Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

24. Phẩm Ðâu-Suất kệ tán

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 15350)
24. Phẩm Ðâu-Suất kệ tán

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

 PHẨM ÐÂU SUẤT KỆ TÁN
THỨ HAI MƯƠI BỐN
(Hán bộ quyển hai mươi ba)

Lúc đó do thần lực của Ðức Phật, Mười Phương ngoài vạn Phật sát vi trần số thế giới, mỗi phương đều có một đại Bồ Tát cùng vạn Phật sát vi trần số Bồ Tát câu hội :

Kim Cang Tràng Bồ Tát từ Diệu Bửu thế giới của Ðức Phật Vô Tận Tràng; Kiên Cố Tràng Bồ Tát từ Diệu Lạc thế giới của Ðức Phật Phong Tràng; Dũng Mãnh Tràng Bồ Tát từ Diệu Ngân thế giới của Ðức Phật Giải Thoát Tràng; Quang Minh Tràng Bồ Tát từ Diệu Kim thế giới của Ðức Phật oai Nghi Tràng; Trí Tràng Bồ Tát từ Diệu Ma Ni thế giới của Ðức Phật Minh Tường Tràng; Bửu Tràng Bồ Tát từ Diệu Kim Cang thế giới của Ðức Phật Thường Tràng; Tinh Tấn Tràng Bồ Tát từ Diệu Ba Ðầu Ma thế giới của Ðức Phật Tối Thắng Tràng; Ly Cấu Tràng Bồ Tát từ Diệu Ưu Bát La thế giới của Ðức Phật Tự Tại Tràng; Tinh Tú Tràng Bồ Tát từ Diệu Chiên Ðàn thế giới của Ðức Phật Phạm Tràng; Pháp Tràng Bồ Tát từ Diệu Hương thế giới của Ðức Phật Quan Sát Tràng.

Chúng Bồ Tát khi đến trước Ðức Phật và đảnh lễ Phật xong, tùy theo phương của mình đến, đều hóa hiện tòa sư tử Diệu Bửu Tạng rồi ngồi kiết già trên đó.

Thân của chư Bồ Tát đều phóng trăm ngàn ức na do tha vô số quang minh thanh tịnh cùng đại nguyện rời lìa những lỗi ác mà phát khởi, hiển thị pháp tự tại thanh tịnh của tất cả Phật.

Bởi chư Bồ Tátnguyện lực có thế cứu hộ khắp tất cả chúng sanh, tất cả thế gian đều thích thấy. Ai thấy Bồ Tát đều được lợi ích được điều phục.

Chúng Bồ Tát này đều đã thành tựu vô lượng công đức. Những là đi khắp tất cả cõi Phật không chướng ngại, thấy pháp thân thanh tịnh không nương đỗ, dùng trí huệ thân hiện vô lượng thân, đến khắp Mười Phương phụng thờ Chư Phật, vào nơi vô lượng vô biên bất tư nghì pháp tự tại của Chư Phật, trụ nơi vô lượng môn Nhất thiết trí, dùng trí quang minh khéo rõ các pháp, ở trong các pháp được vô úy biện tài thuyết pháp vộ tận, dùng đại trí huệ khai môn tổng trì, huệ nhãn thanh tịnh thâm nhập pháp giới cảnh giới trí huệ không ngằn mé, rốt ráo thanh tịnh như hư không.

Tất cả Ðâu Suất Thiên cung trong thập phương thế giới đều có chư Bồ Tát đồng số lượng, đồng danh hiệu, thế giới và Chư Phật cũng đồng như nơi đây cả.

Bấy giờ đức Thế Tôn từ hai gối phóng trăm ngàn ức na do tha quang minh, chiếu khắp tất cả thế giới tận pháp giới hư không giới.

Chúng Bồ Tát ở các cõi kia đều thấy thần biến của Ðức Phật ở đây. Chúng Bồ Tát ở cõi đây đều thấy biến của tất cả Chư Phật kia.

Tất cả chúng Bồ Tát như vậy, cùng với đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai, từ thuở xưa, đồng trồng căn lành tu Bồ Tát hạnh, đều đã ngộ nhập thậm thâm giải thoát tự tại của Chư Phật, được pháp giới thân bình đẳng, vào tất cả thế giớivô trụ, thấy vô lượng Phật đều qua kính thờ, trong một niệm đi khắp pháp giới tự tại vô ngại, tâm ý thanh tịnh như bửu châu vô giá, vô lượng vô số Chư Phật thường hộ niệm và đồng ban cho thần lực, đến nơi bờ rốt ráo đệ nhứt kia luôn dùng tịnh niệm trụ vô thượng giác, niệm niệm luôn vào chỗ Nhứt thiết trí, đem nhỏ vào lớn, đem lớn vào nhỏ đều tự tại, thông đạt vô ngại đã được Phật thân, cùng Phật đồng an trụ, được Nhứt thiết trí, từ Nhứt thiết trí mà sanh ra thân, đều có thể theo vào chỗ sở hành của tất cả Như Lai mà khai xiển vô lượng pháp môn trí huệ, đến bờ Kim Cang tràng đại trí kia, được Kim Cang định dứt các điều nghi hoặc, đã được tự tại thần thông của Chư Phật, vào khắp tất cả quốc độ mười phương, giáo hóa điều phục trăm ngàn muôn ức vô số chúng sanh, dầu không tham trước nơi tất cả số lượng mà có thể tu học thành tựu cứu cánh, phương tiện an lập các pháp.

Trăm ngàn ức na do tha bất khả thuyết vô lượng tạng công đức thanh tịnh vô tận như vậy, chúng Bồ Tát này đều được thành tựu.

Kim Cang Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật, quán sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Như Lai chẳng xuất thế

Cũng chẳng nhập Niết Bàn

Dùng sức bổn nguyện lớn

Thị hiện pháp tự tại.

Pháp này khó nghĩ bàn

Tâm không duyên đến được

Trí huệ đến bời kia

Mới thấy cảnh giới Phật.

Sắc thân chẳng phải Phật.

Âm thinh cũng chẳng phải

Nhưng chẳng lìa sắc, thinh

Thấy thần lực của Phật.

Trí kém chẳng biết được.

Cảnh giới thiệt của Phật

Tu hạnh thanh tịnh lâu

Mới thấy được cảnh Phật.

Chánh giác không chỗ lại

Ði cũng chẳng từ đâu

Sắc thân diệu thanh tịnh

Do thần lực hiển hiện.

Trong vô lượng thế giới

Thị hiện thân Như Lai

Nói rộng pháp vi diệu

Trong tâm không trụ trước.

Trí huệ không ngằn mé

Rõ thấu tất cả pháp

Vào khắp các pháp giới

Thị hiện sức tự tại.

Chúng sanh và các pháp

Rõ thấu đều vô ngại

Khắp hiện các sắc tượng

Cùng khắp tất cả cõi.

Muốn cầu Nhứt thiết trí

Chóng thành Vô Thượng Giác

Phải dùng tâm tịnh diệu

Tu tập hạnh Bồ đề.

Nếu ai thấy Như Lai

Oai thần lực như vậy.

Nơi đức Tối Thắng Tôn

Nên cúng dường chớ nghi.

Kiên Cố Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quán sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Phật tối thắng vô tỷ

Rất sâu bất khả thuyết

Vượt khỏi đường ngôn ngữ

Thanh tịnh như hư không.

Quán sát đấng Ðạo Sư

Sức tự tại thần thông

Ðã lìa nơi phân biệt.

Mà khiến phân biệt thấy.

Ðức Phật vì khai diễn

Pháp vi diệu thậm thâm

Vì do nhơn duyên ấy

Hiện thân vô tỷ này.

Ðây là chỗ Chư Phật

Ðại trí huệ sở hành

Nếu ai muốn biết rõ

Phải nên gần gũi Phật.

Ý nghiệp thường thanh tịnh

Cúng dường chư Như Lai

Trọn không lòng mỏi nhàm

Hay vào nơi Phật đạo.

Ðủ vô tận công đức

Trụ chắc tâm Bồ đề.

Do đây trừ lưới nghi

Quán Phật không nhàm mỏi.

Thông đại tất cả Pháp

Mới phải chơn Phật tử

Người này rõ biết được

Sức tự tại Chư Phật.

Trí quảng đại đã nói

Làm căn bổn các pháp

Nên sanh lòng hy vọng

Chí cầu Vô Thượng Giác.

Nếu ai tôn kính Phật

Nhớ báo đáp ơn Phật

Người đó chẳng xa lìa

Chỗ an trụ của Phật.

Ðâu có người trí huệ

Nơi Phật thường thấy nghe

Chẳng tu nguyện thanh tịnh

Nơi đường Phật đã đi.

Dũng Mãnh Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Ví như mắt tỏ sáng

Ban ngày thấy hình sắc

Tâm thanh tịnh cũng vậy

Nhờ Phật lực thấy Phật.

Như dùng sức tinh tấn

Hay tột nguồn đáy biển

Trí lực cũng như vậy

Thấy được vô lượng Phật.

Ví như ruộng phì nhiêu

Gieo trồng tất tươi tốt

Tâm thanh tịnh như vậy

Xuất sanh các Phật pháp.

Như người được bửu tạng

Lìa hẳn khổ nghèo cùng

Bồ Tát được Phật pháp

Tâm ly cấu thanh tịnh.

Ví như thuốc Già đà

Tiêu được tất cả độc

Phật pháp dùng như vậy

Diệt các hoạn phiền não.

Chơn thiệt thiện tri thức

Hạng Như Lai ngợi khen

Vì do oai thần kia

Ðược nghe những Phật pháp.

Giả sử vô số kiếp

Của báu cúng dường Phật.

Chẳng biết Phật thiệt tướng

Cũng chẳng gọi cúng dường.

Vô lượng những hình sắc

Trang nghiêm nơi thân Phật.

Chẳng phải trong hình sắc

Mà thấy được Ðức Phật.

Như Lai Ðẳng Chánh Giác

Tịch nhiên hằng bất động

Có thể khắp hiện thân

Ðầy khắp mười phương cõi.

Ví như hư không giới

Bất sanh cũng bất diệt

Phật pháp cũng như vậy

Rốt ráo không sanh diệt

Quang Minh Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Nhơn gian và Thiên thượng

Tất cả các thế giới

Khắp thấy đức Như Lai

Sắc thân diệu thanh tịnh.

Ví như một tâm niệm

Hay sanh các thứ tâm

Như vậy một Phật thân

Khắp hiện tất cả Phật.

Bồ đề không hai pháp

Cũng không có các tướng

Mà ở trong hai pháp

Hiện thân tướng trang nghiêm.

pháp tánh không tịch

Sanh khởi như huyễn hóa

Sở hành luôn vô tận

Ðạo Sư hiện như vậy.

Tam thế tất cả Phật

Pháp thân đều thanh tịnh

Tùy kia chỗ đáng độ

Khắp hiện diệu sắc thân.

Như Lai chẳng nghĩ rằng

Ta hiện thân như vậy

Tự nhiênthị hiện

Chưa từng có phân biệt.

Pháp giới không sai biệt.

Cũng không chỗ tựa nương

Mà ở trong thế gian

Thị hiện vô lượng thân.

Phật thân chẳng phải hóa

Cũng chẳng phải chẳng hóa

Nơi trong pháp không hóa

Thị hiện thân biến hóa

Chánh giác chẳng lường được

Ðồng pháp giới hư không

Sâu rộng không bờ đáy

Ðường ngôn ngữ tuyệt hẳn.

Như Lai khéo thông đạt

Tất cả xứ hành đạo

Pháp giới các quốc độ

Qua đến đều vô ngại.

Trí Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Nếu người tin thọ được

Nhứt thiết trí vô ngại

Tu tập hạnh Bồ đề

Tâm đó chẳng thể lường.

Trong tất cả quốc độ

Khắp hiện vô lượng thân

Mà thân không chỗ ở

Cũng chẳng trụ nơi pháp.

Mỗi mỗi chư Như Lai

Thần lực thị hiện thân

Bất tư nghì kiếp số

Tính đếm chẳng hết được.

Tam thế các chúng sanh

Trọn biết được số lượng

Việc thị hiện của Phật

Số lượng chẳng thể được.

Có lúc hiện một hai

Nhẫn đến vô lượng thân

Hiện khắp mười phương cõi

Thiệt ra không hai thứ.

Ví như trăng tròn sáng

Hiện khắp các dòng nước

Bóng hình dầu vô lượng

Mặt trăng vẫn không hai.

Trí vô ngại như vậy

Thành tựu bực Chánh Giác.

Hiện khắp tất cả cõi

Phật thể cũng không hai.

Chẳng một cũng chẳng hai.

Cũng chẳng phải vô lượng

Tùy chỗ đáng hóa độ

Thị hiện vô lượng thân.

Phật thân chẳng quá khứ

Cũng chẳng phải vị lai.

Một niệm hiện xuất sanh

Thành đạoNiết Bàn.

Hiện hình sắc như huyễn

Không sanh cũng không khởi

Phật thân cũng như vậy

Thị hiện không có sanh.

Bửu Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Phật thân vốn vô lượng

Thiện hiện thân hữu lượng

Tùy chúng chỗ nân thấy

Ðạo Sư hiện như vậy.

Phật thân không nơi chỗ

Ðầy khắp tất cả chỗ

Như hư không vô biên

Khó nghĩ bàn như vậy.

Chẳng phải chỗ tâm duyên

Tâm chẳng khởi trong đó

Trong cảnh giới Chư Phật

Rốt ráo không sanh diệt.

Như mắt lòa xem thấy

Chẳng trong cũng chẳng ngoài

Thế gian thấy Chư Phật

Phải biết cũng như vậy.

Vì lợi ích chúng sanh.

Nên Phật hiện ra đời

Chúng sanh thấy có hiện

Thiệt thì không có hiện.

Chẳng thể dùng quốc độ

Ngày đêm mà thấy Phật

Năm tháng một sát na

Phải biết đều như vậy.

Chúng sanh nói như vậy

Ngày đó Phật thành đạo

Như Lai được Bồ đề.

Thiệt chẳng thuộc thời gian.

Như Lai lìa phân biệt

Rời thời gian, không gian

Tam thế chư Như Lai

Xuất hiện đều như vậy.

Ví như mặt trời sáng

Chẳng hiệp cùng đêm tối

Mà nói ngày đêm ấy

Phật pháp đều như vậy.

Tam thế tất cả kiếp

Chẳng cùng Như Lai hiệp

Mà nói tam thế Phật

Phật pháp đều như vậy.

Tinh tấn Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Tất cả các Ðạo Sư

Thân đồng nghĩa cũng đồng

Khắp cả mười phương cõi

Tùy nghithị hiện.

Quan sát đấng Mâu Ni.

Chỗ làm rất kỳ đặc.

Ðầy khắp cả pháp giới

Tất cả đều không thừa.

Phật thân chẳng ở trong

Cũng chẳng ở nơi ngoài

Thần lực nên hiển hiện

Ðạo Sư pháp như vậy.

Theo các loài chúng sanh.

Nghiệp đã họp đời trước

Những loại thân như vậy.

Thị hiện đều chẳng đồng.

Thân Chư Phật như vậy

Vô lượng chẳng đếm được

Chỉ trừ đấng Ðại Giác

Không ai nghĩ bàn được.

Như ngã nan tư kia

Tâm nghiệp chẳng đến được

Phật nan tư cũng vậy

Chẳng phải tâm nghiệp hiện.

Như quốc độ nan tư

Mà thấy tịnh trang nghiêm

Phật nan tư cũng vậy

Diệu tướng đều hiện đủ.

Ví như tất cả pháp

Do các duyên sanh khởi

Thấy Phật cũng như vậy

Tất nhờ ác thiện nghiệp.

Ví như châu như ý

Hay thoả mãn lòng chúng

Chư Phật pháp như vậy

Thỏa mãn tất cả nguyện.

Trong vô lượng quốc độ.

Ðạo Sư hiện ra đời

tùy theo nguyện lực

Ứng hiện khắp mười phương

Ly Cấu Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Như Lai không sở trụ

Mà trụ tất cả cõi

Tất cả cõi đều qua

Tất cả nơi đều thấy,

Phật tùy tâm chúng sanh

Hiện khắp tất cả thân

Thành đạo chuyển Pháp luân

Và cùng nhập Niết Bàn.

Chư Phật bất tư nghì

Ai tư nghì được Phật.

Ai thấy được Chánh Giác.

Ai hiện được tối thắng.

Tất cả pháp đều "Như"

Cảnh giới Phật cũng vậy.

Nhẫn đến không một pháp

Trong "Như" có sanh diệt.

Chúng sanh vọng phân biệt.

Là Phật là thế giới

Người liễu đạt pháp tánh

Không Phật không thế giới.

Như Lai khắp hiện tiền

Khiến chúng sanh tin mừng

Phật thể bất khả đắc.

Cũng lại không sở kiến.

Nếu được nơi thế gian

Trọn xa lìa chấp trước

Vô ngại lòng hoan hỷ

Nơi pháp được khai ngộ.

Thần lực tự tại hiện

Chính đây gọi là Phật

Trong tất cả thế giới

Tìm cầu trọn không có.

Nếu biết được như vậy

Tâm ý và các pháp

Thấy biết trọn tất cả

Chóng được thành Như Lai,

Trong ngôn ngữ hiển thị

Tất cả Phật tự tại

Chánh giác siêu ngôn ngữ

Giả mượn ngôn ngữ nói.

Pháp Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quán sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Thà nên luôn thọ đủ

Tất cả khổ thế gian

Trọn chẳng xa Như Lai

Chẳng rời đấng Tự Tại.

Nếu có những chúng sanh

Chưa phát tâm Bồ đề

Ðược nghe danh hiệu Phật

Quyết định thành Chánh Giác.

Nếu có bực trí huệ

Một niệm phát đạo tâm

Quyết thành đấng Vô thượng

Cẩn thận chớ sanh nghi.

Như Lai đấng Tự Tại

Vô lượng kiếp khó gặp

Nếu sanh một niệm tin

Mau chứng đạo Vô thượng.

Giả sử trong mỗi niệm

Cúng dường vô lượng Phật

Chưa biết pháp chơn thật

Chẳng gọi là cúng dường.

Nếu nghe pháp như vậy

Chư Phật từ đây sanh

Dầu bị vô lượng khổ

Chẳng bỏ hạnh Bồ đề,

Một lần nghe đại trí

Pháp sở nhập của Phật

Khắp ở trong pháp giới

Thành tam thế Ðạo Sư,

Dầu tận vị lai tế

Ði khắp các cõi Phật

Chẳng cầu diệu pháp này

Trọn chẳng thành Bồ đề.

Chúng sanh vô thủy lại

Mãi lưu chuyển sanh tử

Chẳng rõ pháp chơn thật

Nên Chư Phật ra đời.

Các pháp chẳng thể hoại

Cũng không ai hoại được

Tự tại đại quang minh

Hiện khắp nơi thế gian.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12525)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14114)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10857)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10527)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11199)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12007)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13159)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13654)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33679)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11342)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12937)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13065)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11636)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17904)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11452)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11868)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11517)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18984)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12558)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11350)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13155)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15785)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11828)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11703)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12781)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12639)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13974)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13003)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12956)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13304)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12780)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12706)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11760)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11740)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12334)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12393)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19833)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11971)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11999)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16894)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12678)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15068)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16129)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12895)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12248)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11925)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11931)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13164)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16514)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13236)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12502)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11827)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19867)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11167)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11266)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10408)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11104)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10977)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10042)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11759)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant