Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trang 1

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 21273)
Trang 1

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM HOA TẠNG THẾ GIỚI 
THỨ NĂM

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Hoa-tạng thế-giới-hải này, được trang-nghiêm tịnh là do đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai, thuở xưa lúc tu hạnh Bồ-Tát trải qua thế-giới-hải vi-trần số kiếp, trong mỗi kiếp gần gũi vi-trần số Phật, nơi mỗi Phật tu-tập vi-trần số đại nguyện thanh-tịnh.

Chư Phật-tử ! Hoa-tạng thế-giới trang-nghiêm này, có tu-di-sơn vi-trần số phong-luân nhiếp-trì. Phong-luân dưới chót tên bình-đẳng-trụ có thể nhiếp-trì phong-luân trên, trang-nghiêm với vô-số ngọn lửa báu sáng rực rỡ. Phong-luân kế trên tên Xuất-sanh-chủng-chủng bửu-trang-nghiêm có thể nhiếp-trì từng trên tràng ma-ni-vương sáng rỡ.

Phong-luân kế trên, tên bửu-oai-đức có thể nhiếp-trì từng trên vô-số bửu-linh. Phong-luân kế trên tên Bình-đẳng-diêm có thể nhiếp-trì từng trên ma-ni-vương sáng như mặt trời. Phong-luân kế trên tên Chủng-chủng Phổ-trang-nghiêm có thể nhiếp-trì từng vòng hoa sáng chói. Phong-luân kế trên tên Phổ-thanh-tịnh có thể nhiếp-trì từng trên tòa sư-tử hoa báu chiếu sáng. Phong-luân kế trên tên Thinh-biến-thập phương có thể nhiếp-trì từng trên tràng vô-số châu-vương. Phong-luân kế trên tên Nhứt-thiết-bửu-quang-minh có thể nhiếp-trì từng trên cây báu vô-số ma-ni-vương. Phong-luân kế trên tên Tốc-tật-phổ-trì có thể nhiếp-trì từng trên mây tu-di tất cả hương ma-ni. Phong-luân kế trên tên Chủng-chủng-cung-điện-du-hành có thể nhiếp-trì từng trên mây hương-đài tất cả bửu-sắc. Chư Phật-tử ! Lần lượt đến tu-di-sơn vi-trần số phong-luân, trên hết tên Thù-thắng-oai-quang-tạng có thể nhiếp-trì biển hương-thủy phổ-quang ma-ni trang-nghiêm. Biển hương-thủy này có liên-hoa lớn tên Chủng-chủng-quang-minh-nhụy-hương-tràng. Hoa-tạng thế-giới-hải trụ trong tràng đó, bốn phương bằng thẳng thanh-tịnh kiên cố, kim-cang-luân-sơn bao giáp vòng, những cây nơi đất biển đều có khu vực sai khác.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này thừa oai-thần của Phật quan-sát mười-phương rồi nói kệ rằng :

Thế-Tôn thuở xưa nơi các cõi

Chỗ chư Phật ngự tu tịnh nghiệp

Nên được các thứ bửu quang-minh

Hoa-tạng trang-nghiêm thế-giới-hải.

Từ-bi rộng lớn khắp tất cả

Xả thân vô-lượng số vi-trần

Do xưa nhiều kiếp sức tu hành

Nay thế-giới này không cấu nhiễm.

Phóng đại quang-minh trụ không-gian

Phong-luân nhiếp-trì không dao động

Phật-tạng ma-ni khắp nghiêm sức

Nguyện lực Như-Lai khiến thanh-tịnh.

Khắp rải hoa ma-ni diệu tạng

Do đại nguyện-lực trụ không gian

Các thứ biển kiên cố trang-nghiêm

Mây sáng bủa giăng khắp mười phương.

Trong xuân ma-ni chúng Bồ-Tát

Khắp đến mười phương sáng rực rỡ

Lửa sáng thành vòng hoa đẹp tốt

Pháp-giới châu-lưu khắp tất cả.

Trong tất cả báu phóng quang-minh

Quang-minh đó chiếu khắp chúng-sanh

Cõi nước mười phương đều chiếu đến

Khiến chúng khỏi khổ đến bồ-đề.

Trong báu, Phật số đồng chúng-sanh

Từ chân lông Phật hiện hóa-thân

Phạm-Vương Ðế-Thích chuyển-luân-vương

Tất cả chúng-sanh và chư Phật.

Hóa hiện quang-minh khắp pháp-giới

Quang-minh diễn nói tên chư Phật

Các thứ phương-tiện hiện điều-phục

Ứng khắp lòng chúng không bỏ sót.

Những vi-trần trong hoa-tạng-giới

Trong mỗi mỗi trần thấy pháp-giới

Bửu-quang hiện Phật như mây nhóm

Chư Phật như vậy ngự tự-tại.

Nguyện-lực quảng-đại khắp pháp-giới

Trong tất cả kiếp-độ chúng-sanh

Hạnh-nguyện Phổ-Hiền trí đều thành

Tất cả trang-nghiêm do đây có.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : ''Chư Phật-tử ! Hoa-Tạng trang-nghiêm thế-giới-hải này, đại luân-vi-sơn ở trên liên-hoa-nhựt-châu-vương, chiên-đàn ma-ni làm thân, oai-đức bửu-vương làm chót, diệu hương ma-ni làm luân, diệm tạng kim cang hiệp thành, tất cả hương thủy chảy trong đó, rừng bằng châu báu, hoa tốt đua nở, cỏ thơm trải đất, minh-châu xen trang-nghiêm, khắp nơi đầy những hoa thơm, châu ma-ni làm lưới giăng trùm, có thế-giới-hải vi-trần số sự trang-nghiêm tốt-đẹp như vậy.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật, quan-sát mười-phương rồi nói kệ rằng :

Thế-giới đại-hải vô-lượng biên

Bửu-luân thanh-tịnh nhiều màu sắc

Những sự trang-nghiêm đều đẹp lạ

Ðây do thần-lực của Như-Lai.

Ma-ni bửu-luân diệu-hương-luân

Nhẫn đến chơn-châu như đèn sáng

Các thứ diệu-bửu dùng trang-nghiêm

Thanh-tịnh bửu-luân chỗ an-trụ.

Ma-ni kiên-cố dùng làm tạng

Diêm-phù-đàn-kim dùng trang-sức

Phóng quang phát sáng khắp mười phương

Trong ngoài chói suốt đều thanh-tịnh.

Kim-cang ma-ni họp lại thành

Lại rưới ma-ni các diệu-bửu

Bửu đó đẹp lạ đều khác nhau

Phóng quang thanh-tịnh khắp tráng lệ.

Hương thủy chảy xen vô-lượng sắc

Rưới những bửu-hoa và chiên-đàn

Hoa-sen đua nở khắp mọi nơi

Cỏ thơm trải đất hương ngào ngạt.

Vô-lượng cây báu khắp trang-nghiêm

Hoa-nở nhị đơm mầu sáng rỡ

Y-phục xinh đẹp ở trong đó

Mây sáng bốn phương thường viên mãn.

Vô-lượng vô-biên đại Bồ-Tát

Cầm lọng thắp hương đầy pháp-giới

Ðều phát tất cả diệu thinh-âm

Chuyển chánh pháp-luân của chư Phật.

Những cây ma-ni bằng chất báu

Mỗi chất báu đều phóng quang-minh

Tỳ-Lô-Gía-Na thanh-tịnh thân

Hiện vào trong đó đều khiến thấy.

Trong những trang-nghiêm hiện thân Phật

Sắc tướng vô-biên vô-lượng số

Qua đến mười phương khắp mọi nơi

Hóa độ chúng-sanh cũng vô-lượng.

Tất cả trang-nghiêm vang tiếng diệu

Diễn nói bổn nguyện của Như-Lai

Sát-hải thanh-tịnh khắp mười phương

Thần-lực của Phật khiến đầy khắp.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Trong đại-luân-vi-sơn nơi thế-giới-hải này, tất cả đại-địa đều do kim-cang hiệp thành, kiên cố trang-nghiêm chẳng thể hư hoại, bằng phẳng thanh-tịnh, ma-ni làm luân, các thứ báu làm tạng, những ma-ni bửu xen lẫn trong đó, rải những mạt châu báu, hoa sen trải đất, hương tạng ma-ni xen trong hoa. Những đồ trang-nghiêm đầy khắp như mây, tất cả sự trang-nghiêm trong tất cả quốc-độ của tam-thế chư Phật đều họp lại để nghiêm-sức, ma-ni diệu-bửu làm lưới hiện tất cả cảnh-giới của Như-Lai như lưới Thiên-đế giăng hàng trong đó.

Chư Phật-tử ! Ðại-địa của thế-giới-hải này có thế-giới-hải vi-trần-số sự trang-nghiêm như vậy.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa thần-lực của Phật, quan-sát mười-phương mà nói kệ rằng :

Ðại-địa bằng phẳng rất thanh-tịnh

An-trụ kiên cố không hư hoại

Khắp chốn, ma-ni dùng trang-nghiêm

Trong đó các báu cùng xen lẫn.

Kim-cang làm đất rất đáng thích

Bửu-luân bửu-võng trang-nghiêm đủ

Hoa sen trải trên đều viên mãn

Diệu y giăng trùm đều cùng khắp.

Thiên-quang anh-lạc chuỗi ngọc báu

Trải giăng đầy đất trang-nghiêm đẹp

Chiên-đàn ma-ni rải khắp nơi

Ðều phóng quang-minh đẹp thanh-tịnh.

Bửu-hoa sáng chói phóng quang-minh

Tia sáng như mây chiếu tất cả

Rải hoa đẹp đầy và các báu

Trùm khắp mặt đất để nghiêm sức.

Mây dày giăng bủa khắp mười phương

Quang-minh quảng đại vô cùng tận

Khắp đến mười phương tất cả cõi

Diễn pháp cam-lồ của Như-Lai.

Trong châu ma-ni đều khắp hiện

Ðại nguyện của Phật vô-biên kiếp

Công-hạnh thuở xưa của Như-Lai

Trong châu báu này đều hiện đủ.

Những báu ma-ni nơi đại-địa

Tất cả quốc-độ đều đến nhập

Những quốc-độ kia mỗi vi-trần

Tất cả quốc-độ nhập trong đó.

Diệu-bửu trang-nghiêm hoa tạng giới

Bồ-Tát du hành khắp mười phương

Diễn nói hoằng-thệ của đại-sĩ

Ðây là thần-lực của đạo-tràng.

Ma-ni diệu-bửu khắp trang-nghiêm

Phóng tịnh quang-minh đủ sự đẹp

Ðầy khắp pháp-giới khắp hư-không

Phật-lực tự-nhiên hiện như vậy.

Những ai tu tập nguyện Phổ-Hiền

Vào cảnh-giới Phật bực đại-trí

Biết được trong thế-giới-hải này

Như vậy tất cả sự thần biến.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Trong đại-địa của thế-giới-hải này có mười bất-khả-thuyết Phật-sát vi-trần-số hương-thủy-hải. Tất cả diệu-bửu-trang-nghiêm đáy biển. Diệu-hương ma-ni trang-nghiêm bờ biển. Tỳ-Lô-Giá-Na ma-ni bửu-vương dùng làm lưới. Trong biển đầy những nước thơm đủ màu chói suốt. Nhiều thứ hoa báu xoay giăng trên mặt nước. Bột mịn chiên-đàn lóng đọng dưới nước. Diễn ngôn âm của Phật, phóng quang-minh báu. Vô-biên Bồ-Tát cầm các thứ lọng, hiện thần-thông. Bao nhiêu sự trang-nghiêm của tất cả thế-giới đều hiện trong đó. Thềm bực bằng mười chất báu liệt hàng khắp nơi. Bao quanh bằng lan-can mười báu. Tứ-thiên-hạ vi-trần-số châu báu trang-nghiêm. Bạch liên-hoa đua nở trong nước. Bất-khả-thuyết trăm ngàn ức na-do-tha-số tràng thi-la mười báu. Hằng-hà-sa-số tràng thi-la mười báu. Hằng-hà-sa số tràng y linh lưới báu. Hằng-hà-sa số lâu-các báu đẹp vô-biên sắc-tướng. Trăm ngàn ức na-do-tha thành liên-hoa mười báu. Tứ-thiên-hạ vi-trần rừng cây báu. Bửu-diệm ma-ni dùng làm lưới. Có hằng-hà-sa-số hương chiên-đàn, ngọc ma-ni sáng chói vang ngôn âm chư Phật. Bất-khả-thuyết trăm ngàn ức na-do-tha rào tường bằng châu báu bao quanh khắp nơi để trang-nghiêm.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa thần-lực của Phật, quan-sát mười phương rồi nói kệ rằng :

Ðại-địa trong thế-giới này

Có hương thủy-hải ma-ni đẹp

Diệu-bửu thanh-tịnh trải đáy biển

Ở trên kim-cang chẳng hư hoại.

Hương-tạng ma-ni xây thành bờ

Châu-luân nhựt-diệm như mây bủa

Diệu-bửu liên-hoa làm anh-lạc

Nơi nơi trang-nghiêm rất thanh-tịnh;

Nước thơm đựng trong đủ các màu

Hoa báu xoay giăng phóng ánh sáng

Tiếng vang chấn động khắp gần xa

Do Phật oai-thần nên diễn pháp.

Thềm bực trang-nghiêm đủ chất báu

Lại dùng ma-ni để trang-sức

Lan-can bao quanh bằng châu báu

Lưới báu liên-hoa như mây bủa.

Cây báu ma-ni liệt thành hàng

Hoa nhụy đua nở sáng rực rỡ

Các thứ tiếng nhạc luôn hòa-tấu

Thần-thông của Phật khiến như vậy.

Hương-diệm chói ngời không tạm dừng

Những bạch liên-hoa đơm báu đẹp

Giăng bủa trang-nghiêm biển nước thơm

Quảng-đại viên mãn đều đầy khắp.

Tràng báu minh-châu thường sáng rực

Y đẹp rủ thòng để nghiêm sức

Lưới linh như-ý diễn pháp-âm

Khiến người nghe tiếng hướng Phật-trí.

Liên-hoa diệu-bửu làm thành quách

Những ma-ni màu trang-nghiêm đẹp

Chơn-châu như mây giăng bốn phương

Như vậy trang-nghiêm biển hương-thủy.

Rào tường bao quang đều khắp vòng

Lâu-các vọng nhau giăng trên đó

Vô-lượng tia sáng thường chói rực

Nhiều thứ trang-nghiêm biển thanh-tịnh.

Tỳ-Lô Như-Lai thuở xa xưa

Tất cả sát-hải đều nghiêm-tịnh

Như vậy rộng lớn vô-lượng-biên

Ðều là Như-Lai tự-tại-lực.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Mỗi biển hương-thủy chảy vòng bên hữu. Tất cả con sông này đều dùng kim-cang làm bờ, tịnh-quang ma-ni dùng để trang-nghiêm, thường hiện mây sáng màu báu đẹp của chư Phật và những ngôn-âm của các chúng-sanh. Những chỗ nước xoáy trong các sông ấy, hiện ra hình tướng tất cả công-hạnh của chư Phật đã tu-tập. Lưới giăng bằng ma-ni treo linh và lạc báu, những sự trang-nghiêm của các thế-giới-hải đều hiện trong lưới đó. Mây báu ma-ni trùm trên đó. Mây này khắp hiện sự thần-thông của đức Tỳ-Lô-Giá-Na, thập phương Hóa-Phật và tất cả chư Phật. Lại vang ra tiếng vi-diệu xưng dương danh hiệu của tam-thế chư Phật và Bồ-Tát.

Trong hương thủy đó thường xuất-sanh tất cả bửu-diệm, mây sáng nối luôn chẳng dứt. Nếu nói rộng ra, thời mỗi con sông đều có thế-giới-hải vi-trần-số sự trang-nghiêm.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật quan-sát mười-phương rồi nói kệ rằng :

Dòng nước thơm trong đầy cả sông

Kim-cang diệu-bửu làm bờ bực

Mạt báu làm luân trải đáy sông

Những thứ nghiêm-sức đều báu đẹp.

Thềm báu liệt hàng đẹp trang-nghiêm

Lan-can bao vòng rất tráng lệ

Chơn châu làm tạng những hoa đẹp

Những tràng chuỗi ngọc đồng rũ xuống.

Nước thơm sáng báu màu thanh-tịnh

Thường tuônma-ni dòng chảy xiết

Các hoa theo sóng đều động dao

Ðồng tấu nhạc-âm tuyên diệu-pháp.

Bột mịn chiên-đàn làm bùn đọng

Tất cả diệu-bửu đồng xoáy khoắn

Hương-tạng ngào ngạt đầy mặt nước

Phát sáng tuôn thơm khắp mọi nơi.

Trong sông xuất-sanh những diệu-bửu

Ðều phóng quang-minh màu chói rực

quang-minh ảnh-hiện thành đài tòa

Lọng báu chuỗi ngọc đều đầy đủ.

Trong ma-ni-vương hiện thân Phật

Quang-minh chiếu khắp mười phương cõi

Dùng đây làm luân đẹp mặt đất

Nước thơm chói suốt thường đầy khắp.

Ma-ni làm lưới, vàng làm lạc

Trùm khắp hương-hà diễn tiếng Phật

Tuyên đủ tất cả đạo bồ-đề

Cùng với hạnh Phổ-Hiền vi-diệu.

Bờ báu ma-ni rất thanh-tịnh

Thường vang tiếng nói bổn-nguyện Phật

Tất cả chư Phật xưa tu hành

Tiếng vang diễn nói đều nghe được.

Trong sông những chỗ nước xoáy khoắn

Bồ-Tát như mây thường hiện ra

Những quốc-độ lớn đều qua đến

Nhẫn đến pháp-giới đều đầy khắp.

Châu-vương thanh-tịnh bủa như mây

Tất cả hương-hà đều che khắp

Chân kia đồng Phật tướng bạch hào

Sáng rỡ hiển hiện bóng chư Phật.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Hai bên bờ đất của những sông hương-thủy này đều trang-nghiêm bằng những diệu-bảo. Mỗi mỗi đều có tứ thiên-hạ vi-trần-số những báu trang-nghiêm. Bạch liên-hoa khắp các nơi. Mỗi nơi đều có tứ thiên-hạ vi-trần-số rừng cây báu hàng lối thứ tự. Trong mỗi mỗi cây thường tuôn ra những mây đẹp, ma-ni bửu-vương chiếu sáng trong đó. Các thứ hoa thơm đầy trên cây. Những cây báu ấy lại vang ra tiếng vi-diệu diễn nói đại nguyện của chư Phật đã tu hành trong nhiều kiếp. Lại rưới các thứ ma-ni bửu-vương đầy khắp mặt đất : những là liên-hoa-luân ma-ni bửu-vương, hương-diệm quang-vân ma-ni bửu-vương, chủng-chủng nghiêm-sức ma-ni bửu-vương, hiện bất-tư-nghì trang-nghiêm-sắc ma-ni bửu-vương, Nhựt-quang-minh ma-ni bửu-vương, quang-võng-vân ma-ni bửu-vương, hiện Phật thần-biến ma-ni bửu-vương, hiện chúng-sanh nghiệp-báo hải ma-ni bửu-vương. Có thế-giới-hải vi-trần-số ma-ni bửu-vương như vậy. Hai bên bờ đất của những sông hương-thủy đều có đủ những sự trang-nghiêm như vậy.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát, muốn tuyên lại nghĩa này, thừa thần-lực của Phật quan-sát mười-phương rồi nói kệ rằng :

Ðất kia bằng phẳng, rất thanh-tịnh

Chơn-kim ma-ni đồng nghiêm-sức

Cây báu thẳng hàng che trong đó

Cao vọi buông nhành rợp như mây.

Nhánh lá toàn bằng báu trang-nghiêm

Hoa nở phóng quang chiếu bốn phía

Trái bằng ma-ni như mây giăng

Khiến khắp mười phương thường hiện thấy.

Ma-ni trải đất đều đầy khắp

Bột báu màu đẹp đồng trang-nghiêm

Lại dùng ma-ni làm cung điện

Ðều hiện tượng hình của chúng-sanh.

Châu ma-ni vương hiện ảnh Phật

Khắp trên mặt đất đều rải khắp

Như vậy sáng chói khắp mười phương

Trong mỗi vi-trần đều thấy Phật.

Diệu-bửu trang-nghiêm khéo chia giăng

Lưới đèn chơn-châu xen lẫn nhau

Nơi nơi đều có ma-ni luân

Mỗi châu hiện thần-thông của Phật.

Châu báu trang-nghiêm phóng sáng lớn

Trong tia sáng đó hiện Hóa-Phật

Nơi nơi chốn chốn đều cùng khắp

Ðều dùng thập-lực khai diễn rộng.

ma-ni diệu-bửu bạch-liên-hoa

Trong tất cả sông đều mọc khắp

Hoa sen nhiều loại chẳng đồng nhau

Ðều hiện quang-minh không dứt hết.

Những sự trang-nghiêm trong ba thuở

Trong trái ma-ni đều hiển-hiện

Thể-tánh vô-sanh bất-khả-thủ

Ðây là Như-Lai tự-tại-lực.

Tất cả trang-nghiêm mặt đất này

Ðều hiện Như-Lai thân quảng-đại

Kia cũng chẳng đến cũng chẳng đi

Phật xưa nguyện-lực đều khiến thấy.

Trong mỗi vi-trần mặt đất này

Tất cả Phật-tử đương hành đạo

Ðều thấy cõi mình được thọ ký

Tùy theo ý nguyện đều thanh-tịnh.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Thế-giới-hải trang-nghiêm của chư Phật Thế-Tôn đều bất-tư-nghì. Vì sao vậy ? Này Chư Phật-tử ! Tất cả cảnh-giới của Hoa-Tạng thế-giới-hải này, mỗi mỗi đều dùng thế-giới-hải vi-trần-số công-đức thanh-tịnh để trang-nghiêm.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa thần-lực của Phật, quan-sát mười-phương rồi nói kệ rằng :

Tất cả chỗ trong sát-hải này

Ðều trang-sức với nhiều thứ báu

Phát sáng trên không, bủa như mây

Quang-minh rổng suốt, thường giăng đậy.

Ma-ni tuôn mây không cùng tận

Ảnh Phật mười phương hiện trong đó

Thần-thông biến-hóa chẳng tạm-dừng

Tất cả Bồ-Tát đồng vân tập.

Những ngọc ma-ni diễn Phật-âm

Tiếng Phật mỹ diệu bất-tư-nghì

Tỳ-Lô-Giá-Na xưa tu hành

Trong bảo-châu này luôn nghe thấy.

Quang-minh thanh-tịnh đấng Biến-Tri

Trong đồ trang-nghiêm đều hiện bóng

Biến-hóa phân-thân chúng vây quanh

Tất cả sát-hải đều cùng khắp.

Tất cả hóa-Phật đều như huyễn

Tìm chỗ đến kia đều chẳng được

Bởi sức oai-thần cảnh-giới Phật

Trong tất cả cõi hiện như vậy.

Thần-thông tự-tại của Như-Lai

Ðều khắp mười phương các quốc-độ

Trong sự trang-nghiêm của cõi này

Nơi các bửu châu đều hiện rõ.

Những sự biến-hóa ở mười phương

Tất cả đều như ảnh trong gương

Chỉ do Như-Lai xưa tu hành

Thần-thông nguyện-lực cấu tạo được.

Nếu Phật-tử tu hạnh Phổ-Hiền

Vào biển thắng-trí của Bồ-Tát

Có thể nơi trong các vi-trần

Khắp hiện thân mình tịnh quốc-độ.

Bất-khả tư-nghì ức đại kiếp

Gần-gũi tất cả chư Như-Lai

Tất cả công-hạnh đã tu hành

Trong một sát-na-do-tha đều hiện được.

Chư Phật quốc-độ như hư-không

Vô-đẳng vô-sanh và vô-tướng

Vì lợi chúng-sanh mà trang-nghiêm

Vì bổn-nguyện nên trụ trong đó.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Nay tôi sẽ nói trong đây có những thế-giới nào an-trụ.

Chư Phật-tử ! Trong mười bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số hương-thủy-hải này, có mười bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thế-giới-chủng an-trụ. Mỗi thế-giới-chủng lại có mười bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thế-giới.

Chư Phật-tử ! Ở trong thế-giới-hải, các thế-giới-chủng kia đều riêng nương ở, đều riêng hình-trạng, đều riêng thể-tánh, đều riêng phương-sở, đều riêng thu nhập, đều riêng trang-nghiêm, đều riêng chừng ngằn, đều riêng bày hàng, đều riêng vô-sai-biệt, đều riêng năng-lực gia-trì.

Chư Phật-tử ! Các thế-giới chủng này, hoặc có nương đại-liên-hoa-hải mà an-trụ, hoặc có nương vô-biên-sắc-bửu-hoa-hải mà an-trụ, hoặc có nương nhứt-thiết-chơn-châu-tạng-bửu-anh-lạc-hải mà an-trụ, hoặc có nương hương-thủy-hải mà an-trụ, hoặc có nương nhứt-thiết-hoa-hải mà an-trụ, hoặc có nương ma-ni-bửu-võng-hải mà an-trụ, hoặc có nương triền-lưu-quang-hải mà an-trụ, hoặc có Bồ-Tát bửu-trang-nghiêm-quan-hải mà an-trụ, hoặc có nương chủng-chủng-chúng-sanh-thân-hải mà an-trụ, hoặc có nương nhứt-thiết-phật-âm-thinh-ma-ni-vương-hải mà an-trụ. Có thế-giới-hải vi-trần-số sự an-trụ như vậy.

Chư Phật-tử ! Tất cả thế-giới-chủng đó hình trạng đều khác nhau : hoặc hình núi Tu-Di, hoặc hình sông, hoặc hình xoay chuyển, hoặc hình nước xoáy, hoặc hình trục xe, hoặc hình lễ-đàn, hoặc hình rừng cây, hoặc hình lầu gác, hoặc hình sơn-tràng, hoặc hình vuông góc, hoặc hình hoa-sen, hoặc hình thai-tạng, hoặc hình khư-lặc-ca, hoặc hình thân chúng-sanh, hoặc hình mây, hoặc hình tướng-hảo của Phật, hoặc hình quang-minh viên-mãn, hoặc hình lưới chơn-châu, hoặc hình ngạch cửa, hoặc hình đồ trang-nghiêm, có thế-giới-hải vi-trần-số hình trạng như vậy.

Chư Phật-tử ! Những thế-giới-chủng đó hoặc dùng thập phương ma-ni-vân làm thể, hoặc dùng quang-minh làm thể, hoặc dùng lửa báu thơm làm thể, hoặc dùng tất cả báu trang-nghiêm làm thể, hoặc dùng ảnh-tượng Bồ-Tát làm thể, hoặc dùng quang-minh chư Phật làm thể, hoặc dùng sắc tướng của Phật làm thể, hoặc dùng một bửu-quang làm thể, hoặc dùng nhiều bửu-quang làm thể, hoặc dùng thinh-âm những nghiệp-hải của tất cả chúng-sanh làm thể, hoặc dùng thinh-âm thanh-tịnh cảnh-giới của tất cả chư Phật làm thể, hoặc dùng thinh-âm đại-nguyện-hải của tất cả Bồ-Tát làm thể, hoặc dùng thinh-âm phương-tiện của tất cả Phật làm thể, hoặc dùng thinh-âm đồ trang-nghiêm thành hoại của tất cả cõi làm thể, hoặc dùng thinh-âm của vô-biên Phật làm thể, hoặc dùng thinh-âm biến-hóa của chư Phật làm thể, hoặc dùng thinh-âm thiện của tất cả chúng-sanh làm thể, hoặc dùng thinh-âm thanh-tịnh biển công-đức của tất cả Phật làm thể. Có thế-giới-vi-trần-số thể-tánh như vậy.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa thần-lực của Phật quan-sát mười-phương rồi nói kệ rằng :

Sát-chủng kiên-cố diệu trang-nghiêm

Quảng-đại thanh-tịnh quang-minh tạng

An-trụ nơi bửu hải liên-hoa

Hoặc an-trụ nơi Hương-thủy hải.

Hình Tu-điều-phục, thành, cây, lễ-đàn

Tất cả sát-chủng khắp mười phương

Các loại trang-nghiêm hình chẳng đồng

Ðều riêng bủa giăng mà an-trụ.

Hoặc thể-tánh là tịnh quang-minh

Hoặc là hoa-tạng và bửu-vân

Hoặc do những ánh lửa cấu thành

An-trụ ma-ni tạng bất hoại.

Mây đèn màu lửa quang-minh thảy

Nhiều loại vô-biên màu thanh-tịnh

Hoặc dùng ngôn-âm để làm thể

Là tiếng bất-tư-nghì của Phật.

Hoặc do nguyện-lực vang ra tiếng

Thần-biến âm-thinh làm thể-tánh

Phước nghiệp rộng lớn của chúng-sanh

Công-đức âm của Phật cũng vậy.

Sát-chủng mỗi môn đều sai khác

Chẳng thể nghĩ bàn vô-cùng-tận

Mười phương như vậy đều cùng khắp

Quảng-đại trang-nghiêm hiện thần-lực.

Những cõi rộng lớn ở mười phương

Ðều hiện vào trong thế-giới này

Dầu thấy mười phương hiện trong đây

Mà thiệt không vào cũng không đến.

Ðem một sát-chủng vào tất cả

Tất cả vào một cũng không thừa

Thể tướng như cũ không đổi dời

Vô-đẳng vô-lượng đều cùng khắp.

Trong vi-trần của tất cả cõi

Ðều thấy Như-Lai hiện trong đó

Nguyện-hải ngôn-âm như sấm vang

Tất cả chúng-sanh đồng điều-phục.

Phật-thân cùng khắp tất cả cõi

Vô-số Bồ-Tát đều đầy khắp

Như-Lai tự-tại không ai bằng

Hoá-độ tất cả các hàm-thức.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Mười bất-khả-thuyết Phật-sát vi-trần-số hương-thủy-hải này ở trong Hoa-Tạng thế-giới-hải giăng bày như lưới báu của Thiên-đế.

Chư Phật-tử ! Hương-thủy-hải ở trung-ương tên Vô-Biên-Diệu-Hoa-Quang. Ðáy biển là tràng ma-ni-vương hiện tất cả hình Bồ-Tát, xuất sanh một đại liên-hoa tên Nhứt-Thiết-Hương-Ma-Ni-Trang-Nghiêm. Trên đó có thế-giới-chủng tên Phổ-Chiếu-Thập-Phương-Xí-Nhiên-Bửu-Quang-Minh, dùng tất cả đồ trang-nghiêm làm thể. Trong đây có bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thế-giới. Phương dưới tất cả, có thế-giới tên Tối-Thắng-Quang-Biến-Chiếu, dùng kim-cang-trang-nghiêm-quang-diệu-luân làm tế, nương bửu-ma-ni-hoa mà trụ. Trạng như hình ma-ni-bửu. Mây bửu-hoa-trang-nghiêm giăng trùm trên đó. Trong đây có một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh. Phật hiệu Tinh-Nhãn-Ly-Cấu-Ðăng.

Qua khỏi phật-sát vi-trần-số thế-giới về thượng-phương, có thế-giới tên Chủng-Chủng-Hương-Liên-Hoa-Diệu-Trang-Nghiêm, dùng tất cả đồ trang-nghiêm làm tế, nương bửu-liên-hoa-võng mà trụ, trạng như tòa sư-tử, mây bửu-sắc châu che trùm, hai phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Sư-Tử-Quang-Thắng-Chiếu.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-Trang-Nghiêm-Phổ-Chiếu-Quang, dủng hương-phong-luân làm tế, nương bửu-hoa anh-lạc mà trụ, hình tám góc, mây ma-ni-nhựt-luân giăng-che, ba phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Tịnh-Quang-Trí-Thắng-Tràng.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chủng-Chủng-Quang-Minh-Hoa-Trang-Nghiêm, dùng bửu-vương làm tế, nương biển kim-cang-thi-la-tràng mà trụ, hình như liên-hoa ma-ni, mây kim-cang ma-ni bửu-quanh che giăng, bốn phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, đều thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Kim-Cang-Quang-Minh-Vô-Lượng-Tinh-Tấn-Lực-Thiện-Xuất-Hiện.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Phổ-Phóng-Diệu-Hoa-Quang, dùng bửu-linh-trang-nghiêm-võng làm tế, nương biển thọ lâm trang-nghiêm-bửu-luân-võng mà trụ, hình khắp vuông vức mà có nhiều cạnh góc, mây phạm-âm ma-ni-vương che giăng, năm phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Hương-Quang-Hỉ-Lực-Hải.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Tịnh-Diệu-Quang-Minh, dùng tràng bửu-vương trang-nghiêm làm tế, nương biển kim-cang cung-điện mà trụ, hình vuông, mây ma-ni-luân-kế-trướng giăng che, sáu phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Phổ-Quang-Tự-Tại-Tràng.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chúng-Hoa-Diệm-Trang-Nghiêm, dùng hoa trang-nghiêm làm tế, nương biển bửu-sắc-diệm mà trụ, hình như lầu các, mây bửu-sắc-ý-chơn-châu-lan-thuẫn giăng che, bảy phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Hoan-Hỉ-Công-Ðức-Danh-Xưng Tự-Tại-Quang.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Xuất-Sanh-Oai-Lực-Ðịa, dùng xuất-nhứt-thiết-thinh ma-ni-vương-trang-nghiêm làm tế, nương biển bửu-sắc-liên-hoa-tòa-hư-không mà trụ, hình như lưới nhơn-đà-la, mây vô-biên-sắc-hoa-võng giăng che, tám phật-sát-vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Quảng-Ðại-Danh-Xưng-Trí-Hải-Tràng.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Xuất-Diệu-Âm-Thinh, dủng tâm-vương-ma-ni-trang-nghiêm làm tế, nương biển ma-ni-vương hằng xuất diệu âm-thinh trang-nghiêm vân mà trụ, hình như thân Phạm-Thiên, mây tòa sư-tử vô-lượng bửu-trang-nghiêm giăng che, chín phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Thanh-Tịnh-Nguyện-Quang-Minh-Tướng-Vô-Năng-Tối-Phục.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Kim-Cang-Tràng, dùng vô-biên-trang-nghiêm-chơn-châu-tạng-bửu-anh-lạc làm tế, nương biển trang-nghiêm bửu sư-tử-tòa ma-ni mà trụ, hình tròn, mười tu-di-sơn vi-trần-số mây ma-ni-hoa-hương giăng che, mười phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Pháp-Hải-Tối-Thắng-Vương.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hằng-Xuất-Hiện-Ðế-Thanh-Bửu-Quang-Minh, dùng Kim-Cang trang-nghiêm làm tế, nương biển chủng-chủng-thù-thù dị hoa mà trụ, hình bán nguyệt, mây thiên-bửu-trướng giăng che, mười một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Vô-Lượng-Công-Ðức-Pháp.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Quang-Minh-Chiếu-Diệu, dùng phổ-quang-trang-nghiêm làm tế, nương biển hoa-triền-hương-thủy mà trụ, hình như hoa-triền, nhiều thứ y-vân giăng che, mười hai phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Siêu-Thích-Phạm.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Ta-Bà, dùng kim-cang trang-nghiêm làm tế, nương liên-hoa-võng do phong-luân nhiếp trì mà trụ, hình như hư-không, dùng mây thiên-cung-điện trang-nghiêm giăng che, mười ba phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật chính là đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Tịch-Tịnh-Ly-Trần-Quang, dùng bửu-trang-nghiêm làm tế, nương biển chủng-chủng-bửu-y mà trụ, trạng như hình chấp-kim-cang, mây vô-biên-sắc-kim-cang giăng che, mười bốn phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Biến-Pháp-Giới-Thắng-Âm.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chúng-Diệu-Quang-Minh-Ðăng, dùng trướng trang-nghiêm làm tế, nương biển tịnh-hoa-võng mà trụ, hình như chữ vạn, mây ma-ni-thọ, hương-thủy-hải giăng che, mười lăm phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Bất-Khả-Tòi-Phục-Lực-Phổ-Chiếu-Tràng.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thanh-Tịnh-Quang-Biến-Chiếu, dùng vô-tận-bửu-vân ma-ni-vương làm tế, nương biển chủng-chủng-hương-diệm-liên-hoa mà trụ, hình như quy-giáp, mây ma-ni-luân-chiên-đàn giăng-che, mười sáu phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Thanh-Tịnh-Nhựt-Công-Ðức-Nhãn.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-Trang-Nghiêm-Tạng dùng chúng-sanh-hình-ma-ni-vương làm tế, nương biển quang-minh-tạng-ma-ni-vương mà trụ, hình tám góc, dùng lưới luân-vi-trần-sơn-bửu-trang-nghiêm hoa-thọ giăng che, mười bảy phật-sát vi-trần-số bao quanh, Phật hiện Vô-Ngại-Trí-Quang-Minh-Biến-Chiếu-Thập-Phương.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Ly-Trần, dùng Diệu-Tướng Trang-Nghiêm làm tế, nương biển chúng-diệu-hoa-sư-tử-tòa mà trụ, hình như chuỗi ngọc, dùng mây ma-ni-vương viên-quang giăng che, mười tám phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Vô-Lượng-Phương-Tiện-Tối-Thắng-Tràng.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thanh-Tịnh-Quang-Phổ-Chiếu, dùng xuất-vô-tận-bửu-vân ma-ni-vương làm tế, nương biển vô-lượng-sắc-hương-diệm-tu-di-sơn mà trụ, hình như bửu-hoa xoay nở, mây vô-biên-sắc-quang-minh-ma-ni-vương-đế-thanh giăng che, mười chín phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Phổ-Chiếu-Pháp-Giới-Hư-Không-Quang.

Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-Bửu-Diệm, dùng phổ-quang-minh-nhựt-nguyệt-bửu làm tế, nương biển thiên-hình-ma-ni-vương mà trụ, trạng như đồ bửu-trang-nghiêm, mây bửu-y-tràng và lưới ma-ni-đăng-tạng giăng che, hai mươi phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Phước-Ðức-Tướng-Quang-Minh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15593)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0431 - Tùy Thiên Trúc Tam Tạng Xà Na Quật Đa dịch Hán; Thích Hạnh Tuệ dịch Việt
(Xem: 15033)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0395 - Hán dịch: Pháp Hộ; Như Hòa dịch Việt
(Xem: 14870)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0394 - Hán dịch: Thất Dịch; Lệ Nhã dịch Việt
(Xem: 13294)
Hán dịch: Đời Tống, Tam tạng Đại sư Thi Hộ người nước Thiên Trúc phụng chiếu dịch. Việt dịch: Thích Nữ Đức Thuận
(Xem: 14466)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0390 - Huyền Trang dịch Hán; Thích Nữ Như Tuyết dịch Việt
(Xem: 20232)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; Thích Viên Giác dịch Việt
(Xem: 18451)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; Trí Nguyệt dịch Việt
(Xem: 30773)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0385 - Hán dịch: Diêu Tần Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Quang
(Xem: 12437)
Đại Chánh Tân Tu số 0367, Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: Như Hòa
(Xem: 15529)
Đại Chánh Tân Tu số 0366, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 13783)
Đại chánh tân tu số 0360, Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 13958)
Đại chánh tân tu số 0353, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 13554)
Đại chánh tân tu số 0349, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14494)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0430 - Hán dịch: Tăng Già Bà La, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 13746)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16745)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0309 - Hán dịch: Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Thích Tâm Khanh
(Xem: 15409)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0261 - Hán dịch: Bát Nhã, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Tâm Châu
(Xem: 31272)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0220 - Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, Khảo dịch: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
(Xem: 18853)
Đại chánh tân tu số 0202, Hán dịch: Tuệ Giác Đẳng, Việt dịch: HT Thích Trung Quán
(Xem: 15028)
Đại chánh tân tu số 0199, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14631)
Đại chánh tân tu số 0197, Hán dịch: Khương Mạnh Tường, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14604)
Đại chánh tân tu số 0191, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 13821)
Đại chánh tân tu số 0189, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 19717)
Đại chánh tân tu số 0187, Hán dịch: Địa Bà Ha La, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 14474)
Đại chánh tân tu số 0158, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 14549)
Đại chánh tân tu số 0151, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 14749)
Đại chánh tân tu số 0116, Hán dịch: Đàm Vô Lang, Việt dịch: Thích Nữ Như Tuyết
(Xem: 14799)
Đại chánh tân tu số 0104, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Thiện Trì; Thích Nguyên Chơn; Thích Nhất Hạnh
(Xem: 17966)
Đại chánh tân tu số 0102, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Lý Hồng Nhựt
(Xem: 13608)
Đại chánh tân tu số 0098, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13738)
Đại chánh tân tu số 0097, Hán dịch: Chơn Ðế, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14987)
Đại chánh tân tu số 0096, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14196)
Đại chánh tân tu số 0095, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16475)
Đại chánh tân tu số 0094, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15372)
Đại chánh tân tu số 0093, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13544)
Đại chánh tân tu số 0092, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13191)
Đại chánh tân tu số 0091, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13301)
Đại chánh tân tu số 0090, Hán dịch: Cầu Na Bạt Ðà La, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13020)
Đại chánh tân tu số 0089, Hán dịch: Trở Cừ Kinh Thanh, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14119)
Đại chánh tân tu số 0088, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14742)
Đại chánh tân tu số 0087, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 14256)
Đại chánh tân tu số 0087, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14646)
Đại chánh tân tu số 0086, Hán dịch:Trúc Đàm Vô Sấm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13035)
Đại chánh tân tu số 0085, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13821)
Đại chánh tân tu số 0084, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Thiện Trì
(Xem: 13282)
Đại chánh tân tu số 0084, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13774)
Đại chánh tân tu số 0083, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14711)
Đại chánh tân tu số 0082, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14803)
Đại chánh tân tu số 0081, Hán dịch: Thiên Tức Tai, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13326)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Tuệ Thông
(Xem: 12868)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13778)
Đại chánh tân tu số 0079, Hán dịch: Cầu Na Bạt Ðà La, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13715)
Đại chánh tân tu số 0078, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13362)
Đại chánh tân tu số 0077, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13913)
Đại chánh tân tu số 0076, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13721)
Đại chánh tân tu số 0075, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12640)
Đại chánh tân tu số 0074, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14862)
Đại chánh tân tu số 0073, Hán dịch: Cầu Na Tỳ Ðịa, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12893)
Đại chánh tân tu số 0072, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12497)
Đại chánh tân tu số 0071, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant