Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý Nghĩa “nương Thuyền Bát Nhã” Là Gì?

Friday, February 16, 202417:22(View: 2086)
Ý Nghĩa “nương Thuyền Bát Nhã” Là Gì?

Ý Nghĩa “ Nương Thuyền Bát Nhã” Là Gì?


Thích Nữ
 Hằng Như

 123

 



I. Ý NGHĨA BÁT NHÃ:

Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhãBát nhã là thuật ngữ xuất phát từ tiếng Pãli là “Panna”, tiếng Sanskrit là “Prajna”. Các nhà Phật giáo cổ thời Trung Hoa đã dịch âm hai từ đó là “Bát-nhã” có nghĩa là trí huệ hay trí tuệ, được hiểu là trí huệ toàn giác. Để phân biệt với trí huệ thông thường, các nhà Phật học Trung Hoa thường thiết lập thêm 2 từ “trí huệ” trước hai từ “Bát nhã” gọi là “trí huệ Bát nhã”.

Theo từ gốc, đầu ngữ của “Panna” hay “Prajna” là “Pa” hay “Pra” có nghĩa là đầy đủ. Tiếp ngữ kế là “nna” (nana) hay “jna”(jnana) có nghĩa là Trí.

Như vậy “Panna” hay “Prajna” là trí huệ đầy đủ hay trí huệ tối thắng. Do vậy nên Bát Nhã được định nghĩa là trí huệ siêu vượt, đầy đủ, tối thắng, và cũng được gọi là huệ tự phát. Tùy lúc tùy thờiBát nhãcòn có nghĩa là Phật tánh, hoặc là tiềm năng giác ngộ, hay là tuệ giác tức trí tuệ đưa đến giác ngộ. (*)

 

II. NƯƠNG THUYỀN BÁT NHÃ

 Như vậy “nương thuyền Bát Nhã” là “nương vào tuệ giác”. Nhưng nương vào tuệ giác để làm gì? Người tu học Phật được dạy rằng nương vào tuệ giác để đến bờ giác ngộ giải thoát, nhưng gần hơn hết là để quay về với Tánh giác, sâu sắc nữa là nhận ra Phật tánh nơi chính mình.

Trí tuệ có hai loại, một loại là sự thông hiểu của ý thức qua tiến trình học hỏi thu nhập từ nơi gia đình, trường học, xã hội. Cái biết hay cái nhận thức này thuộc về kiến thức thế gian là cái biết có lời, nó có thể thay đổi theo thời gian và hoàn cảnh. Và, một loại nhận thức không lời nhờ vào tu tậpmà phát huy trí tuệ của chính mình đó là cái biết của tánh giác.

Từ khi con người được sinh ra đời là đã bắt đầu sống với cái biết thế gian. Cái biết thế gian là cái biết học hỏi từ những điều do con người ở cùng một vùng, một quốc gia chế định. Thí dụ người Việt Nam, khi nói đến màu sắc, người ta phân chia và đặt ra đây là màu trắng, kia là màu vàng, nọ là màu xanh, hay kia là xe máy, xe hơi,  xe lửa, tàu ngầm, tàu bay... Người quốc gia khác thì có tên gọi khác, thí dụ như người Mỹ, màu trắng họ gọi là white, màu vàng là yellow, màu xanh là blue chẳng hạn. Ngay cả mỗi con người sống trên đời này, ai cũng có một cái tên để gọi như cô Hai, cô Ba, anh Tư, anh Năm. Thú vật cũng được phân loại  đây là con gà, kia là con vịt, con ngỗng, con chó, con mèo, con heo, con trâu, con bò... Kia là con kiến, nọ là con sâu, con bướm... Đây là cây thông, kia là cây cam, cây bưởi, cây ổi ... Mỗi sự kiện, mỗi hành động, mỗi thái độtrạng thái, đều có từ ngữ dành cho nó. Thí dụ như: Đi học, đi làm, tranh cãi, bực bội, vui, buồn, thương, ghét, hạnh phúc, khổ đau v.v... Tóm lại tất cả mọi hiện tượng trên thế gian đều được đặt tên. Nhưng thật ra khi mới xuất hiện trên thế gian này, chúng không có tên. Cái nhà không nói chúng là cái nhà. Chiếc xe không nói chúng là chiếc xe. Em bé mới lọt khỏi lòng mẹ, không tự xưng mình là bé A hay bé B, cũng không tự phân biệt cho mình là con trai hay con gái.

Ngôn ngữ, tiếng nói, chữ viết, dấu hiệu, tên gọi,... là những thứ người ta đặt ra và gán lên cho hiện tượng thế gian, tuy nó chỉ là giả danh nhưng được mọi người chấp nhận và xử dụng, lâu dần thành tập tục, tập quán, văn hóa... của một quốc gia.  Kiến thức thế gian rất cần thiết, vì nhờ có nó, mà đời sống con người trong cộng đồng xã hội giữ được trật tự, nền văn minh kỷ thuật ngày một phát triển giúp cho đời sống của con người vượt qua những khó khăn được dễ dàng hơn. Nhưng ở một cái nhìn khác, người khôn ngoan hay khù khờ sống trong cái biết thế gian này, người nào cũng mong muốn được thỏa mãn sự đòi hỏi của ngũ dục, nên tham sân cũng từ đó mà xuất hiện. Tham, sân là nguồn gốc lôi cuốn con người vào những lo âu phiền não. Khi bị phiền não khống chế thì ngay lúc đó mình không còn là mình nữa, mình đã đánh mất chính mình rồi!

Tuệ giác là tánh thấy biết sáng suốttự nhiên và chân thật. Nó biết đối tượng qua giác quan khi mắt thấy, tai nghe, thân đụng chạm. Nếu không có đối tượng nó cũng biết, biết là không có đối tượng trước giác quanĐặc biệt cái biết này chỉ ghi nhận mà không để vọng thức phân biệtso sánh hay tình cảm thương ghét, tức tham-sân-ngã xen vào...  Nhờ vậy mà tuệ giác có thể giúp chúng ta thoát khỏi sự cám dỗ của ngũ dục. Tánh biết thầm lặng “đang là” này, ai cũng có, nhưng vì tướng biết lăng xăng “phải là” của ý thức che lấp, nên nó nằm yên trong tâm thức. Muốn khơi dậy tánh biết, người ta phải tu tập thiền định. Nhờ thiền định, tâm loại bỏ những vọng tưởng, tham, sân, si là những thứ gây trở ngại cho sự phát huy của trí tuệ tâm linh.  

 

III. THIỀN LÀ GÌ?

Giáo lý nhà Phật dạy có nhiều cách tu tập giúp cho tâm hành giả được yên lặng gọi là “định”. Khi tâm hành giả không bị cảnh trần lôi cuốn thì ngay khi đó hành giả đang sống thật với chính mình.

Trong bài kinh Tứ ĐếĐức Phật dạy cho năm anh em Kiều Trần Như, ngoài việc nhận ra sự thật về bốn đế nơi chính bản thân của mỗi người như:  Sự bất toại nguyện của đời sống con người là Khổ đếNguyên nhân gây ra khổ gọi là Tập đế. Dẹp được nguyên nhân gây ra đau khổđạt được trạng thái an lạc hạnh phúc gọi là Diệt đế. Và đế quan trọng, giúp hành giả đạt được Niết-bàn, đó là Đạo đế. Trong Đạo đế có những chi ngành đề cập đến việc tu thiền định.

Đạo đế là pháp tu tập gồm tám yếu tốChánh kiếnChánh tư duyChánh ngữChánh nghiệpChánh mạngChánh tinh tấnChánh niệm và Chánh định, còn gọi là Bát chánh đạo. Đường lối tutập này tương ưng với ba môn học Giới, Định, Tuệ. Chánh kiếnChánh tư duy, thuộc về Huệ hay Tuệ, tức kiến thức hiểu biết đúng sai, thiện ác. Nhờ có học chúng ta mới hiểu những điều cao quý mà Đức Phật đã dạy còn ghi lại trong Tam tạng giáo điển. Ngày xưa, người học Phật lắng tai nghe Đức Phật thuyết pháp, cố tâm ghi nhớ, lặp đi lặp lại cho thuộc, nên gọi là Văn tuệVăn tuệ là nghe.

Ngày nay, nguồn tư liệu về Phật học nhiều hơn xưa. Các công nghệ thông tin qua internet cũng như những luận đề Phật học do nhiều nhà nghiên cứu viết và in thành sách được phát hành khắp nơi trên thế giới, giúp người muốn học Phật có thể nghe, nhìn, đọc chứ không phải chỉ học qua phương pháp lắng nghe từ một vị Thầy mà thôi! Học từ nhiều vị Thầy cao minh, cho nên kiến thức của người học có thể  tích lũy và mở mang nhiều hơn. Có điều cần lưu ý, vì hiện nay tài liệu Phật phápphổ biến tràn ngập từ nhiều người không biết đâu là thật, đâu là giả, cho nên người học Phật cần phải có trí năng sáng suốt, đừng để bị rơi vào mê hồn trận bởi tà kiến.

Yếu tố thứ hai trong Bát chánh đạo là Chánh tư duyChánh tư duy tương ưng với Tư tuệ, nghĩa là dựa trên kiến thức có được qua Chánh kiến hay Văn tuệ, người học Phật cần phân tích, tổng hợp nguồn thông tin ấy, rồi suy tư, phân giải... cho đến khi bản thân mình thực sự thông hiểu rõ ràngnhững gì mình đã nghe đã học. Đó là Tư tuệ.

Nhưng kết quả của Chánh kiếnChánh tư duy hay Văn tuệTư tuệ không giúp người ta thoát khổ được. Nó chỉ giúp cho người học mở mang kiến thức thế gian hay kiến thức Phật họcNếu khôngkhéo thì kết quả này chỉ tô bồi thêm cho bản ngã ngày một kiêu ngạo thêm! Vì thế bước tiếp theocần phải ứng dụng lời Phật dạy để trải nghiệm, chứng ngộ chân lý trên thân tâm.

Trong Tăng Chi Bộ KinhĐức Phật dạy ngoài việc học thuộc lòng kinh, đọc tụng lưu loát kinh, hay thuyết pháp cho mọi người nghe những gì mình đã học thuộc lòng, thì đó chưa phải là tu hành theo đúng pháp. Mà vị Tỷ-kheo tu đúng pháp ngoài việc nhuần nhuyễn giáo lýtụng kinhthuyết trình... còn cần phải nỗ lực chuyên chú vào nội tâm an chỉ, tức thực hành thiền định giúp nội tâm ngừng hẵn mọi tư duy suy nghĩ, từ đó ánh sáng tuệ trí mới có cơ hội phát huy. Được như thế, thì vị đó mới thực sự sống theo pháp. (**)

Các chi kế trong Bát chánh đạo là Chánh ngữChánh nghiệpChánh mạng. Ba chi này thuộc về Giới học, có công năng giữ cho hành vi của thân khẩu được thanh tịnh không tạo nghiệp xấu.

 Chánh tinh tấnChánh niệmChánh định là phần tu tâm còn gọi là tu Thiền. Vậy Thiền là gì? Thiền hay Thiền-na là tiếng phiên âm của từ gốc Pãli là “dhyãna”. Khi Phật giáo truyền tới Trung quốc, người Hoa không phát âm được chữ “dhyãna” mà đọc trại thành “Chána”. Sang đến Nhật Bản thì từ này được  người Nhật phát âm thành “zen”. Người Việt Nam đọc theo âm Hán Việt là “Thiền” hoặc “Thiền-Na”. Thiền-na được giải thích nghĩa là “tĩnh lự”. Tĩnh là yên lặng, trái ngược với dao động, còn lự là tư duysuy nghĩ. Thiền-na nghĩa là tâm dừng suy nghĩ, dừng hoạt động của tư duy.

Thiền là phương pháp tu tập rèn luyện tâm ý từ vọng động chuyển sang vắng lặng, bằng cách hướng tâm vào một đề mục duy nhất, với một nội dung duy nhấtmục đích không để niệm khác xen vàoTu Thiền tiến triển qua hai giai đoạn: Thiền Chỉ và Thiền định.

Chỉ” nghĩa là dừng lại các hoạt động của tâm ý bằng phương pháp hướng tâm, đặt tâm vào một đối tượng, loại tất cả những chướng ngại làm tâm dao động  gọi chung là vọng tưởng. Khi tâm và đối tượng thể nhập thành một, thì đạt được trạng thái yên lặng gọi là “nhất tâm”. Khi nhất tâm được phát triển vững chắc thì có Định.  Người ta nói thiền Chỉ đưa đến thiền Định là vậy!

Khi tâm ở trong trạng thái vắng lặngan tịnh, thì tuệ giác vốn có  sẵn trong mỗi chúng ta sẽ phát huy. Đức Phật đã từng dạy tâm con người vốn sáng như mặt trăng, nhưng bị mây che nên trăng bị lu mờChúng ta có thể hiểu Đức Phật ví mặt trăng như là cái tâm sáng suốt, còn mây che ám mặt trăng xem như là  cái bản ngã tham, sân, si,  mạn, nghi, tà kiến ngăn che khiến ánh sáng trí huệ không hiển lộ được. Muốn cho mặt trăng hay tuệ giác phát huy trọn vẹn tánh sáng của nó thì phải dẹp cái mớ ô nhiễmvọng tâm đi. Tuệ giác ở đây chỉ cho cái chức năng sáng suốt, chiếu sáng, soi sáng như mặt trăng.  

Người tu tập có Chánh niệm vững chắc luôn “tỉnh táosáng suốt” nhận rõ những gì đang xảy ra ngay trong thực tại, thì không bị tham sân khởi lên, hoặc nếu chúng khởi lên, lập tức nhận ra chúng ngay tức khắc, và không để chúng lôi cuốn mình vào trò chơi tạo nghiệp. Nói cách khác, mình không bị đồng hóa theo bản ngã tham sân si.

Bản ngã là gì? Thực rabản ngã chỉ là sản phẩm ảo của cái hiểu biết phàm phu không đúng về hợp thể năm uẩn của thân tâm, cho năm uẩn này chính là mình (ngã), của mình (ngã sở). Sống ở đời, hầu như người nào cũng bị ảo ngã, tham sân ảnh hưởng, khiến con người ta hôm nay thủ vai trònày, ngay mai lại đóng vai trò khác.  Đó là vì chúng ta đang sống theo cái vọng tâm, vọng nghiệp, vọng chấp... nay cười mai khóc... nên sầu bi, khổ, ưu, não chiếm ngự... biến chúng ta thành con người vô minh, không sao thoát khỏi bánh xe luân hồi sanh tử!

 

III. KẾT LUẬN

Trở lại chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì?” chúng ta hiểu rằng “Nương thuyền Bát nhã” chính là “Nương vào thuyền Tuệ giác”. Nhưng thuyền Tuệ giác sẽ đưa chúng ta đi đâu, về đâu? Người tu theo đạo Phật hiểu rằng: Nương thuyền Bát Nhã để trở về với bổn tâm, bổn tánh, vốn tự nó thanh tịnh sáng suốt. Đó là tánh biết, là năng lực biết của mình.

Năng lực biết này có công năng soi sáng thực tại, như là tấm gương phản ảnh những gì trước nó. Sự vật như thế nào nó phản ảnh lại như thế. Nó chỉ soi sáng chứ không can thiệp, không chào đón cũng không xua đuỗi, cứ để yên cho thực tại hiện rõ bản chất của chúng, tự sinh tự diệt... từ đó nhận thức đúng đắn bản chất hiện tượng đời sống là Vô thường, Khổ, Vô ngã... nên buông bỏkhông chấp trước bất cứ những thịnh suyvinh nhụcthành bạihạnh phúc hay đau khổ xảy ra trong cuộc đời.

Khi biết mà không dính với tất cả những pháp thế gian hạnh phúc hay phiền lụy, thì ngay khi đó tâm trở về trạng thái tĩnh lặng, cái biết tự tánh sẽ hiển lộ, đây là cái biết của trực giác.  Cái biết trực giácnày sẽ phát huy đến vô lượng, đưa người thực hành vượt qua bể khổ đến bờ giác ngộ giải thoát...

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

An cư  Kiết Xuân 03/02/2024

(Thiền Viện CHÂN NHƯ, Navasota, TX)

 

Tài liệu:

(*)Theo giáo trình giảng dạy lớp Thiền Căn Bản của HT. Thích Thông Triệt.

(**) Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikaya) Chương V: Năm pháp- (73) Sống Theo Pháp. Bản dịch Việt ngữ của HT. Thích Minh Châu.

 

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 147)
Từ nguyên thủy, tất cả chúng sinh đều muốn được hạnh phúc, và không muốn đau khổ.
(View: 265)
Trong khi một số vị pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ - bằng cách...
(View: 297)
Đợi cha mẹ già qua đời rồi mới báo hiếu làm đàn tràng cầu siêu thiệt to, mua đất nghĩa trang thiệt rộng, xây mồ xây mả thiệt đẹ
(View: 300)
Phật giáo đề cao giá trị của hạnh buông xả – một trong những đức hạnh căn bản giúp con người thoát khỏi khổ đau, đạt được sự an lạc và tự do nội tâm.
(View: 347)
Không chỉ riêng với Phật giáo dân gian, hầu hết (và có thể là tất cả) các tôn giáo khác, đều tin rằng có một kiếp sau, hay một đời sau.
(View: 358)
Phật tánh là chủ đề của Kinh Đại Bát Niết Bàn và được luận giảng trong Phật tánh luận.
(View: 388)
Phàm làm việc gì muốn được thành công, trước tiên đòi hỏi người ta phải siêng năng.
(View: 347)
Chữ Tánh, Bản tánh, Tự tánh được nói đến trong rất nhiều kinh, luận Đại thừa. Đó cũng chính là mục đích rốt ráo cần tu chứng.
(View: 324)
Trong khi một số vị Pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ – bằng cách viếng thăm các chùa và tu viện khác nhau trên khắp thế giới
(View: 547)
Hãy quán niệm thật sâu. Một khi có sinh, phải có khổ. Tất cả chúng ta đều phải chịu đựng theo cách đó.
(View: 374)
Khát khao là một cảm xúc tự nhiên của con người, biểu hiện qua mong muốn đạt được điều mà mình cho là quan trọng hoặc cần thiết.
(View: 375)
Từ nguyên thủy, tất cả chúng sanh đều muốn được hạnh phúc, và không muốn đau khổ.
(View: 678)
Vipassana và sathama là hai phương phápthiền nổi bật mang đến những trải nghiệm tâm hồn độc đáo.
(View: 559)
Nguyện là lý tưởng, là mục đích, là định hướng cho cuộc hành trình.
(View: 778)
Một trong những đóng góp to lớn của Hoà thượng Thích Minh Châu là sự nghiệpphiên dịch kinh điển.
(View: 546)
Trong kinh Hoa nghiêm Đức Phật có dạy: “Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai”
(View: 536)
Chúng ta có cuộc sống khác nhau trên những giai tầng xã hội, cung bậc tình cảm, cảnh giới tâm linh.
(View: 657)
Khi đức Phật thành đạo dưới cội Bồ Đề, ngài đứng trước một lựa chọn trọng đại:
(View: 528)
Ngày xưa, đa phần chùa ở Á Châu được xây dựng trên núi, nên vị Thầy đến đó dựng chùa gọi là Thầy Khai sơn, Trụ trì.
(View: 500)
Sống trong một nền văn hóa dựa trên sợ hãi, điều đó chắc chắn ảnh hưởng đến trạng thái tâm của bạn và những quyết định bạn đưa ra.
(View: 675)
Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán dùng mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời.
(View: 647)
Khi nói đến thiền Quán là nói đến Tứ Niệm Xứ. Quán Tứ Niệm Xứthiết lập Chánh niệm trên bốn lãnh vực Thân, Thọ, Tâm, Pháp.
(View: 737)
Muốn chuyển hóa cảm xúc thì chúng ta cần chuyển hóa nhận thức trước, đau khổ đơn thuần cũng chỉ là một trạng thái của tâm.
(View: 567)
Bất cứ dược phẩm nào được tìm ra trong thế giới, dù nhiều và đa dạng, không có thứ nào bằng Pháp (trích từ Milindapanha).
(View: 564)
Trong khi một số vị Pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ – bằng cách viếng thăm các chùa và tu viện khác nhau
(View: 699)
Từ xưa đến nay, chánh ngữ vẫn là yếu tố cần thiết để khẳng định “tính người” trong mỗi cá nhân,
(View: 591)
Sinh, lão, bệnh và tử: những điều này là bình thường. Sinh là bản chất bình thường của sự vật
(View: 677)
Thay đổi, biến động, dịch chuyển vốn là tính chất thường hằngcủa vạn hữu: có sinh ắt có diệt.
(View: 673)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi ngày chúng ta phải quyết định hàng trăm, hàng ngàn lần.
(View: 547)
“Thử tại tâm trung xuất hình ư ngoại” Đó là câu nói của cổ nhân, cũng có thể nói: “ Tâm sanh tướng”.
(View: 700)
Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành.
(View: 784)
Người xuất gia mang trên mình một hoài bão lớn là hướng tâm đến giải thoát tự thân và giúp người khác giải thoát.
(View: 909)
Đức Quán Thế Âm trở nên thân thiết trong đời sống của người dân Việt đến mức trong sâu thẳm trái tim của mỗi người...
(View: 948)
Nghe nói đến người tu, tưởng chừng như người ấy làm cái gì to lớn, đội đá vá trời, dời non, lấp biển;
(View: 825)
Ngũ cănngũ lực tiếng Phạn là Pancindriya và Pancabala. Indriya có nghĩa là nguồn gốc, khả năng để tất cả các thiện pháp sinh khởi.
(View: 784)
Nếu người nam hay người nữ nào, hành pháp ác bất thiện, phạm giới; thân thành tựu ác hạnh; khẩu, ý thành tựu ác hạnh;
(View: 889)
Tu theo Giáo môn hoặc Thiền môn, họ tuân theo lời dạy của Phật hoặc Tổ sư, bám chặt vào lời nói của Phật hay Tổ ghi chép
(View: 848)
Ăn chay, không ăn thịt, là một truyền thống cao đẹp hơn ngàn năm nay ở nước ta, phù hợp một cách sâu xa với tinh thần sùng cao của Phật giáo.
(View: 757)
Chuyện người tu hành bị ma quỷ nhiễu hại xưa nay không phải là hiếm. Những bậc Thánh tăng còn bị làm hại huống gì phàm tăng.
(View: 879)
Khi thức dậy, điều gì là điều đầu tiên chúng ta nghĩ đến?
(View: 859)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm.
(View: 919)
Khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng và nghe radio hoặc đọc báo, chúng ta phải đối mặt với những tin buồn: bạo lực, tội ác, chiến tranh và thiên tai.
(View: 956)
Một trong những đặc điểm của đời sống xuất giadu hành. Không thường ở một nơi cố định, Tỳ-kheo có thể tùy duyên vân du giáo hóa.
(View: 865)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da ThứcMạt Na Thức,) được xem là
(View: 1096)
Sinh già bệnh chết là bản chất của đời sống con người. Ai cũng phải trải qua tiến trình này vì có sinh ắt có diệt. Có điều việc này đến với mỗi người nhanh chậm khác nhau.
(View: 828)
Những lời chỉ dạy của đức Phật có khả năng chuyển hóa nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ bằng sự tin sâu nhân quả
(View: 848)
Có người ở chùa mấy mươi năm mà không ý thức được mình đang ở đoạn đường nào trên con đường mà mình đang đi.
(View: 853)
Quán Thế Âm Bồ Tát có rất nhiều nhân duyên với chúng sanh trong cõi Ta Bà này.
(View: 855)
Có lẽ ai cũng cảm nhận được rằng, cuộc sống này hiếm khi yên bình mà luôn đầy ắp những biến động. Với nghịch cảnh
(View: 918)
Pháp thoại dưới đây Đức Phật dùng hình ảnh gương Pháp (Pháp kính) để khi soi vào vị đệ tử Phật biết chỗ thọ sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM