Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

12. Chương Viên Giác

12 Tháng Ba 201100:00(Xem: 8344)
12. Chương Viên Giác

KINH VIÊN GIÁC LUẬN GIẢNG
Thích Thông Huệ
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội 2006

Chánh văn và Lược giải

XII- CHƯƠNG VIÊN GIÁC 

Lúc bấy giờ, Bồ tát Viên Giác ở trong đại chúng liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu bên phải ba vòng, quì dài chắp taybạch Phật rằng: “Đại bi Thế Tôn! Ngài đã vì bọn chúng con rộng nói nhiều thứ phương tiện tịnh giác, khiến chúng sanh đời mạt pháp được lợi ích lớn. Bạch Thế Tôn! Chúng con hôm nay đã được khai ngộ; nếu sau khi Phật diệt độ, chúng sanh đời mạt pháp chưa được khai ngộ, làm sao an cư để tu tập cảnh giới thanh tịnh Viên Giác này? Ba loại tịnh quán trong Viên Giác này, lấy pháp nào làm đầu? Cúi mong đức Đại bi, vì tất cả đại chúng và vì chúng sanh đời mạt pháp ban cho những điều lợi ích lớn”. 

Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, thỉnh đi thỉnh lại từ đầu đến cuối như vậy ba lần.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ tát Viên Giác rằng: “Lành thay! Lành thay! Này Thiện nam tử! Các ông mới có thể hỏi Như Lai những phương tiện như thế để làm lợi ích lớn cho các chúng sanh. Ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói”.

Khi ấy, Bồ tát Viên Giác rất đỗi vui mừng, vâng theo lời dạy, cùng đại chúng lắng sâu tâm thức mà nghe.

“Này Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh, nếu Phật trụ thế hay sau khi Phật nhập diệt, hoặc trong thời pháp mạt, có các chúng sanh đủ tánh Đại thừa, tin tưởng nơi tâm Đại Viên Giác bí mật của Phật mà muốn tu hành, phải ở nơi già lam, xử yên đồ chúng. Nếu có duyên sự thì tùy phầnquán sát, như ta đã nói. Nếu khôngnhơn duyên nào khác thì phải kiến lập đạo tràng, an trú chỗ thanh tịnh. Phải lập kỳ hạn: Trường kỳ 120 ngày; Trung kỳ 100 ngày; Hạ kỳ 80 ngày.

Nếu Phật hiện còn, phải chánh tư duy. Nếu sau khi Phật nhập diệt, phải thiết bày hình tượng, tâm ngưng mắt tưởng, sanh lòng nhớ nghĩ một cách chơn chánh, giống như những ngày Như Lai còn tại thế; treo các phan hoa. Trải qua 21 ngày, đảnh lễ danh hiệu mười phương chư Phật, ai cầu sám hối. Nếu gặp cảnh giới lành, tâm sẽ được khinh an. Sau 21 ngày, một bề nhiếp niệm.

Nếu vào đầu mùa Hạ, an cư ba tháng, phải cấm túc tu theo hạnh thanh tịnh của Bồ tát, tâm lìa Thanh văn, không nhờ đồ chúng.

Đến ngày an cư, liền ở trước Phật nói như thế này: “Con là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, tên..., nương Bồ tát thừa, tu hạnh tịch diệt để nhập vào trụ trì thanh tịnh thật tướng, dùng Đại Viên Giác làm già lam của mình, thân tâm an cư trong Bình đẳng tánh trí, nương vào tự tánh Niết bàn không bị ràng buộc. Nay con kính thỉnh (chư Phật chứng minh) nguyện chẳng nương vào Thanh văn, cùng mười phương Như LaiĐại Bồ tát, an cư ba tháng. Vì đại nhơn duyên tu theo Diệu giác vô thượng của hàng Bồ tát, nên không cần đồ chúng ràng buộc”.

Này Thiện nam tử! Đây gọi là Bồ tát thị hiện an cư, qua tam kỳ nhật muốn đi không ngại.

Này Thiện nam tử! Vào thời mạt pháp, những chúng sanh tu hành cầu đạo Bồ tát vào ba kỳ hạn kia, nếu chẳng phải những cảnh giới mình đã được nghe, thì không nên thủ.

Này Thiện nam tử! Nếu các chúng sanh tu Xa-ma-tha, trước giữ sự chí tĩnh, không khởi tư niệm. Khi tâm đến cực tĩnh là Giác. Cái tĩnh ban đầu từ một thân, sau đến một thế giới; Giác cũng lại như thế. Này Thiện nam tử! Nếu Giác biến-mãn cả một thế giới, trong thế giới ấy có một chúng sanh khởi lên niệm nào, thảy đều hay biết! Trăm ngàn thế giới cũng lại như thế. Nếu chẳng phải những cảnh giới mình đã được nghe, thì không nên thủ.

Này Thiện nam tử! Nếu các chúng sanh tu Tam-ma-bát-đề, trước phải nhớ tưởng đến mười phương Như Lai và tất cả Bồ tátmười phương thế giới. Sau đó, nương vào các thứ pháp môn, mỗi mỗi thứ lớp tu hành Tam muội cần khổ, rộng phát đại nguyện, tự huân thành chủng tử. Nếu chẳng phải những cảnh giới mình đã được nghe, thì không nên thủ.

Này Thiện nam tử! Nếu các chúng sanh tu Thiền-na, trước phải giữ môn Sổ tức. Trong tâm biết rõ từng niệm sanh-trụ-diệt, như thế trong cả bốn oai nghi, phân biệt niệm số thảy đều hiểu thấu. Thứ lớp tăng tiến, cho đến biết được một giọt mưa trong trăm ngàn thế giới cũng như mắt nhìn thấy vật mình thọ dụng. Nếu chẳng phải những cảnh giới mình đã được nghe, thì không nên thủ.

Đây là phương tiện tối sơ của ba pháp quán. Nếu chúng sanh gồm tu cả ba, siêng năng tinh tấn, tức là Như Lai xuất hiện ở đời.

Nếu những chúng sanh độn căn vào thời mạt pháp sau này, tâm muốn cầu đạo mà không được thành tựu, là bởi do nghiệp chướng quá sâu dầy. Người đó phải siêng năng sám hối, thường khởi tâm hy vọng. Trước đoạn tâm thương ghét, tật đố, dua nịnh, cầu tăng thượng tâm. Ba loại tịnh quán tùy ý học một, nếu pháp quán này không được thì tu pháp quán khác, tâm không buông bỏ, thứ lớp cầu sự chứng ngộ tối thượng.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn trùng tuyên lại ý nghĩa này nên nói kệ rằng:

 “Viên Giác, ông nên biết! 
Tất cả các chúng sanh 

Muốn cầu đạo Vô thượng

Trước kết hợp ba kỳ

Sám hối nghiệp vô thỉ.

Trải qua hăm mốt ngày

Sau đó Chánh tư duy.

Chẳng phải cảnh đã nghe

Hoàn toàn không nên thủ.

Xa-ma-tha chí tĩnh,

Tam ma chánh ức trì,

Thiền-na rõ số đếm,

Đây là ba Tịnh quán.

Nếu hay siêng tu tập,

Gọi là Phật ra đời.

Kẻ độn căn chưa thành,

Thường phải chuyên sám hối

Tất cả tội vô thỉ.

Các chướng nếu tiêu trừ

Cảnh Phật liền hiện tiền”. 

“Viên Giác” là tên vị Bồ tát đứng đầu bổn chương và cũng là tên của bản kinh. Đây là chương cuối cùng trong phần Chánh tông tức là phần nội dung chính của kinh. Chương này có gì quan trọng đặc biệt mà để người phát lời thưa hỏi là Bồ tát Viên Giác?

Đại ý của bổn chương là, nhân lời thưa hỏi của Bồ tát Viên Giác, Đức Phật giảng về sự tu tập ba quán môn và cách kiến lập Đạo tràng an cư, qui định thể thức và kỳ hạn cho sự an cư tu tập. Rõ ràng ở đây, Đức Phật chỉ nói về sự chứ không phải về lý nữa.

Đức Phật thường nhắc nhở chúng ta phải nương sự để hiểu lý; ngược lại, khi lý đã thông, phải chọn phương tiện thù thắngsắp đặt hoàn cảnh thuận tiện, để việc tu hành đạt được kết quả tốt nhất. Trong quá trình luân hồi, chúng ta có thể đã nhiều kiếp gặp Phật pháp, lần hồi chủng tử Phật pháp được huân trong tàng thức. Vì thế, có thể chúng ta dễ dàng thâm nhập những chỗ sâu xa uyên áo trong kinh điển. Tuy nhiên, lúc ứng dụng những hiểu biết ấy vào công phu, lại gặp muôn vàn khó khăn trở ngại, từ bên ngoài và cả bên trong. Bồ tát Viên Giác đã biết rõ điều này nên thỉnh Phật dạy về sự tướng tu trì, nghĩa là cách tu thực tế nhất trong khi an cư, để đẩy lui những tập khí vô minh ẩn sâu vi tế trong tâm của chúng sanh. Chúng ta thấy, trong kinh này, ở chương nào Đức Phật cũng nhấn mạnh những điều quan trọng tương ứng cho từng chủ đề của mỗi chương; nên có thể nói, chỉ bày những vấn đề khẩn yếu là đặc thù của bộ kinh Viên Giác. Lại nữa, vấn đề sự tướng tu trì ở chương này cũng như nền móng của căn nhà, là vấn đề quan trọng nhất của người tu. Vì thế, người đứng đầu bổn chương phải là Bồ tát Viên Giác

Lúc bấy giờ, Bồ tát Viên Giác ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu bên phải ba vòng, quì dài chắp taybạch Phật rằng: “Đại bi Thế Tôn! Ngài đã vì bọn chúng con rộng nói nhiều thứ phương tiện tịnh giác, khiến chúng sanh đời mạt pháp được lợi ích lớn”: Bồ tát Viên Giác ca ngợi Đức Phật đã dạy nhiều phương tiện cho đại chúngchúng sanh đời mạt pháp nương theo tu tập. Các phương tiện đó như ngón tay chỉ mặt trăng, như thuyền bè qua sông. Chúng sanh nương theo ngón tay sẽ thấy mặt trăng; nương theo thuyền bè sẽ qua được bờ bên kia; và nương theo các phương tiện Phật dạy để tu hành, sẽ đạt đến giác ngộ thanh tịnh. Vì vậy Bồ tát gọi đó là “phương tiện tịnh giác”.

Bạch Thế Tôn! Chúng con hôm nay đã được khai ngộ; nếu sau khi Phật diệt độ, chúng sanh đời mạt pháp chưa được khai ngộ, làm sao an cư để tu tập cảnh giới thanh tịnh Viên Giác này? Ba loại Tịnh quán trong Viên Giác này, lấy pháp nào làm đầu? Cúi mong đức Đại bi, vì tất cả đại chúngchúng sanh đời mạt pháp, ban cho những lợi ích lớn”: Bồ tát Viên Giác thưa cùng Phật, qua những lời Phật dạy từ đầu pháp hội đến bây giờ, tất cả đại chúng ở đây đều được khai ngộ. Nhưng chúng sanh đời sau căn tánh ám độn, lại gặp nhiều phiền nhiễu chướng ngại trên đường tu, khó có thể ngộ nhập Viên Giác. Do vậy, Bồ tátchúng sanh đời mạt pháp nên thỉnh Phật chỉ dạy hai điều :

1- Làm thế nào an cư để tu tập Viên Giác? 
2- Ba loại Tịnh quán trong Viên Giác này, lấy pháp nào làm đầu? 

Trong chương Biện Âm, Đức Phật đã giảng rõ về 25 định luân, tùy căn cơ trình độ của mỗi người mà chọn phương tiện thích hợp. Ở đây, Bồ tát muốn hỏi về ba loại Tịnh quán trong tinh thần an cư là Xa-ma-tha (Chỉ), Tam-ma-bát-đề (Quán) và Thiền-na (Quân bình chỉ quán), mỗi loại dùng phương tiện nào là chính? 

Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, thỉnh đi thỉnh lại từ đầu đến cuối như vậy ba lần.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ tát Viên Giác rằng: “Lành thay! Lành thay! Này Thiện nam tử! Các ông mới có thể hỏi Như Lai những phương tiện như thế để làm lợi ích lớn cho các chúng sanh. Ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói”.

Khi ấy, Bồ tát Viên Giác rất đỗi vui mừng, vâng theo lời dạy, cùng đại chúng lắng sâu tâm thức mà nghe.

Này Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh, nếu Phật trụ thế hay sau khi Phật nhập diệt, hoặc trong thời pháp mạt, có các chúng sanh đủ tánh Đại thừa, tin tưởng nơi tâm Đại Viên Giác bí mật của Phật mà muốn tu hành, phải ở nơi già lam, xử yên đồ chúng”: Đức Phật bắt đầu trả lời câu thứ nhất. Thời pháp mạt là cuối thời mạt pháp. Giáo pháp của Phật được chia làm ba thời kỳ: Chánh pháp lưu truyền từ lúc Phật nhập diệt đến 500 năm sau; Tượng pháp tiếp theo sau trong 1000 năm nữa; Mạt phápthời kỳ cuối cùng, lưu tồn trong vòng 10.000 năm. Sau đó đến thời kỳ không còn Phật pháp trên thế gian này, rồi lại bắt đầu một kỷ nguyên mới, một vị Phật khác ra đời. Như vậy, nếu tính từ lúc Phật Thích Ca nhập diệt, chúng ta đã cách Phật trên 2500 năm tức là đang ở giai đoạn đầu của thời mạt pháp.

Dù ở vào thời kỳ nào, trong chúng sanh vẫn có một hạng người mà Phật gọi là “đủ tánh Đại thừa”. Những người này đã nhiều kiếp tu theo Đại thừa, huân tập trong tàng thức những chủng tử tu hành, đã có đủ căn tánh tín tâm Đại thừa, tin tưởng vào tâm Đại Viên Giác bí mật của Phật. Vì sao gọi là “Tâm Đại Viên Giác bí mật của Phật?” - Tâm Đại Viên Giác tức Giác tâm thanh tịnh, mỗi người đều sẵn đủ, nơi Phật chẳng hơn mà nơi chúng sanh cũng chẳng kém. Đức Phật đã nhận ra tâm này và sống miên viễn với nó, nên Ngài là Phật; còn chúng sanh tuy có nhưng lại quên, nên cùng kiếp vẫn mãi là phàm phu. Nếu không có Phật giác ngộ phát kiến ra tâm này, thì muôn đời chúng sanh không thể biết mình đang có kho tàng vô giá trong tay. Do đó, dù trên lý thì Phật và chúng sanh bình đẳng, nhưng trên sự thì rõ ràng, Giác tâm thanh tịnhbí mật của chư Phật, những ai chưa đến địa vị cùng tột này thì không thể hiểu thấu.

Ý đoạn này, Phật muốn nói, trong lúc Đức Phật còn tại thế hay sau khi Phật nhập diệt, cho đến cuối thời mạt pháp, nếu có người nào đủ căn tánh Đại thừatin chắc mình có Phật tánh, muốn tu hành theo giáo pháp của Phật thì trước nhất, phải ở nơi già lam và xử yên đồ chúng. Theo nghĩa thông thường, Già lamTòng lâm, Am viện, Thiền viện, nơi tụ tập Tăng chúng tu hành. Vị ấy phải sắp xếp tổ chức chu đáo các việc trong chùa, giúp đại chúng yên ổn tinh tấn tu hành. Đồ chúng có yên, việc mình mới không bị phiền nhiễu.

Đối với nhà Thiền, bản tâm thanh tịnh chính là già lam của mỗi người. “Thường tảo già lam địa, Thời thời phước huệ sanh”. Nếu thường quét đất già lam tức quét sạch vọng tưởng tập khí, phước huệ sẽ mỗi mỗi theo đó tăng trưởng. Chúng ta thấy ý nghĩa này rõ hơn trong phần sau, khi Đức Phật giảng về cách an cư theo hạnh của Bồ tát Đại thừa.

Nếu có duyên sự thì tùy phầnquán sát, như ta đã nói. Nếu khôngnhơn duyên nào khác thì phải kiến lập đạo tràng, an trú chỗ thanh tịnh. Phải lập kỳ hạn: Trường kỳ 120 ngày, Trung kỳ 100 ngày, Hạ kỳ 80 ngày”: Nếu vị ấy có trách nhiệm lớn đối với đại chúng, không thể chuyên tâm tu tập, thì tùy khả năngcông phu theo ba pháp Xa-ma-tha, Tam-ma-bát-đề và Thiền-na, như lời Phật đã chỉ dạy trong hai chương Phổ NhãnOai Đức Tự Tại. Những người không có chức năng quan trọng hay duyên sự gì nhiều, nên nhập thất theo kỳ hạn, 120 ngày (trường kỳ), 100 ngày (trung kỳ) hoặc 80 ngày (hạ kỳ).

Ở đây chúng ta cũng cần hiểu ý nghĩa của từ “Đạo tràng”. Trong nhà Phật, khởi đầu dùng từ này để chỉ chỗ Đức Thích Ca thành đạo, tiếng Phạn gọi là Bodhi - Manda. Sau này người ta dùng từ Đạo tràng theo nhiều nghĩa khác nhau :

- Nơi nhập thất tĩnh tu.
- Nơi thăng tòa thuyết pháp.
- Nơi cúng dường Phật.
- Nơi một vị tu hành thanh tịnh chứng được Đạo quả.
- Nơi tu tập của một vài người hay một nhóm người, theo pháp môn nào đó của Phật, tức là trường-sở hành-đạo. Những nghĩa ấy là Sự Đạo tràng.

Đạo tràng còn có một ý nghĩa đặc biệt, đó là Lý Đạo tràng, như kinh Duy Ma Cật đã diễn đạt rất rõ: Chính trực tâm thanh tịnh của mỗi người là Đạo tràng của người ấy (Trực tâm thị Đạo tràng).

Trong đoạn này, Đức Phật muốn nói đến nơi chốn tu hành. Người muốn an cư phải lập riêng một chỗ thanh tịnh, tránh bớt các duyên, vừa hạn chế về mặt không gian, vừa giới hạn về thời gian để có thể chuyên tâm tu tập.

Nếu Phật hiện còn, phải chánh tư duy. Nếu sau khi Phật nhập diệt, phải thiết bày hình tượng, tâm ngưng mắt tưởng, sanh lòng nhớ nghĩ một cách chân chánh, giống như những ngày Như Lai còn tại thế; treo các phan hoa. Trải qua 21 ngày, đảnh lễ danh hiệu mười phương chư Phật, ai cầu sám hối. Nếu gặp cảnh giới lành, tâm sẽ được khinh an. Sau 21 ngày, một bề nhiếp niệm”: Khi Đức Phật còn tại thế, vì hành giả đã an cư tại Đạo tràng, không thể đến tận nơi đảnh lễ Phật, nên phải chánh niệm suy nghĩ về Đức Phật, tưởng như Phật đang đối diện với mình. Khi Phật đã diệt độ, phải thiết bày hình tượng Phật, treo các tràng phan, kết các loại hoa trong Đạo tràng cho thật trang nghiêm. “Tâm ngưng mắt tưởng” nghĩa là phải quán tưởng bằng cách nhập thần, tâm ngưng tụ vào hình tượng Phật, mắt chăm chú nhìn và khởi tưởng về Đức Phật một cách chân chánh. Dù là hình tượng để trên bàn, nhưng hành giả phải có lòng cung kính như đang thấy Đức Phậttrước mặt, vì vậy nói “giống như những ngày Như Lai còn tại thế”. Có sanh tâm kính ngưỡng chân thành như thế mới có cảm ứng cùng mười phương chư Phật, Bồ tát. Đây là tiền đề để việc tu tập có kết quả như ý muốn.

Trong vòng 21 ngày, hành giả phải đảnh lễ danh hiệu mười phương chư Phật, thành tâm sám hối. Vì sao sám hối được xem như một nghi thức quan trọng, không thể thiếu trong nhà Phật? Chúng ta đã biết, “sám” là trừ tội trước, “hối” là chừa lỗi sau. Khi hành giả mới bắt đầu an cư, tâm chưa được thanh tịnh, nên phải trải qua 21 ngày sám hối. Tinh thần sám hối là giúp nghiệp chướng tiêu trừ, như một cái bình dơ, muốn dùng đựng nước trong, trước tiên phải súc rửa bình cho thật sạch. Chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay, do thân-khẩu-ý đã tạo ra biết bao nhiêu nghiệp chướng; do trải qua bao nhiêu cam go trắc trở trong cuộc đời nên phiền não đầy dẫy trong tâm. Bây giờ, muốn hạ thủ công phu để từng bước tiến lên Thánh vị, điều trước tiên và thiết yếu là phải chí tâm khấn nguyện, cầu mười phương chư Phật thương xót chứng minh cho sự sám hối của mình.

Trong những ngày sám hối, nếu chúng ta thấy tâm khinh an, tinh thần thanh thản thoải mái thì đó là cảnh giới lành. Đừng nghĩ cảnh giới lành là thấy được ánh sáng, nghe âm thanh hay hình ảnh Phật, Bồ tát hiện ra trước mắt. Nếu gặp những trường hợp nói trên mà sanh lòng mừng, coi chừng lạc vào tà đạo. Kinh Kim Cang có nói “Nhược dĩ sắc kiến ngã, Dĩ âm thanh cầu ngã, Thị nhơn hành tà đạo, Bất năng kiến Như Lai”, nghĩa là “Nếu dùng sắc thấy ta, Dùng âm thanh cầu ta, Người ấy hành đạo tà, Không thấy được Như Lai”.

Qua 21 ngày, hành giả có thể chuyên tâm tu tập ba quán môn, cho nên nói “Một bề nhiếp niệm”.

Nếu vào đầu mùa hạ, an cư ba tháng, phải cấm túc tu theo hạnh thanh tịnh của Bồ tát, tâm lìa Thanh văn, không nhờ đồ chúng”: Đức Phật bắt đầu giảng về chế độ an cư theo Bồ tát hạnh, rất khác với lối an cư của hàng Thanh văn, vì Bồ tát giữ gìn Tâm giới, còn Thanh văn chủ yếu giữ Tướng giới.

Theo luật an cư, vào đầu mùa hạ là từ rằm tháng 4, Tự viện phải lập Kiết giới đàn. Kiết giớigiới hạnchúng Tăng phải tuân thủ, gồm có giới hạn về không gian là khuôn viên của chùa, giới hạn về thời gian là ba tháng, tức cấm túc đến rằm tháng 7 thì giải hạ. Trong thời gian này, chúng Tăng không được ra ngoài vùng qui định nếu không có phép của đại chúng. Đến ngày giải hạ, chúng Tăng tập hợp lại, mỗi người tự trình mọi lỗi lầm của mình đã phạm, hoặc thỉnh cầu đại chúng chỉ bảo những lỗi tự mình không nhận thấy. Đó gọi là ngày Tự tứ.

Đối với hàng Thanh văn, nhất thiết phải tuân thủ chặt chẽ chế độ an cư này, vì tu theo Nhị thừa là phải nhờ đồ chúng bảo bọc. Nếu phạm lỗi lầm gì, đồ chúng sẽ chỉ bảo cho mình để được sám hối trước Tam Bảo. Tu theo Bồ tát hạnh thì khác, vì Bồ tát là đa hạnh, nếu phải trói buộc vào một khuôn khổ nhất định thì khó thực hiện hạnh nguyện của mình. Vì vậy Phật nói “Tâm lìa Thanh văn, không nhờ đồ chúng”.

“Đến ngày an cư, liền ở trước Phật nói như thế này: “Con là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, tên... nương Bồ tát thừa, tu hạnh tịch diệt để nhập vào trụ trì thanh tịnh thật tướng, dùng Đại Viên Giác làm già lam của mình, thân tâm an cư trong Bình đẳng tánh trí, nương vào tự tánh Niết bàn không bị ràng buộc”: Đây là lời phát nguyện của hành giả an cư theo Bồ tát thừa. Vì giới của Bồ tát, gồm 10 giới trọng và 48 giới khinh, hàng cư sĩ cũng có thể thọ được, nên giới đàn an cư ở đây cũng có cư sĩ (Ưu bà tắccận sự nam, Ưu bà dicận sự nữ). Hành giả không đối trước tăng chúng như theo luật Thanh văn, chỉ tự mình đến trước hình tượng Phật mà phát nguyện. Lời thưa thỉnh này y cứ vào tự tánh Viên Giác làm mục đích tối hậu, nên có những nội dung rất thâm sâu, chúng ta cần lưu ý:

1- “Nương Bồ tát thừa”: Pháp môn của hành giả tu tập trong kỳ an cư là pháp Đại thừa Bồ tát, không đồng với Nhị thừa.

2- “Tu hạnh tịch diệt”: Hạnh tu lấy gốc là bản tâm chân thật của chính mình, từ trong tu ra, theo pháp Thiền-na (tịch diệt).

3- “Để nhập vào trụ trì thanh tịnh thật tướng”: Đây là biệt danh của Viên Giác. Hành giả đã ngộ Viên Giác, nỗ lực tu hành thể nhập Chơn như thật tướng.

4- “Dùng Đại Viên Giác làm già lam của mình”: Hàng Thanh văn chú trọng cảnh giới thanh tịnh, nên nơi an cư phải là khuôn viên của một Tự viện thanh tịnh; còn hàng Bồ tát lại chú trọng về Tâm tánh thanh tịnh, nên dùng tâm Viên Giác làm già lam, tức nơi chốn tu hành của mình.

5- “Thân tâm an cư trong Bình đẳng tánh trí”: Theo Duy thức học, mọi người đều có 8 thức: Tiền ngũ thức (gồm 5 thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân), Ý thức, Mạt-na-thức, A-lại-da-thức. Khi hành giả thể nhập Viên Giác, 8 thức chuyển thành 4 trí: Tiền ngũ thức thành Thành sở tác trí, Ý thức (thức thứ 6) thành Diệu quan sát trí, Mạt-na thức (thức thứ 7) thành Bình đẳng tánh trí và A-lại-da-thức (thức thứ 8) thành Đại viên cảnh trí.

Chúng ta tu là đang vẫy vùng để thoát khỏi ngã chấp. Đầu tiên là thoát khỏi phân biệt ngã chấp (thức thứ 6) đạt địa vị Hiền; sau đó là thoát khỏi Câu sanh ngã chấp (thức thứ 7), đạt địa vị Thánh. Từ đây, là quả vị Bồ tát Sơ địa trở lên, các Ngài đã chứng được Tự-tha bình đẳng, thấy mọi loài chúng sanh và mình đều có tự tánh bình đẳng như nhau, không còn phân biệt ta-người. Đó gọi là “an cư trong Bình đẳng tánh trí”.

6- “Nương vào tự tánh Niết bàn không bị ràng buộc”: Tự tánh Niết bànNiết bàn sẵn đủ nơi mỗi chúng sanh, là Niết bàn bất trụ, không sanh không diệt, không bị ràng buộc. Bồ tát Đại thừa an cư theo tự tánh Niết bàn nên không bị câu thúc buộc ràng như phép an cư của Nhị thừa.

“Nay con kính thỉnh (chư Phật chứng minh) nguyện chẳng nương vào Thanh văn; cùng mười phương Như LaiĐại Bồ tát, an cư ba tháng. Vì đại nhơn duyên tu theo Diệu giác vô thượng của hàng Bồ tát, nên không cần đồ chúng ràng buộc”: Hành giả thỉnh cầu chư Phật chứng minh để an cư trong ba tháng cùng mười phương Như LaiĐại Bồ tát, chớ không theo luật an cư của Thanh văn. Vì tu theo Đại thừa là nguyện đạt được quả vị rốt cùng không có gì hơn, tức Phật vị, ở đây gọi là Diệu giác vô thượng, nên hành giả đã nắm vững pháp tu, có ý chí xung thiên, không cần sự bảo bọc của đồ chúng.

Học đến đây, chúng ta nên nhìn lại mình. Pháp tu, chúng ta nắm vững chưa? Đối cảnh, chúng ta còn sanh tâm phân biệt không? Trình độ tu tập, định lực của chúng ta đã đến được mức độ nào? Hãy thành thật nhận xét chính mình, chúng ta mới thấy mình có cần lệ thuộc đồ chúng hay không. Nếu chúng ta chưa đủ khả năng độc-hành độc-bộ, chưa có đại nhân duyên như Phật đã nói, mà vội vàng thoát ly khỏi sự ràng buộc trong chúng, coi chừng vấp phải nhiều lỗi lầm đáng tiếc. Do vậy mới có câu “Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan, Ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết” (Y theo kinh mà giải nghĩa thì oan cho chư Phật ba đời, Lìa kinh một chữ lại đồng ma nói).

Này Thiện nam tử! Đây gọi là Bồ tát thị hiện an cư, qua tam-kỳ-nhật muốn đi không ngại”: Đức Phật kết luận câu trả lời thứ nhất. Tất cả thể thức nói trên là lối an cư của Bồ tát, lấy ba kỳ hạn tự lập làm tiêu chuẩn (120, 100 hoặc 80 ngày). Qua khỏi thời hạn này, muốn đi đâu cũng không ngăn ngại.

Này Thiện nam tử! Vào thời mạt pháp, những chúng sanh tu hành cầu đạo Bồ tát vào ba kỳ hạn kia, nếu chẳng phải những cảnh giới mình đã được nghe, thì không nên thủ”: Trước khi trả lời câu thứ hai của Bồ tát Viên Giác, Đức Phật khuyến cáo những người tu thiền định một điều hết sức quan trọng: Trong ba kỳ hạn an cư tu tập thiền định, nếu thấy bất cứ cảnh chứng nào mà mình chưa từng được nghe, thì không nên chấp vào đó mà sanh tâm mừng hoặc sợ. Điều này có ý nghĩa như thế nào? 

Trong kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật đã giảng giải tường tận về ngũ ấm ma, là những cảnh giới không thật, hiện lên trong khi hành giả tọa thiền. Đó là do khi tâm an định, nếu mống khởi lên một niệm, dù rất vi tế, cũng có thể hiện lên những cảnh giới kỳ lạ. Như vậy, các ma cảnh ấy từ tâm của hành giả sinh ra, không phải cảnh bên ngoài. Nếu biết rõ điều này, không thủ không chấp trước vào chúng thì tự nhiên chúng biến mất, không làm hại được mình. Nhưng nếu cho đó là thật, thấy cảnh lành (như gặp Phật, Bồ tát đến xoa đầu thọ ký) khởi lòng vui mừng; hoặc thấy cảnh dữ (như ma quỉ hiện lên dọa nhát) sanh tâm sợ hãi, tất cả đều là bệnh, có thể khiến hành giả trở nên điên cuồng.

Do vậy, trước khi khởi công tu tập thiền định, chúng ta phải cụ bị cho mình những kiến giải chân chánh, phải luôn luôn cầu học ở kinh giáo của Phật- Tổ, ở các vị Thiện tri thức và ở các bạn đồng tu. Khi tu tập, dù ý chí quyết tâm cầu sự giác ngộ tối thượng, nhưng không nên chấp nhận tất cả những cảnh giới thấy được trong lúc tọa thiền. Kết quả tu hành gọi là tốt khi chỗ chứng tương ưng cùng với cảnh giới đã được mô tả trong kinh hay trong lời dạy của Thầy. Một lần nữa, chúng ta lại thấy tầm quan trọng đặc biệtcần thiết của chủ trương Thiền-Giáo song hành.

Này Thiện nam tử! Nếu các chúng sanh tu Xa-ma-tha, trước giữ sự chí tĩnh, không khởi tư niệm. Khi tâm đến cực tĩnh là Giác. Cái tĩnh ban đầu từ một thân, sau đến một thế giới; Giác cũng lại như thế”: Đức Phật trả lời câu hỏi thứ hai, tức giảng về ba pháp môn Xa-ma-tha, Tam-ma-bát-đề và Thiền-na.

Đối với các chúng sanh tu Xa-ma-tha, trước tiên phải giữ cho tâm rất vắng lặng, không suy nghĩ (tư), không vọng tưởng sanh diệt (niệm). Đạt đến mức định tột cùng (cực tĩnh), ánh giác ngộ bừng lên. Như vậy, từ Định phát Huệ, nên nói “Khi tâm đến cực tĩnh là Giác”.

Lúc tâm đã yên tĩnh cực độ thì thân cũng được yên tĩnh. Từ đó, phóng tầm mắt ra khắp thế giới cũng là tịnh. Sự giác ngộ cũng tương tự như vậy: Khi Huệ phát sinh, ánh giác chiếu rọi từ một thân cũng chiếu rọi cùng khắp thế giới. Lúc đó, tất cả đều là Giác; năng giác và sở giác đồng một pháp giới tánh thanh tịnh

Này Thiện nam tử! Nếu Giác biến mãn cả một thế giới, trong thế giới ấy có một chúng sanh khởi lên niệm nào thảy đều hay biết! Trăm ngàn thế giới cũng lại như thế. Nếu chẳng phải những cảnh giới mình đã được nghe, thì không nên thủ”: Mới nghe qua, chúng ta thấy khó tin khó hiểu. Nhưng đây quả là diệu dụng của tự tánh. Khi Giác biến mãn khắp cả thế giới, nghĩa là lúc này tâm hành giả đã giác thì toàn thế giới đều nằm trong ánh sáng giác ngộ của vị ấy. Chúng sanh trong thế giới đều không ngoài tự tâm Viên Giác, đó là ý nghĩa của câu “Tình dữ vô tình tề thành Phật đạo”.

Vì sao người đã giác ngộ biết được rành rẽ từng niệm khởi của chúng sanh trong cả thế giới? - Có hai lý do: Thứ nhất, hễ còn là chúng sanh là còn vọng tưởng, nên người giác ngộ hiểu rõ chúng sanh nào cũng có niệm khởi hết. Thứ hai, giữa vị ấy và toàn thế giới đã bình đẳng nhất như, một giọt nước biển cũng là tánh ướt của toàn thể biển cả. Tâm chúng sanhsanh diệt liên tục cũng không ngoài tâm Viên Giác của vị ấy, nên bao nhiêu niệm khởi của chúng sanh đều như ảnh hiện trong gương, không sót ảnh nào.

Một thế giới được ánh giác soi rọi thì trăm ngàn thế giới cũng lại như thế. Tuy nhiên, trong lúc tu Chỉ như trên, không nên chấp thủ các ma cảnh như đã nói ở đoạn trước.

“Này Thiện nam tử! Nếu các chúng sanh tu Tam-ma-bát-đề, trước phải nhớ tưởng đến mười phương Như Lai và tất cả Bồ tátmười phương thế giới. Sau đó, nương vào các thứ pháp môn, mỗi mỗi thứ lớp tu hành Tam muội cần khổ, rộng phát đại nguyện, tự huân thành chủng tử. Nếu chẳng phải những cảnh giới mình đã được nghe, thì không nên thủ”: Hành giả tu Tam-ma-bát-đề tức tu quán, phải lấy sự “nhớ tưởng” làm đầu. Ở đây chúng ta cũng cần hiểu rõ vì sao Phật gọi cả ba pháp môn là ba Tịnh quán. Xa-ma-tha là quán vô tướng, trước lắng hết các vọng niệm thì huệ phát sanh. Tam-ma-bát-đề là quán hữu tướng, trước phải nhớ tưởng đến chư Phật và Bồ tát mười phương; khi thành tựu quán tưởng, nội tâm liền được thanh tịnh. Thiền-na là pháp tu Chỉ Quán bất nhị hay Định Huệ đồng thời, dùng Sổ tức để vừa định tâm nhưng cũng vừa rõ ràng thường biết. Chúng ta sẽ xét kỹ ở phần sau.

Trở lại pháp tu Tam-ma-bát-đề, Phật dạy hành giả quán tưởng những đức tướng trang nghiêm của chư Phật, Bồ tát. Đồng thời, phải phát đại nguyện tu Bồ tát đạo, hành Bồ tát hạnh, tùy duyên hóa độ chúng sanh không nề gian khổ. Khi phát nguyện một cách thiết tha như thế, lời nguyện sẽ huân thành chủng tử, tiềm phục trong A-lại-da thức. Trong lúc tu hành, tâm an định, không nên thủ lấy các cảnh tà.

Này Thiện nam tử! Nếu các chúng sanh tu Thiền-na, trước phải giữ môn Sổ tức. Trong tâm rõ biết từng niệm sanh-trụ-diệt, như thế trong cả bốn oai nghi, phân biệt niệm số thảy đều hiểu thấu. Thứ lớp tăng tiến, cho đến biết được một giọt mưa trong trăm ngàn thế giới, cũng như mắt nhìn thấy vật mình thọ dụng. Nếu chẳng phải những cảnh giới mình đã được nghe, thì không nên thủ”: Phật dạy về pháp môn thứ ba của Tam-Tịnh quán: Thiền-na. Trước tiên, hành giả phải áp dụng môn Sổ tức là đếm hơi thở. Đây là môn đầu tiên trong Lục Diệu pháp môn của tông Thiên Thai (Sổ, Tùy, Chỉ, Quán, Hoàn, Tịnh), cũng là phương tiện đầu tiên cho những người mới tập tu thiền. Tâm hành giả lúc này tâm còn tán loạn, vọng tưởng lăng xăng, nên phải chú tâm vào hơi thở, đếm từng số rõ ràng từ 1 đến 10 rồi đếm lại; nếu đang đếm mà quên, phải đếm lại từ 1. Như vậy, đây là phương tiện dành cho người sơ cơ, tại sao Đức Phật lại áp dụng vào công phu Thiền-na?

Chúng ta nghe kỹ câu này mới rõ được thâm ý của Phật: “Trong tâm biết rõ từng niệm sanh-trụ-diệt, như thế trong cả bốn oai nghi, phân biệt niệm số thảy đều hiểu thấu”. Niệm là những ý tưởng dấy lên trong tâm, không có chỗ khởi đầu và cũng không nơi kết thúc; chúng ta thường gọi là vọng. Vọng lúc mới khởi lên gọi là Niệm sanh, Vọng đang diễn tiến gọi là Niệm trụ, Vọng kết thúc gọi là Niệm diệt. Cả ba giai đoạn của vọng, hành giả đều biết rõ, đếm số phân biệt tường tận không lầm; không những biết rõ đang khi tọa thiền mà biết cả trong bốn oai nghi (đi, đứng, nằm, ngồi).

Như vậy, Sổ tức ở đây là một mặt định tâm, một mặt rõ biết, nghĩa là vừa Định vừa Huệ. Đây là điểm độc đáo của pháp môn Sổ tức Đại thừa, có thể gọi là Ma Ha Sổ tức. Trong khi đếm hơi thở, tâm gắn vào từng số đếm, được an định, đó là Định. Nhưng còn cái gì biết được sự sanh-trụ-diệt của niệm? Cái biết này không gián cách, đó là quán, là dụng của tự tánh, chính là Huệ. Định-Huệ có mặt đồng thời trong khi Sổ tức, nghĩa là Chỉ-Quán bất nhị, tức Thiền-na. 

Khi quán thành tựu, hành giả phát khởi diệu dụng. Lúc này, tâm hành giả trùm khắp pháp giới, rõ biết tất cả sự vật, nên một giọt mưa cũng biết tường tận như vật đang thọ dụng hiện ở trước mắt. Tuy vậy, không được giữ lấy những cảnh giới nào không phải là những cảnh mình đã được nghe.

“Đây là phương tiện tối sơ của ba pháp quán. nếu chúng sanh gồm tu cả ba, siêng năng tinh tấn, tức là Như Lai xuất hiện ở đời”: Đức Phật kết luận, Ngài đã chỉ rõ những phương tiện chủ yếu đầu tiên của ba pháp Tịnh quán, để trả lời câu hỏi “lấy pháp nào làm đầu”. Chúng sanh tu cả ba pháp, nỗ lực công phu, tinh tấn không lười mỏi, sẽ nhập được Viên Giác tức thể nhập Phật tâm của chính mình, cho nên nói “Như Lai xuất hiện ở đời”.

Nếu những chúng sanh độn căn vào thời mạt pháp sau này, tâm muốn cầu đạo mà không được thành tựu, là bởi do nghiệp chướng quá sâu dầy. Người đó phải siêng năng sám hối, thường khởi tâm hy vọng. Trước đoạn tâm thương ghét, tật đố, dua nịnh, cầu tăng thượng tâm. Ba loại Tịnh quán tùy ý học một, nếu pháp môn này không được thì tu pháp quán khác, tâm không buông bỏ, thứ lớp cầu sự chứng ngộ tối thượng”: Đối với những chúng sanh cănthấp kém, chậm lụt, Phật dạy rằng: Người muốn tu Tam quán nhưng không có kết quả là do nghiệp chướng sâu dầy từ những đời trước, tạo những ác nghiệp cản trở việc tu hành. Người ấy trước tiên phải thành tâm sám hối, phát nguyện cầu đạo vô thượng. Thứ đến, bỏ hết các tâm thương ghét, ganh tị, dua nịnh, cầu tâm cao cả thanh tịnh của người tu (tăng thượng tâm). Khi nhơn duyên chướng đạo đã được dẹp trừ, hành giả tùy ý chọn một trong ba pháp Tịnh quánhạ thủ công phu. Nếu trong một kỳ hạn nhất định mà không thấy kết quả thì tu theo pháp quán khác. Cố gắng không bỏ dở nửa chừng, tâm không lui sụt, tiến lần từng bước, cũng có ngày thành tựu Bồ đề.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ rằng :

“Viên Giác, ông nên biết!
Tất cả các chúng sanh 

Muốn cầu đạo Vô thượng

Trước kết hợp ba kỳ

Sám hối nghiệp vô thỉ”.

Tất cả chúng sanh cần cầu sự giác ngộ tối thượng phải thực hiện chế độ an cư theo Bồ tát thừa, lập kỳ hạn 120, 100 hoặc 80 ngày. Trước tiên, phải thành tâm sám hối những nghiệp mình đã tạo ra từ vô lượng kiếp.

Trải qua hăm mốt ngày
Sau đó Chánh tư duy.

Chẳng phải cảnh đã nghe, 

Hoàn toàn không nên thủ”.

Sám hối trong 21 ngày, hành giả chuyên tâm tu tập ba pháp Tịnh quán. Trong khi công phu, nếu thấy những ma cảnh hiện ra thì không được chấp thủ, để khỏi lạc vào tà đạo hay mắc chứng điên cuồng.

Xa-ma-tha chí tĩnh,
Tam-ma chánh ức trì,

Thiền-na rõ số đếm, 

Đây là ba Tịnh-quán”.

Tu Xa-ma-tha, lấy sự vắng lặng tột cùng của tâm (chí tĩnh) làm đầu; Tam-ma-bát-đề thì dùng tâm quán tưởng, nhớ nghĩ một cách chơn chánh (chánh ức trì) đến chư Phật và Bồ tát mười phương; tu Thiền-na thì dùng Sổ tức làm phương tiện. Đây gọi là ba pháp Tịnh quán.

“Nếu hay siêng tu tập
Gọi là Phật ra đời”.

Người căn tánh nhặm lẹ, siêng năng tu tập ba Tịnh quán đồng thời, sẽ nhập được Viên Giác, ấy là Phật ra đời.

Kẻ độn căn chưa thành
Thường phải chuyên sám hối,

Tất cả tội vô thỉ

Các chướng đều tiêu trừ,

Cảnh Phật liền hiện tiền”.

Những kẻ căn tánh ám độn, muốn cầu đạo Vô thượng nhưng không có kết quả, trước phải ai cầu sám hối tất cả tội lỗi đã gây ra từ vô thỉ. Khi nghiệp chướng tiêu trừ, người ấy tinh tấn tu hành không buông bỏ, không lười mỏi, cũng có ngày thành tựu đạo quả, cõi Ta bà biến thành Tịnh độ, tức cảnh Phật hiện tiền!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29903)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27182)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21774)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22239)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23616)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20433)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20057)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21951)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24761)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18995)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24772)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30988)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23998)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27766)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26530)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21331)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23234)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38146)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18807)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19994)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19055)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23182)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23894)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22822)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22933)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29593)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20650)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18718)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15852)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18866)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19694)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20169)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19959)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18130)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22958)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34189)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16428)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16927)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39270)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26087)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20110)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18865)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24075)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29155)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22907)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30971)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21017)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26870)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26270)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23347)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19826)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24691)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30050)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20233)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20415)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15149)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15843)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23916)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant