Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

I.

10 Tháng Ba 201100:00(Xem: 8042)
I.

NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG HAI: HÀNH TRÌNH SANG ẤN ĐỘ

I.

Ngày dời Trụ sở Hội quán của chúng tôi càng đến gần thì bà Blavatsky càng phấn khởi hơn trong việc ca tụng xứ Ấn Độ cũng như những người Ấn giáo và toàn thể người Đông phương nói chung. Bà cũng hăng hái hơn trong việc chỉ trích người Tây phương với những tập quán xã hội, óc độc tài tôn giáo và những tư tưởng hẹp hòi nói chung của họ.

Có những đêm hào hứng sôi nổi diễn ra tại “Lạt-ma Viện”. Trong những đêm đó, có xảy ra một chuyện đáng kể. Nhà nghệ sĩ Walter Paris, một trong những hội viên đắc lực nhất đã từng sống vài năm ở Bombay với chức vụ kiến trúc sư của chính phủ, đã thích thú nói chuyện với chúng tôi về xứ Ấn Độ. Nhưng ông ta không có lòng kính trọng đặc biệt đối với Ấn Độ và lòng ưu ái đối với dân tộc xứ ấy như chúng tôi, nên ông thường làm phật lòng bà Blavatsky với những lời lẽ mà tôi cho rằng theo lập trường của giới cai trị Anh Ấn.

Một đêm nọ, ông ta kể chuyện về một việc lỗi lầm ngu ngốc của người giúp việc trong khi thắng yên ngựa, và thản nhiên nói rằng ông đã quất người ấy bằng roi vọt. Ngay tức khắc, dường như bị những roi vọt ấy quất vào mặt mình, bà Blavatsky chồm hẳn dậy, đứng ngay trước mặt người kia, và trong một tràng độc thoại kéo dài độ năm phút, bà cho y một trận sửa saiquở trách nặng nề đến mức làm cho ông ta ngồi im không thốt ra được một lời nào. Bà lên án hành động của ông ta như một cử chỉ hèn mạt, và nhân dịp ấy bà ứng khẩu thốt ra một bài luận thuyết hùng hồn chỉ trích cách đối xử của giới cai trị Anh Ấn đối với các chủng tộc Đông phương.

Đó không phải là một trường hợp duy nhất cho thấy mối bất bình của bà đối với cách xử sự của người Tây phương. Bà vẫn luôn bày tỏ thái độ đó trong nhiều dịp khác nữa, và tôi đã từng thấy bà biểu lộ hào khí và cách nói năng bạo dạn y như vậy trong nhiều lần tiếp xúc với những viên chức cao cấp Anh Ấn ở Allahabad, Simla, Bombay, Madras, và ở các nơi khác.

Khi cuộc hành trình sang Ấn Độ của chúng tôi đã được quyết định, tôi bắt đầu thu xếp mọi công việc riêng vào mùa thu năm 1878. Việc trao đổi thư từ vẫn tiếp tục với các bạn đạo ở Bombay và Tích Lan (Śrỵ Lanka). Chúng tôi không công khai tuyên bố ý định xuất hành, nhưng các bạn bè thân hữu đã đến rất đông khi biết tin chúng tôi sắp ra đi. Những ghi chép của bà Blavatsky trong tập nhật ký của tôi khi tôi thường vắng mặt tại New York trong những tuần lễ cuối cùng cho thấy sự hối thúc của các chân sư mong muốn chúng tôi lên đường càng sớm càng hay.

Ngày 22 tháng 10, bà viết: “N. xuất ra và S. nhập vào (thể xác của bà) với mật lệnh của Quần tiên hội, dạy phải hoàn thành tất cả mọi việc vào đầu tháng 12.”

Câu ấy ngụ ý có sự thay đổi cá tính các nhân vật mượn xác bà Blavatsky, và các đoạn nhật ký với những lời ghi bằng tuồng chữ khác nhau cũng xác nhận việc ấy.

Một đoạn nhật ký tương tự ngày 14 tháng 11 nói rằng chúng tôi phải cố gắng tối đa để lên đường trước ngày 20 tháng 12 như kỳ hạn cuối cùng.

Ngày 22 tháng 11, những thượng lệnh khẩn cấp khác nữa cũng đến bằng một đường lối ấy, và chúng tôi được lệnh phải bắt đầu chuẩn bị đầy đủ hành lý.

Nhiều bạn đạo muốn tháp tùng chúng tôi sang Ấn Độ, và vài người cũng đã cố gắng sửa soạn chuyến đi, nhưng sau cùng chỉ có hai người là cô Bates, một cô giáo người Anh, và ông Wimbridge, một họa sư kiêm kiến trúc sư, cùng đi với chúng tôi. Kể từ đó, các thượng lệnh vẫn tiếp tục đến luôn không ngớt và hối thúc chúng tôi lên đường.

Những quan khách đến viếng thăm tới lui dồn dập, nhộn nhịp. Có những bài viết xuất hiện trên các báo nói về chuyến đi của chúng tôi và những bài trả lời của bà Blavatsky.

Ngày 13 tháng 12, tôi nhận được một bức thư viết tay của Tổng thống Hoa Kỳ[1] giới thiệu tôi cho tất cả các viên đại sứ và lãnh sự Hoa Kỳ ở hải ngoại; và một thẻ thông hành đặc biệt của Bộ Ngoại giao, giống như những thẻ thông hành cấp cho các nhà ngoại giao Mỹ, với sứ mạng tường trình cho chính phủ Mỹ về triển vọng và khả năng nới rộng những quyền lợi thương mãi của Hoa Kỳ ở châu Á.

Những văn kiện này về sau đã tỏ ratác dụng hữu ích ở Ấn Độ, khi bà Blavatsky và tôi bị nghi ngờgián điệp của Nga! Những chi tiết của diễn biến khôi hài này sẽ được tường thuật ở một chương sau.

Trong những ngày cuối cùng, tôi không nghỉ ngơi được chút nào, thường ngồi suốt đêm để viết thư, hoặc di chuyển thường xuyên đến các thành phố xa gần để thu xếp công việc, và ăn uống rất thất thường trong khi đi lại. Trong khi đó thì vẫn luôn vang dội những mật lệnh hối thúc chúng tôi phải lên đường trước ngày 17 tháng 12 là kỳ hạn chót.

Tuồng chữ của bà Blavatsky có vẻ nguệch ngoạc, và trong đoạn nhật ký đề ngày 15 tháng 12, tôi nhận thấy có hai lối viết khác nhau của tuồng chữ bà như đã nói trước đây, chứng tỏ rằng có hai vị chân sư đã mượn xác của bà trong đêm hôm đó.

Ngày 17 tháng 12 là ngày cuối cùng của chúng tôi trên đất Mỹ. Đoạn nhật ký của bà Blavatsky viết:

“Một ngày đáng ghi nhớ! Olcott trở về lúc bảy giờ tối với những vé tàu Canada và ngồi viết thư đến 11 giờ 30. Maynard mời Blavatsky dùng cơm tối tại nhà y. Bà về nhà lúc chín giờ. Đến gần mười hai giờ đêm, Olcott và Blavatsky rời khỏi nhà bước lên xe ngựa để ra bến tàu.”

(Hãy lưu ý là người viết luôn đề cập đến bà Blavatsky bằng đại từ ngôi thứ ba, như thể đây là một người khác viết về bà!)

Thế là chấm dứt giai đoạn đầu tiên của lịch sử Hội Thông thiên học, với cuộc khởi hành của hai nhà sáng lập rời khỏi Mỹ Quốc. Sau lưng chúng tôi là một dĩ vãng ba năm tranh đấu, với những chướng ngại đã vượt qua, những kế hoạch đã thực hiện được vài phần, những nỗ lực trước tác sách vở, những bạn bè bỏ cuộc nửa chừng, những kẻ thù nghịch phải đối phó, và trọng trách thiết đặt nền tảng rộng lớn cho một cơ cấu vĩ đại được xây dựng lên trải qua thời gian để qui tụ các quốc gia. Thành quả này, quả thật ban đầu chúng tôi không thể nào ngờ trước được. Bởi vì chúng tôi đã xây dựng được một công trình qui mô rực rỡtốt đẹp hơn nhiều so với dự tưởng, hay ít ra cũng phải nói là tốt đẹp hơn nhiều so với là sự tưởng tượng của riêng tôi.

Những gì thuộc về tương lai chúng tôi không thể tiên liệu trước. Ý nghĩ về sự phát triển kỳ diệu và lạ lùng của Hội Thông thiên học không hề thoáng qua ngay cả trong những ước mơ của chúng tôi.

Một bạn đạo của chúng tôi tuyên bố rằng Hội Thông thiên học đã chết một cách tự nhiên trước khi chúng tôi lên đường sang Ấn Độ. Sự thật là trong những năm đầu ở New York, Hội tương đối bất động và không có hoạt độngđáng kể, nhưng lại bắt đầu hồi phục kể từ khi Trụ sở Hội được dời sang Ấn Độ.

Chiếc tàu “Canada” rời bến vào ngày 18 và phải đợi cho nước thủy triều lên cao mới ra khơi vào trưa ngày 19 tháng 12. Sau cùng, chiếc tàu đã vượt ra giữa đại dương màu xanh biếc, thẳng hướng về vùng “đất hứa” của chúng tôi.

Lòng tôi tràn đầy một niềm hứng khởi và triển vọng tương lai, đến nỗi tôi không còn muốn đứng trên boong tàu để ngắm nhìn cảnh tượng đất Mỹ lui dần rồi tan biến khỏi tầm mắt, mà liền đi xuống phòng “cabin” để tìm vị trí hải cảng Bombay trên tấm bản đồ Ấn Độ.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14881)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17821)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18230)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 15009)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13206)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21182)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32609)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15329)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12359)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12840)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27556)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12152)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34984)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17758)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11841)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12657)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14573)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32485)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19467)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12982)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14094)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14275)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15318)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14153)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14140)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11959)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53216)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11680)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13935)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13828)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20714)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14318)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13436)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13641)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34223)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16236)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14074)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14217)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13573)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15937)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13527)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 23008)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27756)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13911)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 25004)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13958)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31354)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13874)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15571)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14989)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant