Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

“Quán Pháp Trên Các Pháp” Trong Kinh Tứ Niệm Xứ

Saturday, February 15, 202518:59(View: 908)
“Quán Pháp Trên Các Pháp” Trong Kinh Tứ Niệm Xứ

“Quán Pháp Trên Các Pháp” Trong Kinh Tứ Niệm Xứ


Thích Nữ
 Hằng Như

chu tieu 6

I.DẪN NHẬP

Đức Phật đã từng xác định pháp tu Tứ Niệm Xứ là “Con đường độc nhất đưa đến: Thanh tịnh chúng sanh; Vượt khỏi sầu nãoDiệt trừ khổ ưu; Thành tựu Chánh tríChứng ngộ Niết-bàn”. Người nào muốn đạt được năm điều lợi ích nêu trên, thì người ấy phải học và thực tập những gì Đức Phậtdạy trong bài kinh này.

Kinh Tứ Niệm Xứ dạy hành giả thiết lập chánh niệm trên bốn lãnh vực: Thân, Thọ, Tâm, Pháp để biết rõ về Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Mục đíchđể làm gì? Đó là để nhận ra được bản chất thật sự của ngũ uẩn vốn “Vô thường-Khổ-Vô ngã”đồng thời cũng nhận ra “tánh sanh-diệt”của toàn bộ ngũ uẩn. Khi có tuệ giác về vô thường-khổ-vô ngã, hành giả sẽ không dại gì bám víu với những thứ bị xem là “có đó rồi mất đó” ở trên thế giannày nữa, mà hướng tâm tu tập để được giác ngộ giải thoát.

Các bài trước, người viết đã lần lượt giới thiệu các phần quán Thân, quán Thọ và quán Tâm.  Nay, xin mạn phép chia sẻ đề tài thứ tư là “Quán Pháp trên các Pháp”

                                

II. Ý NGHĨA VỀ TỪ “PHÁP”

 Pháp” có hai nghĩaPhật pháp và Vạn pháp.

-1) Phật pháp: Là những chân lý thường hằng trong vũ trụ đã được Đức Phật nhận ra và giảng dạy nhằm giúp chúng sanh giác ngộthoát khỏi luân hồi sanh tử. Chẳng hạn như các đặc tính của hiện tượng thế gian là Vô thường-Khổ-Vô ngã, Bốn sự thật cao quý (Tứ diệu đế) hay nguyên lý Duyên khởi Duyên sinh, hoặc nhận ra bản thể của vạn pháp là Tánh Không, Tánh Huyễn, Tánh Chân Như, Tánh Bình đẳngNiết Bàn.... Gọi chung là giáo lý.

Ý nghĩa thứ hai của Phật pháp là tất cả các phương pháp tu tập thí dụ như: Chú tâm cảnh giácChánh niệm tỉnh giác, Không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng, Thu thúc lục căn, Không khen mình chê người, Văn-Tư-Tu, Giới-Định-Tuệ, Thiền ChỉThiền QuánTứ niệm xứTứ chánh cầnTứ như ý túcNgũ cănNgũ lựcThất giác chi,Tứ diệu đếBát chánh đạo v.v...

Tất cả các pháp học và pháp hành do Đức Phật giảng dạy, hiện còn ghi lại trong Tam tạng kinh điển (Kinh, Luật, Luận), được tôn xưng là Pháp bảo, tức một trong ba ngôi Tam bảo(Phật, Pháp, Tăng).  

-2) Vạn pháp: Là toàn bộ các đối tượng của giác quan, là tất cả mọi hiện tượng thế gian, cái gì, cái chi... cũng gọi là pháp. Thí dụ như con người là một pháp, con vật là một pháp, sợi tóc là một pháp, cái nhà là một pháp, cái ghế là một pháp, chiếc xe là một pháp, cây xoài là một pháp, cây bưởi là một pháp, suy nghĩ, buồn, vui, thương, ghét, mỗi sự kiện, mỗi hiện tượng v.v... đều là một pháp.  Nói chung bất cứ thứ gì khi “nó là chính nó” thì được gọi là một pháp. Và thế gian thì có vô số pháp nên kinh gọi là Vạn pháp.

 

III. QUÁN “PHÁP TRÊN CÁC PHÁP”

Quán Pháp trên các Pháp” nghĩa là quán bất cứ pháp nào xuất hiện trên thân tâm của chúng ta. Nhưng trong kinh Tứ Niệm Xứ, không phải pháp nào cũng quán, Đức Phật chỉ dạy chúng sanh quán các pháp đưa đến sự giác ngộ giải thoát cho người tu tập như: Năm triền cáiNăm uẩn, Sáu nội-ngoại xứ, Thất Bồ đề phần (Thất giác chi), Tứ đế. Quán ở đây là nhận diện sự xuất hiện của một trong các pháp, quan sát pháp diễn ra trên thân tâm của hành giảtừ khi nó bắt đầu sanh khởi đến khi nó chấm dứt. Dù nó là thiện pháp hay ác pháphành giảchỉ vô tư quan sát không can thiệp, tức tuệ tri pháp đang có mặt hay không có mặt mà thôi! Pháp đầu tiên Đức Đạo Sư dạy quán trong kinh Tứ Niệm Xứ là pháp “Năm Triền Cái”.

                                     

IV. QUÁN  ĐỀ MỤC “NĂM TRIỀN CÁI”

Muốn quán đề mục “năm triền cái” chúng ta cần hiểu “triền cái” là gì thì mới quán được. “Triền” có nghĩa là trói buộc khiến mình không thoát ra khỏi sự nặng nề, trì kéo của nó. “Cái” là cái lộng hay cây dù che lắp, cản trở khiến cho tâm mình mù mờ, không sáng suốt. Nó là chướng ngại lớn khiến hành giả tu thiền không thể đắc định.  “Triền cái” gồm năm món: Tham, Sân, Hôn Trầm-Thụy Miên, Trạo cử-Hối quá và Nghi ngờ

Quán về Tham dụcĐức Phật dạy trong kinh Tứ Niệm Xứ: “Tỷ-kheo nội tâm có ái dụctuệ tri: “Nội tâm tôi có ái dục”, hay nội tâm không có ái dụctuệ tri: “Nội tâm tôi không có ái dục”. Và với ái dục chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với ái dục đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với ái dục đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởinữa, vị ấy tuệ tri như vậy.” (hết trích*) . Để thực tập theo đoạn kinh này, chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa của chữ “Dục.” Dục có hai loại là “tham dục” và “ái dục”.

Tham dục tiếng Pali là “Chanda”có nghĩa là mong muốn, ước nguyện,  động lựcthúc đẩy.  Tham dục này có khi thiện, có khi bất thiện, có khi  không thiện cũng không bất thiệntùy theo cái Tâm mình đi kèm. Thí dụ: Ham tu, ham học Phật pháp, ham làm việc thiện. Đó là tham dục, nhưng là dục tốt. Cũng vậy, trong 37 phẩm trợ đạo có phẩm “Tứ như ý túc” gồm bốn yếu tố: Dục, Cần, Tâm, Quán.  Yếu tố đầu là: “Dục như ý túc” là một loại dục cực mạnh. Nhờ có dục (ước nguyệnban đầu đó, mà về sau người tu chứng đắc được định. Dục này lại là thiện pháp. Còn tham lam muốn chiếm đoạt tài sản, tiền bạc của người khác thì đó là dục xấu là bất thiện. Cho nên dục cũng có nhiều loại, chúng ta cần phân biệt hiểu rõ, để khi gặp tình huống ngoài đời chúng ta không bị lúng túng khi xử lý. Đặc biệt, trong đoạn kinh này, Đức Đạo Sư bàn đến ái dục và xem “ái dục là một triền cái”. Vậy ái dục là gì?  

1) Ái dục: Tiếng Pali là “tanhã” (dưới chữ “n” có dấu nặng) nghĩa là “ lòng khát khao hammuốn được thỏa mãn sự đòi hỏi của năm giác quan” về điều gì đó thuộc phạm vi tài, sắc, danh, thực, thùy trong đó có thú vui nhục dục... Dính với Ái dục là dính với phiền não. Tại sao? Vì lúc nào mình cũng sống trong lo sợ mất mát đối tượng mình yêu thương luyến ái. Muốn rời bỏ tâm ái dục này thật là khó, bởi con người ta sống với tâm ái dục này từ nhiều đời nhiều kiếp, đến đời này nó đã trở thành kiết sử trói buộc thân tâm mình, cho nên mình cảm thấy luyến ái là chuyện bình thường, thậm chí nó làm mình đau khổ, mình cũng chấp nhận...

Thí dụ như có một ngày con mình không may gặp nạn, thì mình lo lắng, sợ hải vô cùng, vì mình thương yêu nó. Còn như nghe tin con người khác gặp nạn thì mình không lo lắngnhiều như lo cho con mình. Lo lắngsợ hãi là tâm trạng của phiền nãođau khổ. Hay là chồng/vợ của mình có tình ý với người khác thì mình ghen tuông đau khổ vì mình bị dính với hai chữ “luyến ái”, chứ người không quen biết thì họ làm gì cũng mặc kệ. Hoặc mình sẽ khổ sở vô cùng nếu tài sản tiền bạc của mình bị thất thoát, còn người khác bị mất mát cái gì... thì đó không phải là nỗi lo của mình. Khi mình đam mêluyến ái với cái gì rồi thì khó mà buông bỏ, cho nên ái dục hay khát ái là những yếu tố căn bản của phiền não khổ đau, là nguyên nhân đưa đến luân hồi sinh tử triền miên.

Vì thế Đức Phật cho rằng “ái dục là triền cái”. Triền cái vì nó ngăn che không cho tuệ giácmình phát huy. Nếu tuệ giác phát huy thì mình hiểu vạn vật đều vô thường, đủ duyên nó ở với mình, không đủ duyên thì nó ra đi. Vật chấttài sản, tình yêu vợ chồng, tình thương con cái cũng không khác. Nếu hết duyên mình có làm gì, bi lụy ra sao, cầu khẩn thế nào thì cũng không giữ được.

 Nhận diện ái dục: Đức Phật dạy muốn thoát khỏi sầu não do ái dục gây ra, thì mình phải nhận diện ra nó bằng cách ngồi yên lặng nhìn vào trong tâm mình, xem ngay trong giây phút này, mình có đau khổ, có luyến ái khởi lên hay không? Nghĩa là mình có đang thương nhớngười này, thương nhớ người kia hay không? Mình có ham muốn cái này, ham muốm cái kia hay không? Nếu có thì mình phải nhận ra: “Đây là tâm ham muốn, đây là tâm ái dục!”. Ái dụcđang sanh khởi. Mình biết là nó đang có mặt ngay lúc này.

Hoặc ái dục không sinh khởi, thì lúc đó mình biết rằng: “ Ái dục không có mặt. Ngay lúc này mình không bị khổ vì ái dục”.  Nếu thấy không có ái dục, thì “biết không có ái dục”. Hoặc ái dục nổi lên, rồi chấm dứt, thì cũng chỉ “tuệ tri như vậy”. Hay là ái dục đã đoạn diệt không còn khởi lên ở tương lai, thì cũng “biết như thế”. 

Đức Đạo Sư dạy chúng ta nhận diện “ái dục” biết nó có mặt, hay không có mặt, sự nhận diện biết rõ đó gọi là “tuệ giác”. Khi chúng ta nhìn “ái dục” bằng “tuệ giác”, thì ngay lúc đó tuệ giác đang hiện hữuchúng ta không bị những suy nghĩ tiêu cực đau buồn về đối tượng làm khổ mình, hoặc sung sướng phấn khởi khi niềm vui hạnh phúc khởi lên. Tất cả mọi thứ vui buồn tự nhiên rơi rụng ngay lúc đó. Và cứ thế, tuệ giác phát sanh mỗi lúc một mạnh hơn.

Đó là cách Đức Đạo Sư dạy chúng ta đoạn trừ được “ái dục”, chứ không phải xua đuổi hình ảnh hay tư tưởng về luyến ái đó ra khỏi đầu. Bởi nếu mình cố ý xen vào chống đối xua đuổi, sẽ không ích lợi gì, chỉ khiến tâm sân hận có cơ hội trổi lên.

 

2) Triền cái thứ hai là “Sân”: Giáo lý nhà Phật nhấn mạnh Tham, Sân, Si là ba pháp độc hại. Ba cảm thọ đó luôn xuất hiện đầu tiên trong mọi phản ứng của tâm.  Những gì khiến ta khoái lạc, yêu thích, cứ muốn được mãi như vậy, đó là tâm Tham. Ham thích điều gì mà không được thỏa mãn thì cảm thấy bực tức, khó chịu thì đó là tâm Sân. Người ta thường nói “giận quá mất khôn”  vì trong lúc nóng giận mình không kiểm soát được lời ăn tiếng nói và hành động tổn hại đến người và tổn hại ngay cả với chính mình. Có nhiều nguyên nhân làm mình nóng giận, nhưng tựu trung có hai loại:

a-2) Sân giận do sự không hài lòng: Đa số con người ta sống ở đời đều kỳ vọng mọi thứ theo thuận theo ý của mình. Chẳng hạn như con cái thì phải ngoan ngoãn nghe lời. Chồng/vợ phải luôn chiều chuộng mình. Bạn bè, người thân, phải đối xử tử tế với mình, công việc làm ăn phải thuận lợi thành công. Ngược lại thì sanh lòng khó chịu, bực bội, sân giận, đau khổ.

b-2) Sân giận xuất hiện do sống không chánh niệm: Khi bị người khác coi thường, lăng mạ, xúc phạm... thì phản ứng của mình ngay lúc đó đương nhiên sẽ tức giận. Nếu người có tu tập thường sống trong chánh niệm thì người đó sẽ làm chủ được cơn giận và quản chế được nó khi cơn giận vừa mới trào ra.

Sân có hai mức độ. Mức độ thứ nhứt là sân xuất hiện ở trong tâm. Đó là sự buồn giận, tức tối, âm ỉ trong tâm. Mức độ thứ hai là cơn giận dữ bộc phát ra lời nói trách móc, than phiền, chưởi bới, hoặc hành động đập phá làm tổn thương người đối diện. Mức độ sân thứ nhứt tuy không làm tổn thương người đối diện, nhưng lại tổn thương chính mình. Vì sự buồn phiềnsân hận đó cứ âm ỉ trong tâm ngày này qua ngày khác, sẽ khiến mình dễ mắc bệnh trầm cảm. Có câu nói “Hận này đến chết vẫn mang theo”. Nếu thực sự một người sắp chết mà tâm vẫn còn mang mối hận thù với ai đó, thì thật là nguy hiểm, vì người đó sau khi chếtsẽ bị tái sanh vào một trong ba đường ác.  

- Quán hay Nhận diện Sân:  Về cách quán Sân, Đức Phật dạy trong kinh Tứ Niệm Xứ như sau: “Nội tâm có sân hậntuệ tri: “Nội tâm tôi có sân hận”, hay nội tâm không có sân hậntuệ tri: “Nội tâm tôi không có sân hận”. Và với sân hận chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với sân hận đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với sân hận đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.” (hết trích) *

Chúng ta hiểu đoạn kinh này, Đức Phật dạy quán Sân là xem trong tâm có Sân hận thì biết rõ tâm có Sân hận. Khi không có Sân hận thì biết rõ tâm không có Sân hận. Khi Sân chưa sanh khởi, hay sanh khởi rồi đoạn tận, đều nhận ra sự hiện diện và không hiện diện của nó. Chúng ta chỉ làm một điều là nhìn và nhận diện nó thôi. Nhìn một cách rõ ràng, từ lúc Sân sắp sanh khởi, hoặc vừa sanh khởi, chứ không phải khi tâm Sân rồi mà nhìn không ra!

Chúng ta cần nhớ là Tâm mình chỉ làm được một thứ trong một lúc thôi. Khi nó đang là niệm Sân thì không thể có niệm Tuệ. Chính vì thế mà Đức Phật dạy lúc nào chúng ta cũng giữ niệm biết. Đối tượng như thế nào nhận biết như thế đó mà thôi!

 

3) Triền cái thứ ba là Hôn trầm-Thụy miên:  Hôn trầm-thụy miên là trạng thái tâm mê mờ, tăm tối, luôn cảm thấy người nặng nề, làm biếng, dả dượi, không muốn làm, không muốn học... chỉ muốn thả trôi mọi việc. Người bị hôn trầm trong lúc ngồi thiền cảm thấy mê mê, lâng lâng không biết gì hết, đến khi ngủ gật, mới giật mình tỉnh giấc. Để trị được hôn trầmphải có sự tỉnh giác. Tỉnh từng giây, từng phút, từng giờ, rồi từng ngày và đến cuối cùng là tòan giác.  Muốn tỉnh giác chỉ có một cách duy nhất là phải thực tập quan sát.

- Quán Hôn trầm- thụy miên: Đức Phật dạy: “Nội tâm có hôn trầm thụy miêntuệ tri: “Nội tâm tôi có hôn trầm thụy miên”, hay nội tâm không có hôn trầm thụy miêntuệ tri: “Nội tâm tôi không có hôn trầm thụy miên”. Và với hôn trầm thụy miên chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với hôn trầm thụy miên đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với hôn trầm thụy miên đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy”. (hết trích)

Kinh dạy, thấy trong tâm có hôn trầm thụy miên, biết rằng: “Mình đang hôn trầm thụy miên” tức đang uể oảibuồn ngủ. Hoặc trong tâm không có hôn trầm thụy miên thì biết rằng: ”Mình không bị hôn trầm thụy miên” mình đang tỉnh táoHoặc  hôn trầm thụy miên chưa sanh, nay sanh khởicũng biết như vậy. Hay hôn trầm-thụy miên đã sanh giờ đoạn diệtbiết như thế.Hay hôn trầm -thụy miên đã đoạn diệt, tương lai không sinh khởi, cũng biết như thế.

Tóm lại, muốn thoát khỏi hôn trầm-thụy miên hành giả phải tỉnh giác, phải chánh niệm từng chút, trên thân tâm đến khi nào nó thuần thục. Ngoài những giờ tọa thiền.  Hành giả cần thực hiện quán thân, tức giữ chánh niệm trên thân. Chánh niệm trong khi đi, trong khi đứng, trong khi ngồi.  Bước đầu thực tập chánh niệm, tức luôn có cái thấy biết. Thí dụ: Biết đôi tay mình cử động. Biết đôi chân mình đi. Nghe giọng nói hay nghe hơi thở của mình thì đó là chánh niệm. Mỗi lần chánh niệm là mỗi lần tuệ giác xuất hiện. Chỉ có chánh niệm mới làm cho sự tỉnh giác phát sinh, và nó mới có thể đối trị lại hôn trầm thụy miên

 

4) Triền cái thứ tư là Trạo hốiTrạo là trạo cử, hối là hối quáTrạo cử là sự xao động bất an trong tâm, biểu hiện ra ngoài thân và lời nói. Cho nên trạo cử có ba loại: Thân trạo cử, miệng trạo cử và ý trạo cử.

- Thế nào là thân trạo cử?  Đó là người đứng ngồi không yên. Khi đứng thì ỏng a, ỏng ẹo, nhúng nha nhúng nhảy. Mắt không nhìn thẳng mà liếc ngang liếc dọc. Khi ngồi thì gỏ tay lên bàn hay trên thành ghế. Còn chân thì nhúc nhích rung đùi không yên. Đó là thân trạo cử. Miệng trạo cử là không im lặng được. Không nói thì không chịu được. Người ta vừa mở miệng là mình nhảy vô liền, hoặc người ta nói chưa hết câu là mình chận lại giành nói. Hoặc giữa chỗ đông người, để chứng minh sự có mặt của mình nên kiếm chuyện gì đó để nói. Nhiều khi mình nói quàng nói xiêng không đúng chủ đề mà vẫn ham nói. Vì thế mới có chuyện cải nhau, mới có chuyện tranh luậnsân si khẩu chiến. Sở dĩ miệng trạo cử ưa nói năng là tại vì tâm trạo cử.  Tâm trạo cử là tâm không an trú trong pháp quán, tâm suy nghĩlung tung hết chuyện này đến chuyện khác, hết chuyện mình đến chuyện người, hết chuyện quá khứhiện tại và chuyện chưa xảy ra ở tương lai, đó là trạo cử.

Còn “hối quá” là sự hối tiếc dày vò khiến tâm luôn phiền nãoLưu ý  “hối quá” khác với “tàm quý”. Tàm quý là người phạm lỗi, biết xấu hổhối hậnthành tâm sám hối và tự hứa sẽ không tái phạm. Còn “hối quá” là hối hậnhối tiếc những việc làm có khi tốt có khi xấu. Thí dụ như thời gian qua thích cái này, thích cái kia, mà không lấy, không mua, bây giờ muốn lấy muốn mua cũng không còn cơ hội, nên cứ tiếc nuối hoài.    

- Quán Trạo hối: Trạo hối là triền cái đưa đến đủ thứ chuyện tham, sân, phiền não, nên Đức Phật dạy hễ: “... Nội tâm có trạo hốituệ tri : “Nội tâm tôi có trạo hối”; hay nội tâm không có trạo hốituệ tri: “Nội tâm tôi không có trạo hối”. Và với trạo hối chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với trạo hối đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với trạo hối đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy”. (hết trích) *

Theo lời Phật dạy thì chúng ta phải thực tập quán, tức đặt chánh niệm lên trạo hối khi nó xuất hiện. Khi trong tâm không có trạo hối, thì hành giả biết ngay lúc này tâm không có trạo hối.  Hoặc trạo hối chưa sanh bây giờ sanh khởituệ tri như vậy. Hay trạo hối đã sanh, bây giờ chấm dứt, cũng tuệ tri như thế. Hoặc trạo hối đã chấm dứt không còn sanh khởi ở tương lai nữa thì hành giả chỉ có một việc để làm, là tuệ tri, là nhìn nó mà thôi. Chỉ nhìn, biết rõ mà không phản ứng gì cả.  

 

5) Triền cái thứ năm là Nghi ngờ: Trạng thái Nghi ngờ là trạng thái tâm hoang mang, không quả quyết. Nghi ngờ pháp môn mình tu tập không đưa đến giải thoát giác ngộ. Hoặc là nghi ngờ chính bản thân mình không có khả năng tu tập pháp môn đang hành trì. Khi có bất cứ những loại nghi ngờ nào xuất hiệnhành giả cần phải tìm cách giải tỏa để tâm không còn hoang mang cản trở con đường tu tập của mình.

 - Quán Nghi ngờ: Để trừ khử sự nghi ngờ xuất hiện trong tâm, Đức Phật dạy hành giả tu tập quán triền cái Nghi như sau: “... Nội tâm có nghi, tuệ tri: “Nội tâm tôi có nghi”; hay nội tâmkhông có nghi, tuệ tri: “Nội tâm tôi không có nghi”. Và với nghi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với nghi đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với nghi đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.” (hết trích)

Cách quán Nghi ngờ cũng giống như cách quán các triền cái khác. Cái gì xuất hiện trong tâm thì tuệ tri về cái đó. Khi niệm Tuệ có mặt thì triền cái sẽ lặng mất. 

 

V. KẾT LUẬN

“Năm triền cái” bị xem là năm pháp bất thiện, vì nó luôn ràng buộc tâm thức mình, che mờ tánh giác, và lôi kéo mình vào biển khổ luân hồi. Năm triền cái này dù ở dạng vi tế phát sinh nơi tâm, hay ở dạng thô, giận dữ thông qua nét mặt, lời nói, hành động... thì cũng cần phảiđược nhận diện rõ, cần phải được xử lý theo lời Phật dạy, đó là “Quán Pháp trên các Pháp” tức tu thiền Tuệ còn gọi là Thiền Minh Sát (Vipassana).

Ngoài ra tu thiền Chỉ (Samatha/Samadhi) cũng đè nén được năm triền cái này. Khi hành giảcó định thì trong tâm xuất hiện năm thiền chi: Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc, Nhất tâm. Năm thiền chi là năm tâm sở tốt đối trị năm tâm sở xấu. Chi thiền Định (Nhất tâm) đè nén triền cái Tham dục. Chi thiền Hỷ đè nén Sân hận. Chi thiền Lạc đè nén Trạo hối. Chi thiền Tầm đè nén Hôn trầm-thụy miên. Chi thiền Tứ đè nén triền cái Nghi ngờ. Khi định lực mạnh thì triền cái không xuất hiện. Nhưng khi ra khỏi định thì triền cái có thể trở lại, và có khi còn mạnh hơn nữa!

Cho nên hành giả cần phát huy trí tuệ qua Thiền Tứ Niệm Xứ. Theo lời Phật dạy chỉ có Trí tuệ mới có thể trừ dứt được năm triền cái, vì bản chất của năm triền cái thực ra cũng phát xuất từ Tham, Sân, Si mà thôi. Trước khi tạm ngưng bài viết “Quán Pháp trên các Pháp” tại đây, người viết nguyện chúc các hành giả hữu duyên sớm thành tựu pháp tu theo lời Phật dạyNam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

               THÍCH NỮ HẰNG NHƯ         

       (CHÂN TÂM Thiền đường, Feb 7-2025)              

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 446)
Có khi nào bạn hỏi: “Tại sao khi càng lớn tuổi, người ta càng thích sống một mình và bớt đi nhiều mối quan hệ?”
(View: 417)
Sâu thẳm bên trong tất cả chúng sinh là một loại tia lửa thắp sáng và sưởi ấm cuộc sống của chúng ta.
(View: 422)
Bản kinh dưới đây là “Bahiya Sutta,” trong Tiểu Bộ Kinh (Khuddhaka Nikaya) trong Tam Tạng Pali,
(View: 660)
Tứ Như Ý Túc, là pháp hành thứ ba, đứng sau Tứ Niệm Xứ và Tứ Chánh Cần. Sau Tứ Như Ý Túc là Ngũ Căn, Ngũ Lực,
(View: 570)
Sự kiện Đức Phật nhập Niết-bàn thường được các giới Phật giáo tổ chức thành một lễ hội thiêng liêng.
(View: 527)
Chúng ta hành thiền để tìm hạnh phúc, nhưng trước hết chúng ta phải mang chút hạnh phúc đến với thiền nếu ta muốn có kết quả.
(View: 620)
Hộ niệm hay giáo hóa cho người bệnh sắp chết là pháp hành quan trọng và phổ biến trong thời đại Thế Tôn. Pháp tu này
(View: 538)
Chúng ta hành thiền để tìm hạnh phúc, nhưng trước hết chúng ta phải mang chút hạnh phúc đến với thiền nếu ta muốn có kết quả.
(View: 621)
Tứ Như Ý Túc, là pháp hành thứ ba, đứng sau Tứ Niệm Xứ và Tứ Chánh Cần.
(View: 581)
Bộ Cao Tăng truyện của nhà sử học Phật giáo cao tăng Huệ Kiểu (497-554) là bộ sử liệu quan trọng
(View: 504)
Trong Kinh Từ Bi (Metta Sutta). Đức Phật liệt kê mười lăm điều kiện thiện lành, tạo nên sự bình an bên trong, và đưa chúng ta đến lòng từ bi.
(View: 476)
Khi đa số người trong một xã hội không có niềm tin về chính mình, không biết “tôi là ai”,
(View: 792)
Trong cuộc sống chúng ta thường lẫn lộn giữa thực tế và ước mơ, thế nhưng ước mơ cũng có thể giúp chúng ta nhìn vào thực tế một cách thực tế hơn
(View: 777)
Sau thực phẩm, ngôn ngữ là nguồn nước của dòng chảy văn hóa trong đó văn là vẻ đẹp (văn vẻ), hóa là sự thay đổi.
(View: 720)
Trong cuộc sống chúng ta thường lẫn lộn giữa thực tế và ước mơ, thế nhưng ước mơ cũng có thể giúp chúng ta nhìn vào thực tế
(View: 881)
Khi nào bạn thấy tâm và cảnh vốn là không, bạn sẽ thấy bất kỳ nơi nào cũng là Niết Bản.
(View: 938)
“Tâm linh” vốn là cụm từ mà đối với nhiều người vẫn xem đó là những gì thuộc về thế giới siêu linh, huyền bí, thuộc về cõi âm.
(View: 892)
Phát xuất từ lời Phật dạy trên đây mà ngài Châu Hoằng nhắc nhở các Sa di không được nghe lén Tỷ kheo tụng giới.
(View: 766)
Ngay cả khi con trẻ không hiểu ý nghĩa, việc quy y vẫn có thể giúp chúng phát triển nghiệp duyên với Pháp.
(View: 672)
Trong thực tế đời sống, có những vấn đề lặp lại thường gắn với sự đơn diệu tẻ nhạt,
(View: 1138)
Duy thức tam thập tụng là một bộ trước tác rất trọng yếu trong pháp tướng duy thức, còn là cương lĩnhyếu chỉ của duy thức học.
(View: 1085)
Phi-bạo-lực là một giải pháp thực tế trước các sự xung đột trong thời đại của chúng ta.
(View: 1014)
Phật tử chúng ta thường đặt hoa trên bàn thờ. Chúng ta biết hoa rất đẹp, nhưng đó không phải là mục đích chúng ta đặt chúng ở đấy.
(View: 1191)
Bài này sẽ viết trong tinh thần đối chiếu Kinh Pháp Cú với Thiền Tông.
(View: 890)
Bên ngoài trời đã lạnh. Ra ngoài phải khoác thêm áo ấm; trong nhà phải vặn lò sưởi.
(View: 940)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương.
(View: 877)
Từ nguyên thủy, tất cả chúng sinh đều muốn được hạnh phúc, và không muốn đau khổ.
(View: 1236)
Trong khi một số vị pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ - bằng cách...
(View: 1556)
Đợi cha mẹ già qua đời rồi mới báo hiếu làm đàn tràng cầu siêu thiệt to, mua đất nghĩa trang thiệt rộng, xây mồ xây mả thiệt đẹ
(View: 1487)
Phật giáo đề cao giá trị của hạnh buông xả – một trong những đức hạnh căn bản giúp con người thoát khỏi khổ đau, đạt được sự an lạctự do nội tâm.
(View: 1703)
Không chỉ riêng với Phật giáo dân gian, hầu hết (và có thể là tất cả) các tôn giáo khác, đều tin rằng có một kiếp sau, hay một đời sau.
(View: 1496)
Phật tánhchủ đề của Kinh Đại Bát Niết Bàn và được luận giảng trong Phật tánh luận.
(View: 1475)
Phàm làm việc gì muốn được thành công, trước tiên đòi hỏi người ta phải siêng năng.
(View: 1099)
Chữ Tánh, Bản tánh, Tự tánh được nói đến trong rất nhiều kinh, luận Đại thừa. Đó cũng chính là mục đích rốt ráo cần tu chứng.
(View: 1478)
Trong khi một số vị Pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ – bằng cách viếng thăm các chùa và tu viện khác nhau trên khắp thế giới
(View: 1406)
Hãy quán niệm thật sâu. Một khi có sinh, phải có khổ. Tất cả chúng ta đều phải chịu đựng theo cách đó.
(View: 1720)
Khát khao là một cảm xúc tự nhiên của con người, biểu hiện qua mong muốn đạt được điều mà mình cho là quan trọng hoặc cần thiết.
(View: 1441)
Từ nguyên thủy, tất cả chúng sanh đều muốn được hạnh phúc, và không muốn đau khổ.
(View: 2106)
Vipassana và sathama là hai phương phápthiền nổi bật mang đến những trải nghiệm tâm hồn độc đáo.
(View: 1757)
Nguyện là lý tưởng, là mục đích, là định hướng cho cuộc hành trình.
(View: 2417)
Một trong những đóng góp to lớn của Hoà thượng Thích Minh Châu là sự nghiệpphiên dịch kinh điển.
(View: 1633)
Trong kinh Hoa nghiêm Đức Phật có dạy: “Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai”
(View: 1420)
Chúng ta có cuộc sống khác nhau trên những giai tầng xã hội, cung bậc tình cảm, cảnh giới tâm linh.
(View: 1992)
Khi đức Phật thành đạo dưới cội Bồ Đề, ngài đứng trước một lựa chọn trọng đại:
(View: 1684)
Ngày xưa, đa phần chùa ở Á Châu được xây dựng trên núi, nên vị Thầy đến đó dựng chùa gọi là Thầy Khai sơn, Trụ trì.
(View: 1570)
Sống trong một nền văn hóa dựa trên sợ hãi, điều đó chắc chắn ảnh hưởng đến trạng thái tâm của bạn và những quyết định bạn đưa ra.
(View: 1885)
Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán dùng mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời.
(View: 1952)
Khi nói đến thiền Quán là nói đến Tứ Niệm Xứ. Quán Tứ Niệm Xứthiết lập Chánh niệm trên bốn lãnh vực Thân, Thọ, Tâm, Pháp.
(View: 1971)
Muốn chuyển hóa cảm xúc thì chúng ta cần chuyển hóa nhận thức trước, đau khổ đơn thuần cũng chỉ là một trạng thái của tâm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM