Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tôn giả Đại Ca Diếp

22 Tháng Ba 201100:00(Xem: 9391)
Tôn giả Đại Ca Diếp

GIẢNG GIẢI KINH DUY MA CẬT
Tác giả Lê Sỹ Minh Tùng

Chương Thứ Ba
Phẩm Đệ Tử
(The Disciples’ Reluctance to Visit Vimalakirti)
Hàng Thanh Văn


Tôn giả Đại Ca Diếp (Mahakàsyapa): 
Vấn Đề Khất Thực.

Tôn giả Đại Ca Diếp xuất thân là con nhà giàu có, phú hộ, nhưng khi xuất gia theo Phật lại kham nhẫn tu theo khổ hạnh đầu đà. Trên hội Linh Sơn, khi Phật cầm cành hoa sen đưa lên mà tất cả đại chúng đều ngơ ngác không biết ý nghĩa là gì, duy chỉ có tôn giả đắc ý nên cười chúm chím. Vì thế mới có câu:”Niêm hoa vi tiếu”. Tâm ông cảm thông với tâm Phật nên được Đức Thế Tôn phó chúc làm sơ tổ thiền tông của Phật giáo. Về sau đem y, bát của Phật Thích Ca vào núi Kê Túc mà nhập định và chờ đến khi Phật Di Lặc ra đời sẽ trao lại. Tôn giảđại đệ tửđức hạnh cao và chỉ đi khất thực nhà nghèo chớ không khất thực nhà giàu vì ông nghĩ rằng người nghèo là tại vì họ thiếu phước đức nên tôn giả đến khất thực là để tạo duyên cho họ có dịp bố thí mà tạo phước điền thì sau nầy sẽ được giàu sang sung sướng.

Khất thực là một hạnh trong mười hai hạnh đầu đà. Tôn giả mặc áo phấn tảo tức là chiếc áo được kết bằng những tấm giẻ rách lượm ở nghĩa địa và không được ngủ dưới gốc cây quá ba đêm vì sẽ sanh tâm tham. Ngài không giữ tiền, không có của cảitài sản duy nhất chỉ có tam y nhất bát mà thôi.

Có phải khất thực, đi xin ăn là làm biếng, là ăn bám xã hội chăng? Nếu như thế thì tại sao chính Đức Phật lại thực hành?

Theo Phật giáo muốn giải thoát tâm mình ra khỏi mọi hệ lụy của phiền não khổ đau thì người tu hành phải chấp nhận buông xả. Có thì phải lo phải giữ. Nhà càng lớn thì lo càng nhiều. Ngay cả chùa càng to thì phiền não cũng to theo. Vì thế đối với họ của cải vật chất thế gian là sợi giây vô hình cột chặt con người vào vòng sinh tử. Do đó sau khi thành Phật, chính Đức Thế Tôn cũng noi theo chư Phật đời trước mà đi khất thực. Tại sao? Bởi vì chư Tăng không giữ tiền bạc nên không mua bán, không nấu ăn. Hằng ngày họ đến từng nhà khất thực để mọi người có cơ hội bố thí mà tạo phước đứcnhân dịp đó chư Tăng nói pháp khuyên người nên tu tâm dưỡng tánh, làm lành lánh dữ…Khi đi khất thực họ không phân biệt thức ăn chay hay mặn, thí chủ cúng món gì thì họ thọ dụng món nấy. Nếu vị Tăng chỉ biết ăn chaythí chủ không biết cúng đồ mặn thì họ lấy tay che bình bát lại. Sau khi nhận thực phẩm họ luôn chú nguyện cho thí chủ phước huệ được tăng trưởng, thân tâm an lạc rồi tùy duyên mà nói pháp. Vì ngày xưa Đức Phật và chư đệ tử chỉ thọ trai mỗi ngày một lần nên cái bình bát tương đối hơi lớn cho nên họ phải đi nhiều nhà thì bình bát mới đầy. Khi thấy đủ thức ăn thì họ về tịnh xá hay nơi có gốc cây thanh tịnh, trộn chung các thức ăn với nhau để không còn phân biệt món nầy món khác, món ngon món dở, không phân biệt mùi vị rồi mới ăn. Đối với họ ăn để sống chớ không phải chạy theo mùi vị thơm ngon. Có được như thế thì mới phá nổi cái chấp. Tâm không còn dính mắc thì mới tu thanh tịnh được. Khất thực cũng là một phương pháp phá trừ ngã chấp, đánh tan tập khí ngã mạn. Không nấu nướng thì khỏi cần tiền mua bán cho nên chư Tăng dành nhiều thì giờ cho việc tu họcthiền định. Còn thí chủ thì có cơ hội bố thí tạo phước điền và được nghe những lời dạy bảotu hành mở mang trí tuệ. Như vậy khất thực rõ ràng là vì lòng từ bi, vì lợi ích cho chúng sinh, vì phương tiện tu hành, vì tự độ và độ tha và hai bên cùng lợi lạc nên khất thực không phải là lười biếng hay ăn bám xã hội. Sau khi thọ trai xong, chư tăng còn cả buổi chiều để nghe pháp, tu thiền hay niệm Phật…

Ngày nay những nước tu theo Phật giáo Tiểu thừa như Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện, Lào, Cam Pô Chia…thì chư Tăng vẫn còn khất thực. Họ quấn y và đi chân đất như thời Phật còn tại thế. Còn những nước theo Phật giáo Đại thừa như Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc…thì chỉ còn một số rất ít chư Tăng đi khất thực. Trong chùa có vị trụ trì chăm lo vấn đề tứ sự. Chư tăng không còn quấn y như Đức Phật mà mặc áo thụng như người Trung quốc. Như thế là tiến bộ hay thoái hóa? Tùy hảo ý của quý vị.

Bây giờ Đức Phật mới gọi tôn giả Đại Ca Diếp đến và bảo:

- Này Đại Ca Diếp! Ông hãy đến thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật vì ông ấy đang có bệnh.

Tôn giả thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh ông Duy Ma Cật. Vì con nhớ trước đây, một hôm nọ con đi khất thực trong một xóm nghèo, ông Duy Ma Cật gặp và nói cho con một thời pháp dài rằng:

- Thưa ngài Đại Ca Diếp! Ngài có tâm từ mà không phổ biến, chẳng bình đẳng đối với chúng sinh. Ngài chừa nhà giàu, tìm nhà nghèo mà khất thực. Thưa ngài Đại Ca Diếp! Hãy nên trụ ở pháp bình đẳng, khất thực theo thứ tự của xóm làng. Không phải vì ăn mà khất thực thì mới nên đi khất thực. Nhằm hoại diệt cái thân tướng hòa hiệp này mà bốc cơm ăn. Phải sử dụng cái ý tưởng không thọ nhận, mới thọ nhận thức ăn. Vào xóm làng, phải tưởng như đến chỗ không người. Thấy sắc mà như đui. Nghe thanh như nghe vang. Ngưởi hương như hít gió. Nếm vị nhưng không phân biệt. Thọ xúc như trí chứng. Biết tướng của các pháp như huyễn, xưa vốn không sanh cho nên nay không có diệt.

Trong bất cứ xã hội nào ngay cả tại Hoa kỳ thì người nghèo vẫn chiếm đa phần, nhưng chuyện giàu nghèo là chuyện của nhân quần xã hội, là chuyện của chúng sinhcon người chính là cái quả mà họ thọ nhận từ những cái nhân tác tạo từ bao đời trước. Nhưng nghèo không phải nhất thiết là khổ vì nếu biết sống “tri túc thiểu dục” thì cũng có an vui hạnh phúc như thường. Do đó cổ nhân có câu:”Thanh bần thường lạc” là có. Còn giàu chưa chắc là sung sướng. Nếu con người làm giàu bằng cách bất chánh, bất lương, bất nhân, bất nghĩa thì tuy bên ngoài là giàu có nhưng bên trong lúc nào cũng lo âu, sợ sệt và đau khổ triền miên. Vì thế cổ nhân cũng đối lại là “Trọc phú đa ưu” là vậy.

Như thế thì quan niệm giàu là người có đầy đủ phước đức và được hưởng nhiều hạnh phúc là sai và nói rằng nghèo là kẻ đáng thương nên cần sự giúp đở để cho họ hưởng được phần nào hạnh phúc cũng là sai. Đo đó đối với chư Tăng nên nhìn bằng tuệ nhãn chớ không đánh giá khổ vui qua hình thức tiền của giàu nghèo. Tâm bình đẳng là tâm không còn phân biệt và đây là do đạo đứcquả chứng của người tu mà được. Khi thấy có nghèo và giàu là còn kẹt trong vòng phân biệt nhị nguyên, còn so sánh đối đãi , còn chấp tướng, còn sống với vọng chứ chưa phải Chân. Nếu đi khất thực theo thứ tự ở xóm làng để tùy duyên hóa độ làm phước điền cho chúng sinhtâm không phân biệt giàu nghèo, sang khó thì tâm mới được an nhiên tự tạixóa bỏ biên giới nhị nguyên để quay về với tự tánh thanh tịnh bình đẳng nhất như.

Không phải vì ăn mà khất thực thì mới nên đi khất thực.

Thông thường có đói mới đi kiếm ăn vì thế nếu không ăn thì cần gì phải đi khất thực? Nhưng ở đây không phải vì ăn có ý nghĩa sâu xa là không quan tâm, chú ý đến miếng ăn. Ăn chẳng cần ngon dở, không chạy theo mùi vị thì tâm không dính mắc, thanh thoảng và tự tại. Ăn là để nuôi thân mà tu đạo chớ không phải ăn để tạo thêm phiền não hay bồi dưỡng, cung phụng thân thái quá mà gây ra nghiệp để chịu quả khổ về sau. Không phải vì ăn cũng có nghĩa là tâm không mong cầu miếng ăn mà mục đích khất thực là để phá trừ ngã chấp, phát triển tâm bình đẳng và làm phước điền cho tất cả chúng sinh. Nếu nói về Sự Tướng thì có khất thực, có người, có ta, có thức ăn, có cúng dường bố thí, nhưng nếu nói về Thể Tánh thì ta cũng không mà chúng sinh cũng không thì làm gì có chuyện cúng dường, bố thí hay đi khất thực. Chuyển Tâm thành Tánh thì làm cũng như không làm, khất thực cũng như không khất thực chính là việc làm của Bồ-tát. Vì Bồ-tát không còn chấp ngã chấp pháptâm bình đẳng nên họ rất an nhiên tự tại.

Nhằm hoại diệt cái thân tướng hòa hiệp này mà bốc cơm ăn.

Khi ăn con người thường đem món nầy chấm với món nọ để tăng thêm khẩu vị. Chẳng hạn như đem đậu hủ chấm với tương thì mặn mà hơn. Cái mà chúng ta nghĩ là mặn mà, ngon miệng hơn chính là sự phát triển của Thiệt Thức Giới tức là cái biết phân biệt của lưởi. Còn phân biệt là còn chạy theo vọng trần tức là tăng trưởng tính tham ăn. Mà còn tham là còn khổ, còn sinh tử luân hồi. Cho nên trước khi ăn, chư Tăng trộn chung tất cả thức ăn với nhau để không còn phân biệt ngon dở, không còn phân biệt mùi vị tức là phá tướng hòa hiệp rồi mới bốc ăn. Vì người Ấn Độ ăn bốc chớ không cầm đủa như người Việt Nam hay muổn nỉa như người Tây phương.

Phải sử dụng cái ý tưởng không thọ nhận, mới thọ nhận thức ăn.

Không thọ nhận có nghĩa là không lãnh thọ nhửng cảm xúc do trần cảnh bên ngoài tạo ra, tránh xa những cám dỗ của thế gian có nghĩa là không thấy thức ăn ngon thì vui, thức ăn dở thì buồn mà phải giữ tâm bình đẳng thanh tịnh tức là thí chủ cúng gì cũng vui vẻ mà nhận. Thật ra thì thọ nhận bất cứ sự cúng dường nào của thí chủ từ thức ăn, quần áo, thuốc men…thì chư Tăng phải coi như là nợ của thí chủ. Nếu không dụng tâm tu hành chân chánh và đem pháp thí đền bù lại thì làm sao trả nổi món nợ nầy. Có thấu hiểu như vậy mới dám thọ nhận thức ăn.

Như vậy nếu đứng về Sự Tướng thì thấy có người cúng dường và kẻ thọ nhận thức ăn. Nhưng dựa theo Lý Tánh thì không có người cho mà cũng chẳng có kẻ nhận. Do đó Lý Tánh là bên trong nên không thấy có nhận mà Sự Tướng bề ngoài thì có nhận thức ăn để làm phước điền cho chúng sinh.

Vào xóm làng, phải tưởng như đến chỗ không người.

Vào xóm làng là chỗ náo nhiệt đông người mà như đến chỗ không người, đồng trống có nghĩa là đừng nên chấp có ta và có người. Ta cũng không mà người cũng không thì tâm mới thanh tịnh. Nếu còn thấy có người thì còn phải đối đầu trong thì có nội ma và ngoài thì có ngoại chướng. Những cám dổ Tham-Sân-Si ái dục phiền não lúc nào cũng là những chướng ngại để phá hoại công phu tu hành. Vì thế vào xóm làng là đi vào đời để độ đời chớ đừng để đời lôi cuốn nhận chìm. Nên nhớ cuộc đời thì vô thường, trước có sau không, nay còn mai mất mà con người cứ cố gắng vơ vét, tích lũy, làm nô lệ cho lòng tham và gây khổ cho nhiều người. Nhưng họ quên rằng càng vơ vét, càng có nhiều của cũng giống như kẻ mang đá mà nhảy xuống sông, làm sao bơi nổi.

Thấy sắc mà như đui. Nghe thanh như nghe vang. Ngưởi hương như hít gió. Nếm vị nhưng không phân biệt.

Khi lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) tiếp xúc với lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) thì tâm phát sinh trí phân biệt. Chẳng hạn như khi mắt thấy cái nhà thì tâm liền phân biệt là nhà nầy thì lớn hay nhỏ, đẹp hay xấu…Tai mỗi khi nghe tiếng khen thì thích nghe tiếng chê thì buồn. Lưỡi nếm mùi vị thơm ngon thì khoái ăn, muốn ăn cho nhiều còn nếu nếm mùi vị đắng, tanh hôi thì khạc nhổ, bực mình khó chịu. Vì thế nếu mắt thấy sắc mà như đui, tai nghe âm thanh mà như điếc…thì tâm không còn phân biệt đẹp xấu, ngon dở…, không còn chấp trước, không luyến theo trần cảnh, không ưa, không ghét, không tham, không đắm và đây chính là sống với pháp bình đẳng vậy. Cho nên trong kinh Kim Cang cũng có câu:”Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” tức là đừng để tâm mình dính mắc là vậy. Lục căn tiếp xúc lục trần sinh ra lục thức mà căn, trần và thức đều là duyên giả hợp nên tất cả là vô thường vô ngã. Nhưng nếu không có sự phân biệt đẹp xấu hay ngon dở thì cuộc sống còn ý nghĩa chăng? Khi lưỡi chúng ta nếm một món ăn nào thì dĩ nhiên lưỡi biết thức ăn đó là ngon hay dở vì phản ứng của trực giác nhưng không phân biệt theo Phật giáo có nghĩa là tuy lưỡi nếm vị ngon biết ngon vị dở biết dở nhưng đừng để tâm phát khởi ý niệm để luyến theo cái ngon và chán ghét cái dở thì đây cũng như nếm mà không biết mùi vị là vậy. Cũng như khi mắt thấy một chiếc xe thì dĩ nhiên chúng ta biết chiếc xe đó đẹp hay xấu nhưng tâm không dấy niệm tham luyến muốn chiếm lấy cái xe đẹp thì thấy mà như đui là thế.

Thọ xúc như trí chứng. Biết tướng của các pháp như huyễn, xưa vốn không sanh cho nên nay không có diệt.

Như trí chứngtrí thật, là chân lý. Khi có sự xúc chạm thì phát sinh ra cảm giác. Mà cảm giác là có vui, có buồn, có thích, có chán và đây chính là hệ quả của tình cảm mông lung của con người đưa đến phiền não khổ đau. Bây giờ con người cũng cảm thọ những cảm xúc đó mà không chạy theo tình cảm mà quay về với cái trí chứng như thật. Bởi vì tất cả cái xúc chạm chúng ta đều thấy nó như là huyễn hóa, không có thật cho nên tâm sẽ không còn ô nhiễm. Vì các pháp là huyễn, không thật, không tự tánh tức là Không. Mà đã là Không thì làm gì có thỉ có chung.

Còn nữa, thưa ngài Đại Ca Diếp! Có thể không cần rời bỏ bát tà mà được bát giải thoát. Ngay nơi tà pháp mà thế nhập chánh pháp. Một chút thức ăn có thể đem bố thí cho tất cả, có thể cúng dường chư Phật và các hiền thánh, sau đó mới đáng ăn.

Bát tà là đối ngược lại với Bát Chánh Đạo vì thế Bát tà gồm có: Tà kiến, Tà tư duy, Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng, Tà tinh tấn, Tà niệm và Tà định. Còn Bát giải thoát cũng được gọi là Bát Bội Xảtám pháp thiền địnhcông năng xa lìa tất cả phiền nãothoát khỏi những phiền trược trong ba cõi.

Nếu đứng về pháp tướng tương đối mà nói thì có chánh có tà, có thiện có ác, có tốt có xấu và dĩ nhiên còn thấy đau khổ bất tịnh. Chân lý mà ông Duy Ma Cật giới thiệu ở đây là Lý Tánh tuyệt đối có nghĩa là trong Bản Thể Chân Như không hề có biên giới của nhị nguyên để không còn phân biệt chánh với tà, thiện với ác hay tốt với xấu…vì chánh tà, thiện ác, tốt xấu vốn không hai tức là một.Vì thế môt khi chúng sinh sống với nguyên lý nhất như thì từ nơi phiền não mà họ sẽ tìm thấy Bồ-đề, ngay trong cuộc sống sinh tử khổ đau nầy mà họ vẫn tìm thấy Niết bàn và ở trong tất cả mọi chúng sinh mà họ vẫn tìm thấy Phật tính thanh tịnh. Cũng như khi cát bụi lắng xuống thì thấy nước trong ở trong lu nước đục và thấy hoa sen hương thơm tinh khiết ở trong ao bùn lầy tanh hôi dơ dáy. Nguyên lý bất nhị tức là tinh thần bình đẳng của nhà Phật bởi vì đến đây chúng sinh sẽ không còn thấy bên kia tà, bên nầy chánh. Bên kia pháp trói buộc và bên nầy là pháp giải thoát. Khi không còn kẹt bên nầy, bên kia thì từ một thức ăn mà có thể đem bố thí cho tất cả đó chính là chỉ cho sự bình đẳng không sai khác có nghĩa là tất cả là một và một là tất cả.

Ông Duy Ma Cật nói tiếp:

Ăn bằng cách như vậy, sẽ không có phiền não cũng không rời phiền não. Không dụng ý nhập định cũng không dụng ý xả định. Không trụ thế gian cũng không trụ Niết bàn.

Người thí chủ không có phước lớn cũng không có phước nhỏ, không thêm công đức cũng chẳng mất công đức. Đây là con đường vào Phật đạo thừa chân chánh, không chờn vờn khập khiểng ở cỗ xe bé bỏng của Thanh văn.

Các câu nầy đều tiến về cái nhất tướng bình đẳng để không còn có phiền não hay thoát ly phiền não. Cũng không có nhập địnhxuất địnhdĩ nhiên cũng không có trụ thế gian và trụ Niết bàn. Khi đã tới chỗ bình đẳng thì tất cả tuy hai nhưng mà một. Ngay cả cái nhìn đối với người thí chủ bây giờ cũng rất bình đẳng cho nên họ cũng chẳng có phước lớn hay phước nhỏ và công đức cũng chẳng thêm mà cũng chẳng mất vì lớn nhỏ, mất còn vốn bất nhị tức là một. Tâm bình đẳng là tâm Bồ-tát để giúp chúng sinh sớm viên thành Phật đạo mà không còn kẹt trong vòng phân biệt đối đãi như các vị A La Hán trong hàng Thanh văn.

Thưa ngài Đại Ca Diếp! Nếu được như thế mà ăn thì mới không luống uổng thức ăn của người thí chủ cúng dường.

Tôn giả Đại Ca Diếp vì thương người nghèo mà đến khất thực để giúp họ tạo phước điền tức là còn tâm phân biệt đối đãi giàu nghèo. Đôi khi các vị A La Hán trong hàng Thanh văn hay các vị Bích Chi Phật trong hàng Duyên giác thấy đời đầy phiền não khổ đau và chúng sinh nghiệp chướng sâu dày nên họ sợ ô nhiễm, không dám vào đời cứu độ mà rút tận vào chốn rừng sâu để riêng hưởng Niết bàn và đưa Phật giáo vào chỗ bế tắc. Lúc Đức Phật còn tại thế đã quở những hành động nầy là mầm thối nát không mang lại lợi ích cho thế gian. Do đó sau khi thấu hiểu tư tưởng đại thừacông hạnh vị tha của chư Bồ-tát thì tôn giả Đại Ca Diếp phát tâm cung kính từ nay sẽ tu theo Bồ-tát đạo và nguyện thực hành các hạnh lành để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Ngày xưa mỗi khi đi khất thực ông thường đem hạnh Thanh văn, Bích Chi Phật khuyên dạy người, nay biết rằng tư tưởng Tiểu thừa chưa phải rốt ráo nên nguyện chỉ đem thuyết đại thừa để giúp chúng sinh phát Bồ-đề tâm, tu theo Bồ-tát đạo và sớm được viên thành Phật đạo. Vậy sự khác biệt của hai tư tưởng Tiểu thừaĐại thừa về khất thực như thế nào?

Đối với chư Bồ-tát thì quan điểm về khất thực phải có những ý nghĩa sau đây:

1)Người khất thực phải coi miếng ăn là phụ mà giáo hóa chúng sinh mới là chính.

2)Phải xem việc tạo phước cho chúng sinh là phụ mà dạy cho chúng sinh phát Bồ-đề tâm đi vào Phật đạo mới quan trọng bởi vì pháp liễu nghĩa thượng thừa không chủ trương cúng dường để được phước đức mà pháp nầy cũng không chủ trương chú nguyện ban phước đức cho người cúng dường.

3)Thuyết pháp cho chúng sinh là phụ mà đoạn trừ phiền não vô minh cho chính mình mới là tối quan trọng vì có tự giác mới giác tha được.

4)Dạy cho chúng sinh thành Phật là phụ mà tăng tiến bồi dưỡng trí tuệ Phật cho mình mới là chính.

Tư tưởng Duy Ma Cật đã phân tích rõ ràng những tiến trình của người bố thí và kẻ nhận dựa vào pháp Nhất Thừa Phật Đạo để khai thị cho tôn giả Đại Ca Diếp thấy sự rốt ráođạt đến cứu cánh cho cả người bố thí và kẻ nhận là cùng viên thành Phật đạo.

Bạch Thế Tôn! Ông Đại Ca Diếp thưa. Lúc con nghe bài pháp ấy rồi, con được cái chưa từng có. Ngay lúc đó con sanh tâm cung kính chư Bồ-tát một cách thân thiết chân thành. Vì con nghĩ rằng, ngoài địa vị Bồ-tát, không ai có trí tuệ biện tài thâm diệu như thế. Thảo nào người nghe ai mà chẳng phát tâm vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Từ đó về sau con không khuyên dạy ai học tu theo pháp của Thanh văn, Bích chi Phật nữa. Vì lẽ đó con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.

Tôn giả Đại Ca Diếp nhận thức được sự thua kém của mình mà không lấy đó làm điều xấu hổ. Chẳng những thế ông còn chú nguyện phát tâm đại thừa, từ bỏ con đường ích kỷ nhỏ hẹp mà tiến về đại lộ bao dung rộng lớn để cùng mang lại lợi ích cho mình và cho tất cả chúng sinh. Có phá được chấp ngã, chấp pháp thì mới đạt được tâm bình đẳng của Bồ-tát. Nhưng tại sao tôn giả không dám đi thăm bệnh?

Muốn đại diện cho Đức Phật đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật tức là vị sứ giả của Phật thì người đó phải có trí tuệ sáng suốt tột cùng, có biện tài vô ngại để làm rạng danh cho Đức Thế Tôn. Những điều đó các vị A La Hán không thể có được. Vì thế mà ông từ chối không dám lãnh trách nhiệm nầy mà dành vai trò danh dự cho vị nào có đủ tài đủ đức mà thôi. Một lần nữa đoạn kinh nầy đã chứng minh sự giác ngộ từng phần của hàng Thanh văn không thể nào so sánh với trí tuệ viên mãn của chư Bồ-tát được.

Đối với tư tưởng Tiểu thừa thì người bố thí có được phước còn người nhận của bố thí là người mang nợ. Do đó kẻ cho thì cầu mong được nhiều phước đức còn kẻ nhận thì phải cố gắng tu hành để trả nợ đàn na thí chủ. Vì thế hai bên đều bị ràng buộc không tự tại được. Bây giờ tư tưởng Đại thừa mở rộng cho chúng sinh một lối nhìn mới, không còn bị hạn chế ràng buộc để chúng ta có thể đi thong dong trên con đường Bồ-tát đạo. Kinh Kim Cang dạy rằng:”Bố thí vô tướngđộ sanh vô ngã” và “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” tức là khi bố thí và giúp người thì đừng có chấp ngã chấp tướng và cũng đừng để tâm dính mắc nơi sáu trần thì làm bất cứ việc gì trên thế gian nầy cũng rất an vui tự tại. Tư tưởng Đại thừabố thí mà không thấy mình có bố thí nên không còn mong cầu phước đứctrông đợi đền ơn. Cho mà không biết mình cho và nhận mà không thấy mình nhận thì mới cho và nhận chân thật tức là không còn dính mắc. Người cho bây giờ không còn mong cầu phước đức mà là phương cách tu hành để thanh lọc nội tâm, tẩy trừ tham-sân-si, ngã, mạn mà tiến thẳng về giải thoát giác ngộ. Thế thì người cho kẻ nhận đều có lợi vì cả hai đều có thể đạt được quả vị Bồ-đề. Đây mới là chân bố thí của Đại thừacon người không còn lệ thuộc tình cảm của thế gian mà sống với lý trí sáng suốt triệt để của mình.

Kinh Bát nhã cũng nói thêm: ”Tất cả các pháp lành đều nhiếp vào Bát nhã Ba-la-mật-đa sâu thẳm” nghĩa là nếu con người sống được với trí tuệ Bát nhã thì coi tất cả chúng sinh như nhau. Ai khổ thì giúp, ai mê thì gọi cho thức tỉnhtâm không mong cầu đền đáp nên việc làm được viên mãn. Còn nếu chưa sống được với trí tuệ Bát nhã, tuy có làm Phật sự trên hình tướng nhưng làm một lúc không sao tránh khỏi sự thiên chấp thân, sơ, thương, ghét… nên việc làm không viên mãn.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31348)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26231)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27539)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27936)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26731)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31249)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20285)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22971)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30084)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21597)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20288)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22691)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20789)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30343)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28811)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34761)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44250)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35545)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22567)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21388)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20706)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24777)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37939)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19083)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19355)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21853)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20896)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29537)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35174)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28842)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32623)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26238)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28946)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43173)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34982)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43963)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37928)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21345)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43042)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49029)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39871)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53805)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36838)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40833)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49744)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47334)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27756)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27040)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27245)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24082)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20869)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34329)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22494)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25138)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25869)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22972)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22480)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21770)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23333)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21193)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant