Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 3

12 Tháng Ba 201100:00(Xem: 13501)
Phần 3

KINH BÁCH DỤ
Thích Nữ Như Huyền
Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản 1996


21. Cầu con

Thuở xưa có một người đàn bà đã sanh được đứa con, lại muốn có thêm một đứa bèn hỏi những người đàn bà khác rằng: 

- Ai có phương pháp gì làm cho tôi sanh đứa con nữa không?

Bây giờ có bà lão trả lời:

- Ta có phương pháp giúp ngươi sanh con nữa, nhưng ngươi phải giết con lấy máu tế thiên thần, rồi ngươi mới được như ý.

Người đàn bà kia rất tin lời bà lão và định sẽ làm theo lời bà. May có người lối xóm hay được, cản ngăn và quở trách rằng:

- Chị sao dại dột thế? Hy vọng sanh thêm một đứa nữa, mà lại đem đứa con hiện có giết đi; thế là đứa kia chưa sanh mà đứa nầy đã chết, rốt cuộc không có đứa nào cả.

Hành động ấy đáng làm hay không, chị cần nên xét lại.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Có đa số người mê tín, dị đoan, tin theo tả thuyết của ngoại đạo một cách mù quáng. Họ chủ trương rằng: Muốn tương lai được hạnh phúc, thì phải tu theo lối khổ hạnh như là: Nhẩy vào hầm lửa, nằm trên gai, đứng một chân v.v... Họ tu theo các phương pháp sai lạc như thế, chỉ luống nhọc vô công, khổ thân tự hại, chẳng những không mong gì được phước báo sanh thiên, mà lại rất tương phản với nguyên lý Phật Giáo.

22. Bán trầm hương 

Thuở xưa có người lặn lội ra biển tìm trầm hương, trải qua nhiều năm tháng mới được một xe đem về bầy ra chợ để bán. Vì giá cao nên bán không được, chàng rất băn khoản trong tâm khổ sở vô cùng.

Bây giờ thấy nhiều người gánh than ra chợ bán, vừa gánh ra là có người mua. Chàng tự nghỉ: "Ta đem trầm hương đốt thành than, đem bán chắc đắt lắm". Thế rồi chàng đốt hết trầm hương thành than gánh ra chợ bán, quả nhiên bán chạy vô cùng. Nhưng giá tiền một xe trầm hương không giá tiền của nửa xe than củi.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người tu hành mong cầu Phật quả không nên sợ khó mà thối tâm, hay cầu kỳ, lập dị, hoặc trở lại cầu quả tiểu thừa. Kết quả tự mất lợi lớn, cũng như người đốt trầm hương ra than để bán cho mau. Hành vi như vậy, thật đáng thương xót vô cùng.

23. Trộm mền

Thuở xưa có một kẻ trộm lấy của người nhà giàu một mớ hàng gấm đáng giá, rồi ra ngoài nhà vơ vét một cái mền rách và một ít quần áo củ. Sau khi trộm xong, y mới đem hàng gấm bao cái mền rách và mớ y phục củ gói thành một gói mang đi cung khắp. Sau mọi ngượi biết được đều che cười.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người đã phát tâm chánh tín tu học Phật pháp, không nên trở lại tham lam danh lợithế gian, phá giới luật thanh tịnh. Nên làm việc điên đảo như vậy, thì không khỏi tổn thương đức hạnh của mình và làm trò cười cho kẻ bàng quan.

24. Gieo mè

Thuở xưa có người ăn mè sống thấy không ngon bằng mè rang chín. Người kia tự nghĩ: "Mè rang chín ăn ngon như thế, ta nên đem gieo hột mè đã rang, sau có hột chắc chắn sẽ ngon lắm". Y bèn rang mè rồi đem gieo, kết quả không mọc cây nào cả.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Hột giống đã rang, thi không làm sao sinh ra cây, kết trái được. Cũng như nhiều kiếp hành đạo Bồ tát khổ hạnh cần tu, mới mong trưởng thành chủng tử Phật quả, mà muốn để tu mau chứng, lại tu theo hạnh tiểu thừa, chung kết không thể thành Phật quả. Phật thường quở hàng tiểu thừa là thứ "giống rang mần hư" chính là ý nghĩa đấy vậy.

25. Nước và lửa

Thuở xưa có người đang ở trong nhà làm việc, cần dùng cả nước lạnh và lửa, dùng cái chén sành đựng, lửa để trong phòng, lại dùng cái lọ thiếc dùng nước để trên chén lửa. Người kia tự nghĩ: "Ta đã dự bị lửa và nước xong rồi"; vài giờ sau người kia dùng đến lửa, thì lửa đã tắt; dùng đến nước thì nước đã nóng. Cả hai đều không dùng được.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Có một hạng người đã xuất gia cầu học Phật pháp, nhưng lại quyến luyến gia đình, say mê thú dục lạc, niệm niêm không rồi; do đó không thể thoát ly biển ái, mà lại vụt tắc lửa công đức của mình, mất nước trì giới nữa. Chung kết công đức tu hànhsự nghiệpthế gian, cả hai đều mất.

26. Bắt chước vua

Ngày xưa có một người muốn tâm mình cũng sung sướng vui vẻ như vua, bèn hỏi người quen rằng:

- Ta làm cách nào được hạnh phúc như vua?

Người kia bày:

- Nếu anh muốn hoan lạc như ngài vậy, thì nên bắt chước điều bộ của ngài.

Chành cho điếu ấy là chí lý, bèn đi đến trước mặt nhà vua xem từng củ động, chăm chú bắt chước bộ điệu của vua. Bây giờ vua nháy mắt không ngớt, chàng cũng nhái giọng như in. Vua thấy thế rất lấy làm quái lạ, hỏi rằng:

- Mắt ngươi có lông cặm, hay bị bụi rớt vào?

Chàng trả lời:

- Không, mắt tôi không sao cả, chỉ vì tôi muốn hạnh phúc như ngài, nên cố bắt chước điệu bộ của ngài đây.

Vua nghe xong, nổi giận lôi đình:

- Ngươi thật là người hỗn sược!

Rồi sai quân lính đem ra đánh một trận nên thân, đoạn đuổi ra khỏi nước.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Có một ít người được nghe Phật pháp muốn gần gũi học tu, nhưng không hiểu nguyên lý căn bản của Phật pháp. Ðức Như Lai là bậc toàn trí, toàn năng vì muốn cứu độ chúng sanh khỏi khổ, nên tìm đủ mọi phương tiện dắt dìu. Có lúc nói lý thuyết cạn cột để độ những hạng người trình độ thấp kém, hoặc cũng mạng thân người cũng làm mọi việc, hoặc đem thân đến nợ trước như oan báo: "bị gươm vàng đâm và ăn lúa ngựa".

Bọn họ lại chấp chặt, hoặc bắt chước theo, hoặc chê cười hủy báng. Chung kết ở trong Phật pháp hằng mất sự lợi íchchứng ngộ, trở lại bị đọa lạc vào ba đường dữ chịu đủ mọi khổ hình.

27. Trị vết thương

Thuở xưa có một ông già bị vua đánh đập tàn nhẩn, bị thương sâu nặng vô cùng. Ông bèn dùng phân ngựa xoa vào đấy, vài hôm vết thương lành. Khi ấy có một người ngu thấy thế, lòng rất vui mừng, bèn hỏi:

- May quá! Ta vừa biết được một phương thuốc trị vết thương rất hay!

Y lập tức về nhà nói với con rằng: 

- Ta có thuốc hay lắm, con bằng lòng để cha đánh sau lưng cho bị thương rồi đem thoa thử, chắc chắn hiệu nghiệm vô cùng.

Người con vâng lời cha dạy.

Y đánh sau lưng co cho bị thương rồi dùng phân ngựa thoa vào. Hành động như vậy mà tự xưng cho mình là rất thông minh, thật đánh làm trò cười cho hàng thức giả.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Như người chấp thuộc thành bịnh, chúng ta tu học Phật pháp không chịu dùng phương pháp đối trị quen thói lầm mê, trở lại để cho phiền não, sân, si tự do phát khởi.

Như nghe nói "Bất tịnh quán" có thể bỏ thân phàm, thoát ly sanh tử, bèn có ý lăng loàn, rồi quán "Bất tịnh". Chung kết chẳng những "Quán Bất Tịnh" không thành mà trở lại bị sắc dục lầm hoặc, kết thêm nghiệp báo trôi lăn trong vòng sanh tử mãi không thôi!

Không khéo dùng thuốc, thì thuốc trở lại thành bịnh; không khéo tu pháp lành, thì càng tăng thêm nghiệp luỵ. Ðó là điều quan trọng, chúng ta cần xem đây để tự răng mình.

28. Xẻo mũi

Thuở xưa có một người sánh duyên với nàng con gái nhan sắc xinh đẹp, nhưng chỉ có cái mũi hơi khó coi.

Sau đó người kia gặp cô gái khác, chẳng những dung mạo đẹp đẽ lạ lùng, mà cái mũi rất ngay thẳng, khả ái. Người kia tự nghĩ: "Ước gì ta có cái mũi đẹp của cô ấy để thay vào cái mũi của vợ ta, có phải vợ ta sẽ hoàn toàn xinh đẹp không?".

Thế rồi y cắt mũi cô gái đẹp, cầm chạy về nhà khoe với vợ rằng:

- Em ơi! Nay anh sung sướng được ban cho em cái mũi đẹp!

Y bèn cắt mũi vợ quăng đi, rồi chắp cái mũi kia lại. Rốt cuộc, không ráp được mà vợ y lại bị mất mũi càng thêm xấu xí vô cùng. Y làm hại cả hai hàng con gái đẹp.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người đời nghe biết các bậc Sa môn, Bà la môn kỳ cựuđại oai đức, được mọi người cùng kính cúng dường, bèn nghĩ: Ta cùng các vị kia có khác gì nhau; rồi tự giả xưng vong nói mình có đức. Làm thế đã bất lợi, lại còn tổn thương phẩm hạnh của mình, cùng người xẻo mũi vợ kia không khác.

29. Ðốt áo

Thuở xưa có một người nghèo, làm thuê để dành tiền may được một cái áo ngắn bằng vải to. Khi y mặc ra đường, có người khác thấy hỏi rằng:

- Hình dung mặt mũi của anh xinh đẹp như vậy, chắc là con nhàu giàu sang, tại sao lại mặc áo vải? Tôi nay có biện pháp giúp anh có quần áo tốt, nhưng nha phải tin tôi, tôi không bao giờ đòi anh cả.

Người nghèo nghe xong rất vui mừng:

- Tôi nhứt định nghe theo lời anh.

Người kia bèn đốt lửa bên đường rồi bảo người nghèo:

- Anh hãy đem cái áo vải xấu bỏ vào lửa đốt đi, sau khi áo vải cháy rồi, anh nên đứng đợi một chút, tức khắc có quần áo đẹp cho anh. 

Người nghèo y lời đem áo xấu bỏ vào lửa đốt. Ðốt xong, đi qua đi lại đợi chờ mà vẫn không thấy áo quần đẹp hiện ra.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Y cứ lời Phật nói rằng: Thân người khó được, chúng ta đã được thân người, phải nên tấn tu đạo đức, vun bồi cội phúc về sau, y theo chánh pháp đúng như lý tu hành. Nhưng ngoại đạo vọng lập tà thuyết để dối người; Thân nầy nên hủy hoại nhẩy vào hầm lửa, thì có thể sanh lên cỏi trời v.v...

Lời nói vô lý đây không thể tin được. Nếu làm theo như vậy, chẳng những đời nầy bị tổn hại mà lại, mê hoặc cho đời sau; cũng như người nghèo bị lừa dối không khác.

30. Nuôi dê

Thuở xưa có một người nuôi dê, nuôi rất đúng phương pháp, nên mỗi ngày sanh sãn rất nhiều, từ ngàn con đến vạn con. Nhưng người kia rất hà tiện, không dám giết một con ăn thịt, hoặc là đãi khách. Người khác năn nỉ xin hoặc mua bớt, nói cách gì y cũng không chịu mất một con.

Bây giờ có người rất mánh lời gian dối, thường qua lại làm quen, dùng lời ngon ngọt kết bạn thân với y. Y tin là người chân thật. Một hôm người kia nói với y rằng:

- Tôi và anh đã thành bạn thân với nhau, nên có điều chi tôi cũng muốn bàn với anh cả. Anh nay chưa vợ con, rất cô đơn hiu quạnh. Tôi được nghe xóm nhà ở hướng đông, có một cô gái rất đẹp, nếu anh cưới nàng làm vợ thì xứng đôi vừa lứa vô cùng. Tôi xin làm người giới thiệu thì chắc chắn thành công.

Người nuôi dê nghe thế mừng rỡ vô cùng, bèn giao cho người kia rất nhiều dê và một ít lễ vật làm đồ sính lễ đầu tiên.

Cách vài hôm sau, người kia trở lại bảo anh rằng: 

- Cô ấy đã bằng lòng sánh duyên cùng anh, và may quá, vợ anh nay đã sanh được một đứa con rất ngộ nghỉnh, tôi lại báo tin mừng cho anh hay!

Người nuôi dê chưa bao giờ thấy mặt vị hôn thê, nhưng nghe nói vừa sanh một đứa con thì lòng mừng không thể tả! Vội vàng cấp cho người kia rất nhiều dê. Hai bên từ biệt.

Cách vài hôm sau nữa, người kia lại trở về nói rằng:

- Anh ơi! Thê thảm đau đớn quá, con anh đã chết rồi! Tôi đến đây thành thực chia buồn cùng anh, để tỏ tình bạn hữu.

Người nuôi dê nghe xong, vật vã khóc lóc thảm thiết, buồn khổ mãi không nguôi.

** Chuyện nầy tỉa dụ: Trong Phật giáo có những hạng người đa vạn, không mong tâm danh lợi, không ham mê sắc đẹp vị ngon, nhưng lại tham trước dục lạc thế gian, trở lại bị nó làm mê hoặc, đành qảng tài bảo pháp lành công đức, lơ lảng sự tu hành. Kết quả, không những làm hư hỏng pháp lành, mà lại tiêu tan cả thân mạng, tài sãn, thật đáng tủi nhục đau lòng, chính mình chuốc lấy sự đau khổ cho chính mình một cách oan uổng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19710)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23970)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41222)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19703)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24001)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21748)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23315)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27510)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26578)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29321)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33204)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20209)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25787)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20920)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31330)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38584)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21449)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44266)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29835)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42224)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22145)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45774)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32125)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23963)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24396)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29285)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33929)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27688)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32141)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21068)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28857)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21591)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28072)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22080)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21444)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19506)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19477)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19840)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19262)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29199)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20627)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28305)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23651)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33196)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31846)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21380)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39634)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21564)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19384)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26405)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24836)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21760)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22398)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29138)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22561)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20471)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23530)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21242)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35333)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24548)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant