Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm Thứ Chín: Niệm Phật phải an nhẫn các chướng duyên

21 Tháng Ba 201100:00(Xem: 12079)
Phẩm Thứ Chín: Niệm Phật phải an nhẫn các chướng duyên

NIỆM PHẬT SÁM PHÁP

Tác giả: HT Thích Thiền Tâm

---o0o---

QUYỂN HẠ

PHẨM THỨ CHÍN

NIỆM PHẬT PHẢI AN NHẪN CÁC CHƯỚNG DUYÊN

Con đường hoàn thành Phật đạo thật ra vẫn còn vô số chông gai thử thách- có muôn ngàn duyên nghiệp sẳn sàng khảo đảo đời sống của người hành trì cũng như gây nên rất nhiều chướng ngại trên bước đường tu tập. Những sự khảo đảo ấy có rất nhiều chi tiết sai biệt, được tóm tắt đại cương trong sáu phần sau đây :

Thứ nhất là NỘI-KHẢO

Có người trong lúc tu tập bỗng khởi lên những tâm niệm tham lam giận hờn, dục nhiễm, ganh ghét khinh mạn, nghi ngờ, hoặc si mê hôn trầm buồn ngủ. Những tâm niệm ấy đôi khi phát lộ rất mãnh liệt, và gặp duyên sự nhỏ cũng dễ sanh ra cau có bực mình. Nhiều lúc trong giấc mơ lại thấy các hình tướng thiện ác biến chuyển. Gặp cảnh nầy, hành giả phải ý thức đó là do công năng hành trì nên nghiệp tướng phát hiện. Ngay lúc ấy nên giác ngộ rằng các thứ nghiệp tướng đều như huyễn hóa, phải nêu cao chánh niệm  thì tự nhiên các tướng ấy lần lượt tiêu tan. Nếu không nhận thức rõ ràng tất bị nó xoay chuyển làm cho thối đọa.

Tiên đức dạy rằng : chẳng sợ nghiệp khởi sớm : chỉ e giác ngộ chậm. Có người đang lúc niệm Phật bỗng phát sanh tán loạn, mỏi nhọc khó cưỡng lại nổi, ngay khi ấy nên đứng lên lễ Phật hoặc đi kinh hành, hoặc tạm xả công phu lui ra đọc vài trang sách, chờ cho tâm tư thanh tịnh sẽ trở vào niệm Phật. Chớ nên cưỡng cầu, chớ nên tự ép buộc cho mau nhất tâm thì càng cố gắng, lại càng rối loạn. Nếu thấy qúa cô tịch thì phải phụ thêm bái sám, tụng kinh, trì chú. Ðây chỉ là sự uyển chuyển trong lúc dụng công, để con đường hành trì trở nên dễ dàng và dễ chịu hơn.

Thứ hai, là NGOẠI KHẢO.

Ðây là những nghịch cảnh thuộc về bên ngoài, làm duyên khó khăn thối đọa cho hành gỉa, như là sự nóng bức, ồn ào, uế tạp, hoặc ở chỗ qúa rét buốc hay nhiều muỗi mòng, gặp những cảnh như thế nầy thì phải nên uyển chuyển chứ đừng chấp nê theo hình thức của mình, mà phải nhẫn nại để cố giữ cho vững khóa trình trì niệm. Ðừng bao giờ tỏ ra cái ý mong cầu hoàn cảnh bên ngoài phải thuận theo lòng mình.

Thứ ba là : NGHỊCH KHẢO

Trên đường hành đạo nhiều khi hành giả bị chướng duyên làm cho trở ngại. Có người bị cha mẹ, anh em, hay vợ chồng hoặc con cái ngăn trở, phá hại sự hành trì, có người thì xác thân mang cố tật hoặc đau yếu mãi không lành. Có kẻ bị oan gia đeo đuổi ám hại. Hoặc có người bị vu oan, giá họa khiến bị tra tấn hay tù đày, hoặc bị ganh ghét bêu rao nhiều tiếng xấu xa làm cho lòng khó an khó nhẫn.

Tất cả các việc ấy đều do sự tác động của nghiệp quá khứ hoặc nghiệp hiện tiền, mà muốn vượt qua thì hành gỉa cần phải ẩn nhẫn sám hối một cách kiên trì, chớ buồn phiền oán trách mà phải xem đó như là những thử thách của A-Di-Ðà để trui luyện tín tâm của mình. Và điều cần yếu nhất là phải thường xuyên cầu nguyện sự gia hộ của chư Phật và chư Bồ-tát .

Thứ tư là : THUẬN KHẢO

Có người không gặp nghịch cảnh mà gặp thuận cảnh, và cầu mong gì đều được toại ý, Nhưng những sự đắc ý ấy lại là duyên ràng buộc chứ không phải là duyên tiến tu. Ðây là những cảnh thuận theo duyên đời, quyến rũ người tu rồi dẫn lần đến các sự phiền toái khác làm mất cả đạo niệm .

Người ta chết vì lửa thì ít mà chết vì nước thì nhiều cho nên trên đường hành trì thì thuận cảnh thật ra đáng sợ hơn nghịch cảnh.

Vì sao thế? Vì nghịch cảnh phần nhiều làm cho hành giả khổ đau nên sớm tỉnh ngộc và dễ thoát ly ý niệm tham đắm, đôi khi còn phẫn chí mà lo tu hành. Ngược lại, thuận cảnh làm cho con người âm thầm thối đoạ lúc nào không hay không biết. Ðến khi bừng tỉnh mới rõ mình đã lăn xa xuống dốc, khó mà cứu vãn cho kịp. Người xưa nói rằng : Việc thuận tốt đến ba – Mê lụy người đến già. Cho nên sự thử thách của thuận cảnh rất là vi tế và khó đối trị- Do đó cần phải chú ý.

Thứ năm là MINH KHẢO

Ðây là sự thử thách rõ ràng trước mắt mà không chịu cảnh giác để tỉnh ngộ.

Chẳng hạn như có một vị tài đức không bao nhiêu nhưng được nhiều người nịnh bợ, khen là nhiều đức hạnh, có phước lớn, rồi sanh ra tự kiêu, tự đắc, kinh thường mọi người làm những điều càn rỡ, kết cuộc bị thảm bại. Hoặc có một vị có đủ khả năng tiến xa trên đường đạo, nhưng bị kẻ khác cản trở, dọa nạt, khích bác, thuyết phục phải bỏ đạo, rồi sanh ra e dè lo sợ để rồi thối thất lòng tin. Hoặc có những kẻ tự mình biết nếu tiến hành tham vọng nào đó thì sẽ rước lấy sự lỗi lầm, thất bại, nhưng vì mù quángtự ái, vẫn đeo đuổi theo cho đến khi thân bại danh liệt.

Hoặc có kẻ tuy biết các duyên bên ngoài đều là giả huyễn, nhưng vì định lực yếu kém, lòng tin lung lay, cho nên không buông bỏ được, rồi sau đó tự chuốc lấy sự buồn khổ.

Có nhiều người tuy có đức tin và có hành trì, nhưng tính tình quá nhẹ dạ, nên hay bị phỉnh gạt và bị lôi cuốn vào việc đời cho đến nỗi thân bị mang lụy.khi mà chưa diệt được lòng tham lam, thì rất dễ bị người khác dùng tiền bạc, danh vọng, sắc đẹp lôi cuốn. Hoặc nếu còn tánh nóng nảy và khí khái tất dễ bị kẻ khác khích động mà gánh vác những việc phiền phức vào thân.

Ðây là cạm bẫy của Ðời mà cũng là của Ðạo, nếu không dè dặt để cảnh gíac thì sẽ vướng vào vòng chướng nghiệp. Ðối với những duyên thử thách lộ liễu như thế, hành giả phải nhận định cho sáng suốt và phải quả quyết tiến theo ánh sáng của Chánh Kiến mới vượt thẳng được

Thứ sáu, là ÁM KHẢO

Ðây là sự thử thách âm thầm không lộ liễu, mà hành giả nếu không khéo lưu tâm thì chắc chắn khó hay khó biết.

Có người ban sơ tinh tấn niệm Phật, rồi bởi gia kế lần lần sa sút, công việc làm ăn thất bại, cho nên sanh lòng trễ nãi sự tu. Có người công việc mưu sinh từ từ phát đạt, rồi ham mê theo lợi lộcxao lãng hành trì.

Có người vì thiếu sự cứu xét nội tâm cho nên phiền não càng ngày càng tăng thêm, lần lần sanh ra lười biếng kinh kệ.

Có người vì thời cuộc bên ngoài thay đổi, tuy sự sống vẫn đầy đủ nhưng nhà cửa nay đổi mai dời, tâm trí cứ hoang mang hướng ngoại, bất giác bỏ quên sự trì niệm hồi nào không hay.

Trên đây, đều là ảnh hưởng diễn biến của nghiệp thiện ác. Nhưng có sức âm thầm lôi kéo hành giả, làm cho bê trễ sự tu học, nên gọi là ÁM KHẢO. Do vậy mà người niệm Phật phải lưu tâm, chú ý nhiều hơn nữa và phải luôn luôn bái sám cùng cầu nguyện sự gia bị của chư Phật cũng như oai thần lực của chư Bồ-tát để vượt qua những thử thách vi tế và âm thầm.


PHƯƠNG THỨC

HOÁ GIẢI CHƯỚNG DUYÊN

Vì biết trên đường tu có nhiều chướng ngại, cho nên ngày xưa, đức ÐẠT MA tổ sư đã chỉ dạy bốn phương châm để tiến đạo cho hàng đệ tử và những kẻ hậu học, đó là :

Thứ nhất : BÁO OAN HẠNH

Ðệ tử chúng con từ vô thủy cho đến ngày nay, mỗi đời đều gây nợ nghiệp, hoặc là ân, hoặc là oán, từ việc nhỏ đến việc lớn, nhiều đến số vô lượng vô biên. Tuy kiếp này có công phu tu tập đã tiêu trừ nghiệp nợ một phần nào, nhưng vẫn còn nhiều thứ nghiệp phải bị đền trả. Phải an lòng nhẫn nại chịu đựng một cách bình thản chứ không nên oán trách hoặc buồn phiền, luôn luôn nhắc nhở đến luật NHAÂN QUẢ, nuôi lớn lòng tin và cầu viện đến hồng ân của chư Phật .

Pháp-Nhiên thượng nhân dạy rằng muốn cho đời sống thanh thoát và cõi lòng hoan lạc thì hành giả chỉ nên chuyên cần - chăm chú xưng niệm danh hiệu Phật , rồi đem tất cả cuộc đời mình, giao phó cho Bản Nguyện A-Di-Ðà , như vậy, chỉ có như vậy thì không còn có một thứ nghiệp lực hay oan trái nào có thể tác động đến tâm thức mình.

Thứ hai, TUỲ DUYÊN HẠNH

Người niệm Phật phải hiểu rằng tất cả cảnh thịnh suy, họa phước đều là huyễn hóa , chỉ tùy theo nghiệp nhânhiện ra trong một thời gian rồi hoại diệt – Cho nên có chi đáng để tham luyến hoặc chán nản? Luôn luôn phải có thái độ an phậntùy duyên , giàu sang thì không tự đắc, nghèo nàn không đổi chi, gặp hoàn cảnh nào đều vui sống theo hoàn cảnh đó, sao cho giữ vững các khóa trình tụng niệm .

Nếu có gặp hoạn nạn, tật bệnh bất ngờ cũng không nên bối rối, mà chỉ nên niệm Phật nhiều hơn và nhớ quán sát ruộng vườn, nhà cửa, vợ con, đều là duyên giả tạm, không nên vì đó mà bận tâm. Ðược như vậy mới vững tiến trên đường về Cực-Lạc .

Thứ ba : XỨNG PHÁP HẠNH

Pháp tức là chân như pháp tánh đối với người (niệm Phật) tu Tịnh-Ðộ tức là niệm Phật tam muội.

Người tu Thiền, khi đi đứng nằm ngồi thì tâm phải xứng hợp với pháp chân như, còn hành giả của pháp môn Niệm Phật thì tâm lúc nào cũng phải an trụ trong câu Nam mô A-Di-Ðà Phật .

Chư vị Tổ sư đã dạy : Nếu tạm thời không trụ nơi chánh định, tức đồng như người đã chết. Bởi vì sao? Nếu không trụ vào câu Phật hiệu, tức là tâm thức đã bị trần cảnh cứơp đoạt, và pháp thân tuệ mạng cũng không còn. Cho nên đệ tử chúng con quyết luôn luôn an trụ vào câu Niệm Phật để tâm tánh lặng yên sáng suốt. Dễ cảm thông với Phật – và ngay trong đời sống đã vãng sanh rồi còn lâm chung được tiếp dẫn chỉ là chuyện của ngày sau.

Thứ tư : VÔ-SỞ-CẦU-HẠNH

Ðạo là chỉ cho tâm hạnh trong sạch không mong cầu điều chi. Bởi vì tất cả các pháp đều như huyễn, hễ sanh rồi diệt, diệt rồi lại sanh, có chi chân thật để mong cầu? Vả lại, các pháp thế gian đều tương đối trong họa có phước, trong phước có họa, cứ ẩn nương nhau như thế, cho nên người niệm Phật phải bình thản, ở cảnh thạnh suy, họa phước đều không động tâm.

Thí dụ, có một tăng sĩ ở nơi am tranh vắng vẽ, sự sống hẩm hiu, ít người thăm viếng, thì duyên đời tuy suy kém nhưng việc hành trì lại vững chắc. Ít lâu sau có người đến cúng dường, lần lần lập nên chùa lớn, tăng chúng đông đảo, chừng ấy phước duyên tuy thịnh nhưng phần giải thoát lại suy kém, vì bận rộn đối phó các việc bên ngoài nên xao lãng hành trì .

Hoặc có vị cư sĩ nọ có gia đình bần hàn nên kham nhẫn, giữ lòng tin mà tu niệm, bỗng nhiên gặp duyên may, có người giúp đở buôn bán, về sau công việc làm ăn tấn tới thì không còn thì giờ để thực hiện nếp sống tâm linh.

Cho nên, nếu quán xét cho thật kỹ lưỡng, thì cái lẽ họa phước đều là tạm bợ, và người niệm Phật đừng nên mong cầu gì hết ngay cả điều thiện cũng không ham, chỉ nên thường xuyên chấp chặt câu Nam mô A-Di-Ðà Phật, còn ngoài ra các việc khác kể cả việc vãng sanhthành Phật đều nên phó thác cho đức Phật A-Di-Ðà. Về mặt đời sống hằng ngày thì hãy nên dùng tấm lòng tri ân để cư xử với tất cả mọi người .

Ðệ tử chúng con tự nghĩ mình vốn tội dày phước mỏng, căn cơ hèn kém, lại sanh nhằm thời mạt pháp, cho nên cứ mỗi lần nhìn lại bản thân thì buồn tủi và hổ thẹn. Khi dấn bước vào khu rừng bát ngát mênh mông của Phật Pháp thì vô cùng bỡ ngỡ không biết phải chọn lối đi nào, vì bất cứ lối đi nào cũng qúa hiểm trở và xa xuôi, mà khả năng của chúng con thì bị giới hạn bởi nghiệp chướng.

Hạnh phúc thay cho chúng con, đức Thế Tôn đã mở bi nghiệp triệt để và đã chỉ bày Pháp Môn Niệm Phật để đưa chúng con lên bờ giải thoát. Với hành trang là sáu chữ Nam mô A-Di-Ðà Phật , chúng con mạnh mẽ bước lên con đường về Cực-Lạc , nhưng những nghiệp nhân đã gieo từ quá khứ vẫn còn tác động đến đời sống cùng tâm thức. Cho nên chúng con mãi mãi khẩn cầu chư Phật chư Bồ-tát ban cho chúng con đầy đủ năng lực, đầy đủ lòng yêu thương để chúng con luôn luôn tỉnh thức và ghi nhớ rằng : Niệm Phật phải an nhẫn các chướng duyên như là yếu chỉ thứ chín của Pháp môn Niệm Phật .

 

Nam mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Niệm Phật

Nam mô A-Di-Ðà Phật 

Nam mô Quan Thế Âm Bồ tát

Nam mô Ðại Thế Chí Bồ tát

Nam mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ tát 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19716)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23974)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41228)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19706)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24011)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21750)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23317)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27512)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26579)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29327)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33211)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20210)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25790)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20925)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31334)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38589)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21451)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44280)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29838)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42227)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22147)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45788)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32129)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23974)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24399)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29287)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33933)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27693)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32154)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21074)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28859)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21600)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28090)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22085)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21448)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19517)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19479)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19844)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19266)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29207)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20629)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28309)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23656)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33206)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31853)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21393)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39637)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21567)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19387)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26413)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24841)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21760)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22400)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29144)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22563)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20477)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23536)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21248)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35345)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24555)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant