định sẽ được con truyền bá rộng rãi trên đất Mỹ. Sứ mệnh thiêng liêng của con đã được xác định từ lâu xa về trước. Và ta tin chắc rằng với đạo tâm vững chắc, con sẽ thành công. Người dân nước Mỹ sẽ dành cho con một sự chào đón nhiệt tình và nồng hậu.

Nhưng tôi chỉ thật sự hiểu thấu những tư tưởng của vị tu sĩ khả kính và giàu nghị lực này sau khi chính bản thân tôi đã vượt qua rất nhiều thử thách. Và mối quan hệ hướng dẫn của ông với những người giàu đức tin ở nước Mỹ xa xôi kia có tác dụng gieo cấy trong tôi một ấn tượng tốt đẹp mà sau này đã giúp tôi mạnh mẽ hơn trên con đường truyền bá đạo pháp sang nơi ấy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26248)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21660)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23428)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 14751)
Hiện đại hoá đạo Phật không có nghĩa là thế tục hóa đạo Phật. Đạo Phật đi vào cuộc đời nhưng không bị cuộc đời làm giảm mất đi những đặc tính siêu việt của nó.
(Xem: 12957)
Có thể nói Đức Đạt Lai Lạt Ma là nhà hoằng pháp vĩ đại nhất của PG trong thời hiện đại, và được xem là người có nhiều tác phẩm Phật học được người Tây Phương tiếp nhận và tìm đọc nhất.
(Xem: 19865)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 13828)
Tôi có nhân duyên với Đạo Phật từ khá sớm, hồi còn học trung học vào đầu thập niên 40. Thế Giới ấy đối với tôi là niềm vui thíchtin tưởng càng ngày càng lớn.
(Xem: 22782)
Ðạo Phật dạy rằng tâm là nhân duyên chính khiến ta bị luân hồi. Nhưng cũng chính tâm lại là cái duyên lớn nhất giúp ta thoát vòng sanh tử.
(Xem: 11995)
Chúng ta an vị Phật là rước Phật trong lòng chúng ta đem thờ tại chùa, để khi nhìn thấy Phật tại chùa mà nhớ Phật trong lòng của chúng ta...
(Xem: 12432)
Con đường đưa đến tuệ giác thì sao? Tu thiền định sẽ đoạn diệt vô minh. Cố gắng hiểu biết ba đặc tính của vạn pháp. Không có cái ngã nào biệt lập.
(Xem: 24068)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 13741)
Rõ ràng, đối với đạo Phật, tâm là cơ sở, là đối tượng, đồng thời cũng là công cụ của việc thực nghiệm đời sống tâm linh. Tâm là gốc của sinh và tử...
(Xem: 21096)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, Tenzin Gyatso, có thể nói là một trong những tên tuổi lớn trên thế giớigần đây luôn được rất nhiều người tôn kính.
(Xem: 25692)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 19263)
Bây giờ, tâm thức tồn tại bằng sự tùy thuộc trên nguyên nhânđiều kiện (nhân duyên). Tâm thức hôm nay hiện hữu do bởi tâm thức hôm qua.
(Xem: 23257)
Tenzin Palmo đã kể lại cuộc sống ẩn cư của cô cho Vickie Mackenzie với tất cả lòng nhiệt thành cởi mở. Cô nói về những trở ngại, gian nan cô đã vượt qua, những thôi thúc thử thách mãnh liệt...
(Xem: 21410)
Đức Phật Thích Ca được tôn kính như bậc Thầy vĩ đại, một Thiện hữu, một vị Gương mẫu Toàn giác. Pháp hay giáo lý của Ngài chứa đựng những nguyên tắc căn bản, bất biến của Công bằngChân lý.
(Xem: 18343)
Nhờ Phật giáo, tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi và đem lại hơi ấm cho tim tôi, sự tu tập ấy tỏ ra khá hữu ích cho tôi trong cuộc sống thường nhật.
(Xem: 14011)
Cách tốt nhất để đem đến ý nghĩa cho cuộc đời bạn là khiến nó có lợi cho những người khác, bằng lòng bi mẫn của bạn với họ. Đó cũng là cách tốt nhất để tìm thấy bình an, hạnh phúc...
(Xem: 15477)
Phật giáo và các khoa học vật chất có giao diện to lớn với nhau trên nhiều mức độ triết lý, thăm dò bản chất về nguồn gốc của vũ trụ, và bản chất tối hậu của vật chất.
(Xem: 17895)
Từ xưa đến nay, Đạo Phật luôn khẳng định rằng “số mạng là do mỗi người tự tạo, phước đức đều do chính mình tự cầu.” Như vậy, kẻ làm việc xấu ác tự nhiên sẽ mất phước đức...
(Xem: 21985)
Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minhdịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.
(Xem: 17568)
Ý thức được cái chết là điều hệ trọng: phải hiểu rằng ta không ở lâu trên địa cầu này. Không ý thức được cái chết, ta sẽ không thể tận dụng toàn vẹn cuộc sống của ta.
(Xem: 30971)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 28084)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 14884)
Bằng cách tập trung vào sự kiện của tình trạng bị quy định chặt chẽ và sự cần thiết cho tinh thần phải trải qua một cách mạng, Krishnamurti dẫn chúng ta đến nền tảng chung, đến cái nguồn của cả cá thể lẫn xã hội.
(Xem: 17173)
Tác phẩm Phật Giáo và Khoa Học của giáo sư Phúc Lâm là một trong số ít các tác phẩm về thể tài phân tích Phật giáo dưới cái nhìn của khoa học.
(Xem: 22637)
Ngày nay đã qua, đời sống ngắn lại, Hãy nhìn cho kỹ, ta đã làm gì? Hãy cùng tinh tấn, thiền tập hết lòng, Đừng để tháng ngày trôi đi oan uổng.
(Xem: 28270)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 14032)
Mỗi giây phút trong cuộc sống đều tượng trưng cho một giá trị vô biên. Thế nhưng chúng ta lại cứ để cho thời gian trôi đi như những hạt cát vàng lọt qua kẻ hở của bàn tay
(Xem: 17069)
Thông điệp của Đức Bổntuyên thuyết từ hơn hai mươi lăm thế kỷ, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là thông điệp về sự tỉnh thức, về trí tuệ siêu tuyệt và về lòng từ bi nhân ái.
(Xem: 22323)
Không biết rửa bát thì khi cầm tách trà lên, có thể ta cũng không biết uống trà. Cầm tách trà lên ta có thể chỉ nghĩ đến những chuyện khác mà không biết là ta đang nâng tách trà trong tay.
(Xem: 14184)
Chúng ta cần biết ý nghĩa Giáo Pháp là gì. Giáo Pháp hay Pháp bảo là một từ ngữ tiếng Phạn mà có nghĩa đen là một “phương sách phòng ngừa”.
(Xem: 21497)
Phật giáo nhìn tính dục dưới khía cạnh của sự thèm khátđau đớn : đó là một mối hiểm nguy xô đẩy con người vào cảnh đọa đày của dục vọng và khổ đau.
(Xem: 20837)
Ðức Phật — Ðấng hoàn toàn giác ngộ — thuộc họ Gautama tên là Siddartha. Danh xưng Tất-đạt-đa có nghĩa là Nhất thiết nghĩa thành, Thành tựu chúng sinh...
(Xem: 28548)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 15077)
Tôn giáo được giới thiệu ở đây là một hệ thống giáo dục thiết thựcvăn hóa tinh thần được khám phá ra cho thế gian cách đây chừng 25 thế kỷ bởi một Vị Ðạo Sư hoàn toàn giác ngộtừ bi.
(Xem: 26618)
Cuốn sách mang đến cho bạn đọc những suy ngẫm nghiêm túc về hạnh phúc mà đôi khi có thể chúng ta ngộ nhận hoặc lầm lẫn với niềm sung sướng.
(Xem: 19304)
Đức Phật dạy rằng nếu muốn tự giải thoát ra khỏi thế giới Ta bà thì phải tuân theo ba lời giáo huấn tối thượng như sau : đạo đức, chú tâmtrí tuệ. Khi nào biết noi theo ba lời giáo huấn ấy thì ta sẽ đạt được sự giải thoát cá nhân...
(Xem: 31638)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 30676)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 21029)
Đạo Phật nhận rằng: Vạn vật chúng sinh đều có Phật tính. Con người đều có khả năng thành Phật. Do đấy, con người trong đạo Phậtcon người của mọi tầng lớp xã hội, mọi quốc gia...
(Xem: 26245)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 23605)
Hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thân tướng nữ nhân, tay cầm bình tịnh và cành dương liễu, còn được gọi dưới danh hiệu PHẬT BÀ QUAN ÂM NAM HẢI, là 1 hình ảnh rất gần gũi với dân tộc Việt Nam...
(Xem: 25650)
Vào khoảng đầu năm 1996, tình cờ tôi được xem một bức tranh của họa sĩ Samyot Hananundasule, trong cuộc triển lãm dưới chủ đề "Nhìn lại quá khứ" tại Viện Nghệ thuật Quốc gia Thái Lan.
(Xem: 25428)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 19745)
Cuốn sách nhỏ này trước hết dành cho độc giả trí thức chưa có hiểu biết đặc biệt gì về Phật pháp, mà muốn biết thực sự đức Phật đã dạy những gì.
(Xem: 18504)
Cuốn sách là những chỉ dẫn đơn giản, dễ hiểu về cách nhìn sự vật và cách sống theo giáo pháp của đức Phật, về cách thương yêu chính mình...
(Xem: 17807)
Thiên đườngđịa ngục là những khái niệm hầu như không xa lạ đối với bất cứ ai trong chúng ta. Tuy vậy, trong thực tế thì chúng ta luôn có những cách hiểu và cảm nhận khác nhau...
(Xem: 19076)
Mất đi quê hương vào tuổi mười sáu và trở thành một người tỵ nạn vào tuổi hai mươi bốn, tôi đã đối diện với rất nhiều khó khăn suốt dòng đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant