Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5. Chương 38-42

22 Tháng Ba 201100:00(Xem: 9537)
5. Chương 38-42

KINH TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG
Thích Viên Giác dịch và giảng

Chương 38-42

Chương 38

I. Chánh Văn

Ðức Phật hỏi một vị Sa môn: "Sinh mạng của con người tồn tại bao lâu?". Ðáp rằng: "Trong vài ngày". Phật nói: "Ông chưa hiểu Ðạo". Ðức Phật lại hỏi một vị Sa môn khác "Sinh mạng con người tồn tại bao lâu?". Ðáp: "Khoảng một bữa ăn". Phật nói: "Ông chưa hiểu Ðạo". Ðức Phật lại hỏi một vị Sa môn khác nữa: "Sinh mạng con người tồn tại bao lâu?". Ðáp: "Khoảng một hơi thở". Phật khen: "Hay lắm! Ông là người hiểu Ðạo".

II. Ðại Ý

Mạng sống con người rất mong manh, chỉ trong một hơi thở, thở ra mà không thở vào là qua đời khác.

III. Giảng Nghĩa

Chương này Ðức Phật trắc nghiệm trình độ tu tập và khả năng nhận thức về vô thường. Những vị Sa môn đã trả lời khác nhau, bày tỏ sự nhận thức sâu cạn của mình. Vị thứ nhất đã hiểu cuộc đờivô thường, mạng sống con người cũng vô thường, nhưng ông nghĩ rằng thời gian vài ngày là nhanh rồi. Vị thứ hai cho là một bữa ăn, tức khoảng nửa tiếng, tưởng rằng như vậy là ngắn lắm rồi, nhưng Ðức Phật vẫn chưa chấp nhận. Vị thứ ba đáp rằng chỉ trong hơi thở và được Phật khen ngợi, vì 2 lý do:

1) Về mặt nguyên lý: sự vô thường diễn ra trong từng giây phút (sát na vô thường).

2) Về mặt tu tập: sự quán chiếu về vô thường của thân mạng là để loại bỏ sự thấy sai lầm về thân (thân kiến), để thấy rõ bản chất thực của thân là vô ngã, thì hành giả phải thấy sự diễn biến liên tục của thân qua hình ảnh cụ thểhơi thở. Sinh mạng thay đổi qua từng hơi thở. Nói một cách ấn tượng thì thở ra mà không thở vàochấm dứt, như người xưa nói: "Nhất tức bất hồi thiên thu vĩnh biệt".

Thật ra, không phải khi ta nhắm mắt xuôi tay mới gọi là chết, mà ta đã chết qua từng sát na (thời gian rất ngắn), sinh mạng thay đổi rất nhanh, chỉ có những người hiểu Ðạo biết quán chiếu mới hiểu rõ.

IV. Nhận XétKết Luận

1) Chương này Ðức Phật trắc nghiệm trình độ tu tập của các vị Sa môn về chủ đề cơ bản là sự vô thường của sinh mạng.

2) Sinh mạng con người chuyển biến liên tục, sự tồn tại rất ngắn, chỉ trong thoáng chốc. Ðó là sự thực. Thấy được lý thật này, sự ảo ảnh về thân, chấp thủ bản ngã mới có thể rơi rụng.

Chương 39

I. Chánh Văn

Ðức Phật dạy: "Người tu học theo con đường của Phật thì phải tin tưởngthực hành những lời Phật dạy. Thí dụ ăn mật, ở giữa hay chung quanh bát đều ngọt. Giáo pháp của ta cũng vậy" (đều có vị ngọt giải thoát).

II. Ðại Ý

Ðệ tử Phật thì phải có niềm tin đối với Ðức Phật và Giáo Pháp

III. Giảng Nghĩa

Chương này đề cập đến niềm tin của người đệ tử đối với bậc Ðạo sư. Người đệ tử muốn thành tựu kết quả tu tập phải có niềm tin vào ông thầy, vào lời dạy của thầy; nếu không, tâm hoài nghi sẽ cản trở, chướng ngại cho sự tu tập. Ðiều này rất quan trọng cho lộ trình tu tập Thiền Ðịnh (Ðại hành tâm). Yêu cầu của chương này là phải có niềm tin tuyệt đối, đối với lời dạy của Phật, tất cả những lời dạy của Ngài đều sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, đều có hương vị giải thoát.

Ðiều đó không có nghĩa là tin theo một cách mù quáng, vô điều kiện. Niềm tin đó phải xuất phát từ sự thấy rõ, như trong kinh Kàlama. Ðức Phật dạy: "Này các Kàlama, đừng để bị dẫn dắt bởi những báo cáo, hay bởi truyền thống, hay bởi tin đồn. Ðừng để dẫn dắt bởi thẩm quyền kinh điển hay bởi lý luận suông, hay bởi suy lý, hay bởi sự xét đoán bề ngoài, hay bởi vì thích thú trong những lý luận , hay bởi những điều tuồng như có thể xảy ra, hay bởi ý nghĩa "Ðây là bậc Ðạo sư của chúng ta". Nhưng này các Kàlama, khi nào các ông tự biết mình biết chắc chắn rằng những việc ấy là Thiện, là tốt, hãy chấp nhận theo chúng". (Tăng Chi, Kinh Tứ Sát, Trung Bộ 1)

Người tu tập đôi khi thiếu sự sáng suốt, dễ bị mê hoặc bởi uy tín của Ðức Phật do người khác lợi dụng, sẽ đi vào con đường tà đạo mà cứ nghĩ rằng mình đã đi đúng chánh pháp.

Niềm tin đối với bậc Ðạo sư là cần thiết cho sự tu tập, nhưng phải được xét nghiệm bằng trí tuệ để phân biệt ở đâu là Phật dạy, ở đâu là trá ngụy, nhất là trong thời kỳ không có Phật xuất hiện như thế giới hôm nay.

Giáo điển của Ðức Phật xuất phát từ trí tuệ siêu việt của Ngài nên toàn thiện viên mãn. Vì vậy, toàn bộ giáo lý đều có một mục đích duy nhất như Pháp Hoa Kinh nói: "Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến". Chỗ khác, Ðức Phật dạy: "Nước trong 4 biển tuy nhiều, nhưng chỉ một vị là vị mặn. Giáo pháp của ta cũng vậy, chỉ có một vị là vị giải thoát". Thí dụ bát mật ở giữa hay 2 bên đều ngọt là vậy.

IV.Nhận XétKết Luận :

Ðệ tử của Phật tu tập dưới sự dẫn dắt của bậc Ðạo sư phải có niềm tin tuyệt đối đối với giáo pháp, vì giáo pháp chỉ có một vị là vị giải thoát.

Chương 40

I. Chánh Văn

Ðức Phật dạy: "Sa môn hành đạo đừng như con trâu kéo vất vả; thân tuy có tu tậptâm không tu tập. Nếu tâm có tu tập thì không cần thân tu tập (hình thức bên ngoài).

II. Ðại Ý

Tu tập chủ yếu là nội tâm chớ không phải là hình thức bên ngoài.

III. Giảng Nghĩa

Chương trước đề cập đến niềm tin đối với bậc Ðạo sư, đối với giáo pháp để mà tu tập. Chương này đề cập đến vấn đề tu tập trong tâm chứ không phải hình thức bên ngoài. Con trâu làm việc vất vả thân xác, trong tâm nó không có nội dung gì. Người tu hành, bề ngoài tu tập vất vả, nhưng không có tiến bộ nội tâm thì chẳng khác con trâu chỉ biết cày bừa.

Ðạo Phật chú trọng tu tâm dưỡng tánh, lấy niềm vui Ðạo (hạnh phúc bên trong) làm khích lệ cho con dường tu tập đoạn trừ phiền não.

Chương này cảnh giác những người tu hành chỉ lo chỉnh đốn oai nghi hình thức mà quên tu tập bên trong tâm thức, kết quả chẳng ích gì.

Khi trong tâm đã thanh tịnh, đã giác ngộ thì chẳng cần phải tu tập gì nữa, như câu nói truyền thống: "Những việc nên làm đã làm, không còn tu học gì nữa". Ý nói là bậc vô học A La Hán.

IV. Kết Luận

Người tu hành chú trọng thanh lọc tâm thức, đoạn trừ phiền não, chứ không chú trọng hình tướng tu tập bên ngoài. Tu tập bên trong mà thành công rồi thì chẳng cần phải tu tập gì nữa.

Chương 41

I. Chánh Văn

Ðức Phật dạy: "Người hành Ðạo giống như con trâu chở nặng đi trong bùn sâu, mệt lắm mà không dám nhìn hai bên, ra khỏi bùn lầy rồi mới có thể nghỉ ngơi. Người Sa môn phải luôn quán chiếu tình dục còn hơn bùn lầy, một lòng nhớ Ðạo mới có thể khỏi bị khổ vậy.

II. Ðại Ý

Chướng ngại chủ yếu của sự tu tậptình dục, phải chánh niệm tĩnh giác thường trực mới khỏi sa ngã.

III. Giảng Nghĩa

Chương này đề cập đến sự chướng ngại chủ yếu của một vị Sa môn trên lộ trình tu tậptình dục, khi mà cội nguồn của tình dục chưa đoạn trừ, thì người tu hành phải luôn luôn chánh niệm tĩnh giác để đoạn trừ, không được khinh thường chủ quan như đã được nhấn mạnh ở các chương trước, chẳng khác nào con trâu mang vật nặng trên lưng đi vào con đường bùn lầy, phải nhất tâm cẩn thận vượt ra khỏi đường lầy rồi mới nghỉ ngơi.

Ðối với tình dục nói riêng, đối với phiền não tham, sân, si nói chung, đoạn trừ chúng là như đặt gánh nặng xuống. Tùy theo căn trí của mỗi người mà sự đoạn trừ tham dục kết quả chậm hay nhanh. Trong kinh Tăng Chi, Ðức Phật đề cập đến 4 hạng người:

- Hạng đạo hành khổ, thắng trí chậm.
- Hạng đạo hành khổ, thắng trí nhanh.
- Hạng đạo hành lạc, thắng trí chậm.
- Hạng đạo hành lạc, thắng trí nhanh.

Nghĩa là:

1- Người bản tính tham dục cường thịnh, bị khổ bởi tính tham dục đó. Người ấy khả năng yếu, ngũ căn tín, tấn, niệm, định, tuệ, yếu nên khả năng yếu, chậm chạp trong quá trình đoạn diệt các lậu hoặc.

2- Người bản tính tham dục cường thịnh bị khổ bởi tính tham dục đó. Người ấy năm căn tín, tấn, niệm, định, tuệ, dồi dào, khả năng mạnh, nên nhanh chóng đoạn diệt các lậu hoặc.

3- Người bản tính tham dục không cường thịnh, không bị khổ bởi tính tham dục. Nhưng năm căn tín, tấn, niệm, định, tuệ yếu nên khả năng yếu, chậm chạp trong quá trình đoạn diệt các lậu hoặc.

4- Người bản tính tham dục không cường thịnh, không bị khổ bởi tham dục. Người ấy năm căn tín, tấn, niệm, định, tuệ mạnh, nên có khả năng nhanh chóng đoạn diệt các lậu hoặc.

Tóm lại, sự đoạn trừ tình dục, sân hận, ngu si, tùy thuộc vào khả năng tinh thần (5 căn) của mỗi người chứ không tùy thuộc vào tình dục mạnh hay yếu.

IV. Kết Luận

1) Thí dụ con trâu chở nặng đi trong bùn sâu, rất phù hợp với trường hợp người tu hành chưa đoạn trừ ái dục.

2) Người tu hành luôn chánh niệm tĩnh giác, làm chủ thân, khẩu, ý thường xuyên mới có thể đoạn trừ tham dục.

 

Chương 42

I. Chánh Văn

Ðức Phật dạy: "Ta xem địa vị vương hầu như bụi qua kẽ hở, đem vàng ngọc quý giá như ngói gạch, xem y phục tơ lụa như giẻ rách, xem đại thiên thế giới như một hạt cải, xem cửa phương tiện như các vật quý giá hóa hiện, xem pháp vô thượng thừa như mộng thấy vàng bạc lụa là, xem Phật đạo như hoa đốm trước mắt, xem thiền định như núi Tu Di, xem Niết Bàn như ngày đêm đều thức, xem phải trái như sáu con rồng múa, xem pháp bình đẳng như nhất chân địa, xem sự thịnh suy như cây cỏ 4 mùa".

II. Ðại Ý

Thái độ của bậc giác ngộ là xả ly toàn bộ tham áichấp thủ đối với các pháp.

III. Giảng Nghĩa

1. Chú thích từ ngữ, thuật ngữ:

Ðại thiên thế giới: (còn gọi là tam thiên đại thiên thế giới) theo vũ trụ quan Phật giáo thì 1000 thế giới bằng một tiểu thiên thế giới,1000 tiểu thiên thế giới thành một trung thiên thế giới, 1000 trung thiên thế giới thành một đại thiên thế giới. Ở đây muốn nói đến cái lớn rộng so sánh với vật nhỏ bé như hạt cải.

Ao A Nậu (Anavatapta) dịch là Vô nhiệt não, ao này ở trên núi Hy Mã Lạp Sơn, nguồn của con sông Hằng và các con sông khác ở Ấn Ðộ. Theo truyền thuyết nước ao đó là nước thiêng có 8 công đức: lắng sạch, trong mát, ngọt ngon, nhẹ diệu, nhuần trơn, an hòa, trừ đói kháttội lỗi, bổ khoẻ về thể xác và tinh thần.

Pháp vô thượng thừa: pháp Ðại thừa, con đường dẫn đến Phật quả.

Phật đạo: con đường thành tựu quả vị Phật.

Núi Tu Di: còn gọi là núi diệu cao đó là hòn núi trung tâm của một thế giới. Ðó là ngọn núi lớn nhất không có núi nào lớn hơn, vì vậy dùng để thí dụ cho điều gì lớn lao, vững chãi.

Niết bàn: (Nirvana) còn gọi là Nê Hoàn.

Nir: ra khỏi, vana: rừng, tức là ra khỏi rừng phiền não. Niết bàn còn có nhiều tên gọi khác như Diệt (diệt phiền não), Diệt độ (dứt sinh tử), Tịch diệt (lặng lẽ tịch tịnh), Bất sanh (không còn sanh tử), Vô vi (không tạo tác nghiệp), an lạc, giải thoát ...

2. Giải thích nội dung:

Chương 42 là chương cuối cùng của Kinh Tứ Thập Nhị Chương, được coi là bản tổng kết của bộ kinh, nghĩa là đúc kết nội dung tư tưởng của toàn bộ kinh để rút ra một kết luận cốt lõi.

Chương này trình bày 13 đối tượng chấp thủ của mọi người dưới nhãn quan của bậc giác ngộ viên mãn, cho thấy trí tuệ siêu việt vượt thoát khỏi sự trói buộc tâm lý tham áichấp thủ, điều này tiêu biểu cho sự giải thoát. Trong nguyên bản kinh xưa thì chương này được trình bày 3 đối tượng mà thôi, còn bản kinh này thì thêm vào khá nhiều gồm 13 điều, có điều hay và những điều không cần thiết.

Ba đối tượng đầu là đối tượng của lòng tham ái:

1) Xem địa vị vương hầu như bụi qua kẽ hở: Bụi qua kẽ hở rất nhỏ bé, dao độngvô thường. Ðịa vị công danh là đối tượng ham muốn của số đông, vì thế mà sinh tranh chấp, phiền muộn. Bậc giác ngộ vì đã thấy bản chất của vũ trụ nên họ không còn tham đắm danh vị.

2) Xem sự quí giá của vàng ngọc như gạch ngói: Vàng bạcsinh mệnh của con người như người ta vẫn nói: "Tiền tài là huyết mạch". Vì vậy con người phải vất vả tìm kiếm, có khi phải hy sinh thân mạng, danh dự, tình cảm ... Tìm kiếm được rồi lo giữ gìn để đừng mất mát. Bậc giác ngộ xem những thứ quý giá ấy chẳng khác nào ngói gạch, không có gì đáng kể.

3) Xem y phục tơ lụa như giẻ rách: Ham chuộng trang sức, làm đẹp cơ thể, thỏa mãn tự ngã là điều quan trọng của nhiều người. Vì vậy, y phục tơ lụa được quan tâm coi trọng. Ðối với bậc giác ngộ thì sự quý giá của y phục bằng lụa là không tác động đến tâm tư, xem nó với giẻ rách không khác.

Ba điều này được coi là nhóm thứ nhất, là đối tượng tham ái của chúng sinh.

4) Xem đại thiên thế giới như hạt cải: Ðại thiên thế giới là nói đến cái rộng lớn bao la của vũ trụ vạn hữu, đối với hạt cải là vật nhỏ, quá nhỏ. Khái niệm phân biệtchấp trước vào cái lớn, cái nhỏ không phù hợp với chân lý duyên sinh – Người giác ngộ thấy sự vật bình đẳng – Ðiều này có một thiền sư đã nói:

"Càn khôn tận thị mao đầu thượng
Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung"

(Trời đất rút lại bằng đầu sợi lông; mặt trời, mặt trăng có thể nằm lọt trong một hột cải - thiền sư Huyền Giác trong chứng Ðạo Ca).

5) Xem nước ao A Nậu như dầu thoa chân: Hình ảnh đối nghịch khác là ao A nậu và dầu thoa chân, một bên là nước Thánh linh thiêng trong sạch, một bên là dầu thoa chân phòng rắn rít của người Ấn Ðộ xưa. Giữa cái sạch, cái dơ người đời phân biệt rất rõ. Nhưng dưới nhãn quan của bậc giác ngộ thì chúng là một, "Bất tăng bất giảm, bất cấu bất tịnh" của kinh Bát nhã.

Hai đối tượng 4 và 5 thuộc nhóm thứ hai, là đối tượng chấp thủ của người tu hành còn thấp, hoặc là kiến chấp của hàng trí thức học giả.

6) Xem cửa phương tiện như các vật quý được hóa hiện: Phương tiện là cách xử trí khôn khéo để dẫn dắt chúng sinh vào con đường Ðạo hay nói cách khác sử dụng những phương thức khác nhau, tùy theo điều kiện thực tế đạt được mục đíchvì vậy phương tiệnbiện pháp tạm thời không thật cũng như các vật quý giá, tuy quý nhưng là đồ hóa hiện không thật.

7) Xem pháp vô thượng thừa như mộng thấy vàng lụa: Vô thượng thừa là cỗ xe lớn hơn bất cứ loại xe nào, cũng gọi là Ðại thừa, tức xe lớn đưa chúng sinh đến Phật quả, cao siêu hơn cửa phương tiện ngụ ý là của thanh văn, duyên giác. Ðây là lộ trình của Bồ Tát thừa, mặc dù nó quý thật nhưng chỉ trong cơn mộng không thật.

8) Xem Phật đạo như hoa đốm trước mắt: Phật đạo hay là Phật quảmục tiêu của Ðại thừa Bồ Tát, tu tập đạt đến Phật quảhoàn tất mục đích của mình. Tuy nhiên đã là con đường hay quả vị thì vẫn không thật, chỉ là giả lập, giả thuyết. Do có sự đối đãi mà gọi là Phật đạo, ma đạo. Giống như hoa đốm trước mắt là do bệnh mắt mà có, nếu hết bệnh thì còn gọi hoa đốm là gì nữa?

9) Xem thiền định như núi Tu Di: Núi Tu Di cao lớn và vững chãi, thiền địnhtâm thức tập trung cao độ, ổn định và vững chãi. Mục đích của thiền địnhtrí tuệ đoạn trừ lậu hoặc chứ không phải mục đích an ổn vững chãi. Vì vậy đối với thiền định, bậc giác ngộ chỉ xem núi Tu Di không quan trọng gì mấy, chỉ được cái vững chãi mà thôi. Chấp thủ vào đó thì không ích gì.

10) Xem Niết bàn như ngày đêm đều thức: Niết bàntịch diệt, là chấm dứt phiền não, là mục tiêu của định tuệ. Ngày đêm đều thức có nghĩa là sự tỉnh thức thường trực. Ðối với bậc giác ngộ, Niết bàn không có gì là cao siêu huyền bí hoặc cảnh giới siêu nhiên nào đó mà chỉ là sự tỉnh thức thường trực.

Từ đối tượng thứ 6 cho đến đối tượng thứ 10 thuộc nhóm 3, là các đối tượng (Pháp xuất thế) chấp thủ của Nhị thừa, xuất thế. Tất cả chỉ là giả danh, giả lập không nên thủ trước.

11) Xem sự phải trái như sáu con rồng múa: Phải trái là những đối cực của cuộc sống, người ta khổ vì thấy có phải có trái, ta phải người trái ... thực ra phải và trái là những khái niệm hết sức tương đối. Phải người này chưa hẳn là phải kẻ khác. Phải lúc này chưa hẳn là phải trong tương lai. Chẳng khác nào 6 con rồng múa một lượt nhưng không biết đâu là đầu là đuôi của con này hay của con kia. Do thấy vậy mà tự tại giải thoát.

12) Xem pháp bình đẳng như nhất chân địa: Nhất chân địa là từ chỉ cho địa vị chứng được thật tướng của vạn pháp. Pháp bình đẳng chính là nhất chân địa.

Ðiều 12 này nói vào đây là thừa, không cần thiết, lập lại các phần pháp xuất thế, hơn nữa đặt nó vào đây trở nên lạc lõng và vô nghĩa.

13) Xem sự thịnh suy như cây cỏ 4 mùa: Cuộc đời hết thịnh tới suy, hết suy tới thịnh, chẳng khác nào cỏ cây vào mùa Xuân thì đâm chồi nảy lộc, mùa Hạ xanh tốt, mùa Thu vàng úa, mùa Ðông tàn rụng. Ðó là qui luật tự nhiên muôn đời. Vì vậy, thái độ của bậc giác ngộthản nhiên trước sự đổi thay, thịnh suy của cuộc đờiVạn Hạnh thiền sư cũng nói:

"Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cỏ xuân tươi thu lại khô

Ngẫm cảnh thịnh suy đừng sợ hãi

Thịnh suy như sương đầu ngọn cỏ"

Bỏ qua một bên điều 12 là xem pháp bình đẳng như là nhất chân địa, vì lạc điệu và không hay. Còn lại điều 11 và điều 13 thuộc về nhóm 4, là đối tượng chấp thủ thường tình của con người, phải trái, thịnh suy. Người giác ngộ nhìn sâu vào lòng cuộc sống, thấy rõ bản chất vô thường bất định của mọi sự nên đối nhân xử thế một cách nhẹ nhàng thanh thản. Ðó là thái độ xả ly toàn diện.

IV. Nhận XétKết Luận

1. Trong 13 đối tượng dưới nhãn quan của bậc giác ngộ có thể chia làm bốn nhóm: một là điều 1, 2, 3 đối tượng của ái dục, tham ái. Hai là điều 4, 5 đối tượng của tư duy phân biệt, chấp thủ quan điểm, khái niệm. Ba là điều 6, 7, 8, 9, 10 đối tượng chấp thủ của các bậc Thánh nhị thừa. Bốn là điều 11, 13 (bỏ điều 12) đối tượng chấp thủ của con người nói chung về cuộc đời, về quan niệm sống.

2. Qua 13 đối tượng dưới nhãn quan của bậc giác ngộ, ta thấy thái độ xả ly toàn diện. Xả ly tham ái và chấp thủ. Ðây là con đường độc nhất vô nhị của Phật giáo và cũng là phần cốt lõi của sự tu tập trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương.

Hết

Ý kiến bạn đọc
22 Tháng Mười 201815:58
Khách
đây là bộ kinh quý báu mà tôi đã tìm rất lâu.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29897)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27180)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21770)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22233)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23605)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21949)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24757)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18990)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24765)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30976)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23992)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27765)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26516)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21320)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23231)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38137)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18800)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19978)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19048)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23173)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23886)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22814)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22917)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29583)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20646)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18711)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15848)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18862)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19685)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20159)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19956)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18126)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22943)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34168)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16424)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16920)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39253)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26079)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20099)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18859)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24066)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29145)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22904)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30967)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21011)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26857)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26268)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23327)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19819)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24684)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30047)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20227)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20408)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15839)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23903)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant