Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5. Tinh tấncăn bản để hàng phục ma chướng

23 Tháng Ba 201100:00(Xem: 9868)
5. Tinh tấn là căn bản để hàng phục ma chướng

KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC
Hán dịch: Đại Sư An Thế Cao
Giảng: Đại sư Tịnh Vân
Việt dịch: Thích Minh Quang

Bài 5: Tinh tấncăn bản để hàng phục ma chướng

Phiên âm:

Đệ tứ giác tri: Giải đãi trụy lạc, thường hành tinh tấn, phá phiền não ác, tồi phục tứ ma, xuất ấm giới ngục.

Dịch nghĩa:

Điều giác ngộ thứ tư: Giải đãi phải sa đọa, nên thường hành tinh tấn, để phá phiền não ác, chiết phục cả bốn ma, ra khỏi ngục ấm giới.

Giảng giải:

Trong đời này, không luận làm việc gì cũng cần phảitinh thần đại hùng, đại lực, đại vô úy mới có thể thành công. Chúng taxây dựng sự nghiệp trong xã hội, hay tu học đạo nghiệp trong Phật Pháp, đều gặp không ít chướng ngại hay ma nạn. Nếu ta do dự không tiến tới, hoặc có chút ít giải đãi, sẽ không thành tựu được một việc gì cả! Nên trong đoạn Kinh này, chúng tôi sẽ giảng đến đề tài: Tinh tấncăn bản để hàng chục ma chướng. Giải đãi là chỉ sự không hết lòng, hết sức trong viêc đoạn ác tu thiện. Giải là căn thân mệt mõi; đãi là tâm thức phóng túng. Giải đãi là căn bệnh chung của chúng sinh, mà thuốc trị nó chính là tinh tấn.

Tinh tấn có nghĩa: Tâm thiện của chúng ta chưa phát sinh, thì nỗ lực khiến cho sớm phát sinh; tâm thiện đã sinh, thì nỗ lực làm cho được tăng trưởng; niệm ác chưa sinh thì cố gắng giữ đừng cho sinh: niệm ác đã sinh, thì cố gắng sớm dứt trừ. Thế gian này là cảnh giới ma. Tinh tấn có thể thành Phật, giải đãi sẽ đọa vào ma giới.

Xem lại các bậc Thánh hiền thành tựu đạo nghiệp thuở trước, không ai là chẳng trải qua một phen dùng tử công phu. Chúng tôi sẽ nói về Ngài A Na Luật, đương cơ của Kinh này.

Một hôm trong Pháp hội của Phật, Tôn giả A Na Luật bổng bị hôn trầm, giải đãi che lấp tâm tánh nên ngủ gục. Đức Phật thấy đệ tử giải đãi không tinh tấn như vậy liền gọi Ngài tỉnh dậy, quở rằng:

Than ôi ông ham ngủ
Như sò ốc trong vỏ
Ngủ một giấc ngàn năm
Không nghe danh hiệu Phật!

A Na Luật nghe xong, trong lòng rất hổ thẹn bèn phát nguyện từ nay về sau không ngủ nữa, mỗi ngày nếu không kinh hành thì tụng Kinh. Một hai ngày không ngủ cũng không sao. Nhưng A Na Luật thức liên tiếp nhiều ngày đã ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và nhất là con mắt, song Ngài vẫn quyết chí tinh tấn tu tập như vậy. Một thời gian sau, Ngài trở nên mù lòa.

Đức Phật thấy Ngài vì quá tinh tấn mà phải mù lòa nên rất thương, mới dạy Ngài tu tập môn Kim Cương Chiếu Minh Tam Muội. Chẳng bao lâu Ngài chứng được thiên nhãn thông.

A Na Luật chỉ nghe Phật dạy một câu mà tinh tấn như thế. Người ta nếu không bị tình dục làm mê hoặc, sẽ không bị tà ma làm nhiễu loạn. Người học Phật nghe học Kinh Pháp, liễu tri thật tướng vạn hữu, đây là được đại trí của Bồ tát Văn Thù. Nhưng lại phải tinh tấn thực hành trí bát nhã đó, mới có thể khế hợp với đại hạnh của Bồ tát Phổ Hiền.

Tập khí của chúng sinh là ưa nhàn nhã, thích hưởng thụ nên khó phát tâm dũng mãnh, tinh tấn tu đạo. Đức Phật trong nhân tu quá khứ, từng xả thân cho cọp, cắt thịt cho chim ưng. Đây là tâm tinh tấn, hy sinh, làm được việc khó làm, nhẫn được việc khó nhẫn. Những kẻ phê bình Phật giáotiêu cực, làm sao có thể tưởng tượng hay thể hội được điều này?

Bồ tát Quán Thế Âm với:
Ba mươi hai tướng, hiện Ta bà
Độ khắp muôn loài, kiếp hằng sa.
Ngàn chỗ nguyện cầu, ngàn chỗ ứng
Thuyền từ biển khổ, độ người ra.

Nếu người học Phật không có tinh thần tinh tấn, làm sao làm được như vậy?

Bồ tát Địa Tạng với lời nguyện:

Địa ngục chưa hết
Thề chưa thành Phật
Chúng sinh độ tận
Mới chứng Bồ Đề

Đây không phải là tinh thần tinh tấn của bậc đại nhân, đại trí hay sao?

Thời nay người ta rủ mình cờ bạc ăn tiền, nếu mình không theo, họ sẽ cho mình là tiêu cực! Mời mình chè chén, khiêu vũ, mình không nhận lời, họ cho mình là thụ động! Bậc Thánh giả tu học Bồ tát đạo, tinh tấn liễu thoát sinh tử, rộng độ chúng sinh. Tinh thần tích cực này là điều mà người bình thường khó mà hiểu được!

Đại sư Huyền Tráng đi Thiên Trúc thỉnh Kinh, trải qua tám trăm dặm sa mạc, giữa đường thiếu nước cơ hồ bỏ mình nơi hoang mạc, song Ngài vẫn nguyện: Thà đi về hướng Tây một bước mà chết, quyết không quay về hướng Đông một bước mà sống! Nếu không phải là người có nhiệt tình tôn giáo, tâm tinh tấn vì đạo, thì làm sao có thể làm được việc như vậy?

Đại sư Tuệ Khả đến tham bái Tổ sư Đạt Ma, đứng ngoài tuyết lạnh, chặt tay cầu Pháp mà vẫn không thoái thất tâm tốt ban đầu. Thử hỏi, nếu không có tâm tinh tấn cầu Pháp, thì làm sao có thể làm được như vậy? Trong Phật Pháp, lục độ lấy tinh tấn làm chủ yếu. Không luận bố thí, trì giới, nhẫn nhục, thiền định, trí tue? nếu khôngtinh tấn, thì không cách nào thành tựu Ba la mật.

Trong Kinh nói tinh tấn có mười điều lợi ích:

1. Không bị lực lượng bên ngoài chiết phục.

2. Được chư Phật nhiếp thọ.

3. Chúng trời người kính ngưỡng.

4. Nghe được Chánh Pháp không quên.

5. Tìm biết được những điều chưa biết.

6. Tăng trưởng vô ngại biện tài.

7. Được an trú trong thiền định.

8. Ít bệnh, ít não, ít hoạn.

9. Ăn uống dễ dàng tiêu hóa.

10. Như hoa ưu đàm nở.

Tinh tấn như cọ xát cây lấy lửa, không thể dừng nghỉ giữa chừng. Tâm Bồ đề đã phát nếu không có sức tinh tấn thường hằng thì khó mà duy trì được. Không luận làm điều gì, nếu khônghằng tâm, tinh tấn, nghị lực, giữa chừng bỏ dở, thì chắc chắn không thu được ích lợi, thành tựu được kết quả. Người ta gọi là: nhiệt tình lửa rơm!

Người không có tâm tinh tấn thường hằng, làm việc với tâm thái nhiệt tình lửa rơm như vậy, thì làm sao có thể thành công? Muốn tâm tinh tấn được lâu bền, phải có tinh thần như Khổng Minh: Dốc lòng hết sức, đến chết mới thôi, và thái độ: Chỉ lo cày bừa, không nghĩ thu hoạch. Nếu người có tâm mong mau chóng thành tựu, hay cầu cái lợi trước mắt, thì khi vừa gặp thất bại đã bỏ cuộc, mới bị thử thách liền nản lòng. Người làm việc có đầu không có đuôi, có thủy không có chung như vậy, là không có tinh thần tinh tấn, không ngại gian lao, không nài khó nhọc. Trong Kinh có kể một đoạn ngụ ngôn:

Có một con chim anh vũ, thấy một khu núi rừng bị lửa thiêu cháy, thế lửa rất mạnh.

cảm thấy hết sức đau lòng, thương cho các loài sinh vật trong đó, liền bay đến bờ sông dùng miệng ngậm nước để cứu lửa. Việc làm này giống như đem nước một chén mà cứu lửa cả xe, đương nhiên không giải quyết được vấn đề. Nhưng chim vẫn quyết tâm không từ bỏ việc cứu lửa.

Lúc đó vị thần lửa trên trời biết được, liền hiện xuống nói với chim:

- Này chim anh vũ, thế lửa lớn dường ấy mà ngươi chỉ dùng vài giọt nước ngậm trong miệng để dập tắt, thì làm sao mà có kết quả? Đây không phải là việc tốn công vô ích hay sao?

Chim Anh Vũ đáp rằng:

- Cứu lửa đó là điều mọi người nên làm hết trách nhiệm. Tuy sức tôi rất nhỏ, nhưng không thể không tận tâm, tận lực.

Lời nói của chim anh vũ rất bình thường, nhưng tráng chí của nó thật vĩ đại. Tinh thần dũng mãnh, thấy khó khăn không lui bước này đã khiến thần lửa cảm động sâu xa, nên đã dập tắt đám cháy đó giùm chim anh vũ.

Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương có tất cả sáu chương nói về người học đạo nên tinh tấn như thế nào. Tinh tấn được chia làm ba loại:

Phi giáp tinh tấn.

Nhiếp thiện pháp tinh tấn.

Lợi lạc hữu tình tinh tấn.

Sao gọi là phi giáp ( mặc áo giáp ) tinh tấn? Kinh Tứ Thập Nhị Chương nói: Người học đạo như kẻ chiến đấu với vạn người, mặc áo giáp ra trận, nếu ý khiếp nhược sẽ giữa đường thoái lui, hoặc chiến đấu đến chết. Nếu tinh tấn dũng mãnh, không sợ gươm đao, thì dấn thân vào chỗ chết để tìm ra đường sống, phá diệt các ma, mà được đạo quả. Cho nên, mặc áo giáp tinh tấn là nói người tu phải có tinh thần chiến đấu với các ác pháp.

Thế nào là nhiếp thiện pháp tinh tấn?

Mặc áo giáp tinh tấntrừ ác, nhưng tinh tấn còn phải hoàn thành thiện pháp, đây gọi là nhiếp thiện pháp tinh tấn. Không luận người xuất gia hay tại gia, khi tu tập thiện pháp không nên quá gấp, cũng không nên quá chậm, cốt yếu vừa chừng là tốt. Gấp quá thì bị sức phản động mà lui sụt. Chậm quá thì do giải đãi mà thoái đọa. Như gảy đàn, dây đàn chùng thì âm thanh không vang đúng mức, dây căng quá sẽ dễ đứt. Vì vậy, việc tu thiện pháp không nên quá chậm, cũng không nên quá gấp. Gấp hay chậm đều là sai lầm, đệ nhất nghĩa trong Phật Pháp chính là trung đạo!

Thế nào là lợi lạc hữu tình tinh tấn?

Người học Phật phải phát tâm đại từ bi, độ khắp chúng sinh. Nhưng chúng sinh trong tam giới vô lượng vô số, nếu không tinh tấn làm sao thực hiện được chí nguyện độ sinh? Ta phải có tâm từ bi vô hạn, có chí độ sinh vô cùng, thì mới có thể tinh tấn không thoái lui.

Chúng ta trên bước đường tu học, thường hay mắc phải chứng bệnh: Căn thân mệt mỏi, tâm thức phóng túng! Đây là do chưa nhận thứcthời giansinh mệnh trân quí biết chừng nào. Chúng ta sống trong dòng thời gian, nghĩ rằng: Ngày nay trôi qua vẫn còn ngày mai; năm nay không làm, còn có năm sau; tuổi trẻ không tu, hãy còn lúc gia, vì vậy mới luống qua thời gian, dần dà hết kiếp! Không ngờ, kết quả do thói quen giải đãi, ỷ lại này, khiến ta phải chịu đọa lạc, khổ đau!

Chúng ta nếu biết sinh mệnh là trân quí, thời gian qua rồi không trở lại, thì phải luôn khắc ghi trong tâm hai chữ vô thường, không một giây phút chần chờ, không một ý niệm xao lãng, trực tâm hướng về chính đạo.

Thuở xưa, đức Phật hỏi các đệ tử:

- Mạng người trong bao lâu?

Một đệ tử đáp:

- Trong vài ngày!

Đức Phật lắc đầu bảo:

- Ông chưa hiểu đạo.

Ngài lại hỏi một vị khác:

- Mạng người trong bao lâu?

- Mạng người trong khoảng bữa ăn.

Phật cũng lắc đầu bảo:

- Ông chưa hiểu đạo!

Rồi Ngài lại hỏi một vị khác:

- Mạng người trong bao lâu?

Vị này đáp:

- Mạng người trong hơi thở!

Đức Phật vô cùng hoan hỉ, khen rằng:

- Lành thay! Ông hiểu được đạo!

Người biết giác ngộ mạng sống trong khoảng hơi thở, thì đôí với việc tu đạo, hành thiện sao dám giải đãi? Đối với việc tu đạo hành thiện, nếu không nỗ lực tinh tấn, làm sao có thể thành tựu? Tinh là chuyên ròng không tạp; tấn là tiến mãi không lui. Mục đích của tinh tấn là phá phiền não ác, hàng phục bốn ma, ra ngục ấm giới.

Trời đất lâu dài có lúc hoại, phiền não miên man không tận cùng! Phiền não vô minh vốn câu sinh với ta, nằm sẵn trong tâm, khiến chúng sinh không thoát khỏi luân hồi, sinh tử. Học Phật, việc lớn nhất là phá phiền não ác. Phiền não là chỉ phiền tâm va não thân. Phiền não còn nguy hiểm hơn oán tặc, cường đạo, thổ phỉ. Cổ nhân bảo: Bắt giặc trong núi dễ, dẹp giặc trong lòng kho. Cuộc sống bất an, đau khổ, đều do phiền não gây ra cả!

Phật Pháp có tám muôn bốn ngàn Pháp môn là để đối trị tám muôn bốn ngàn phiền não. Lấy bất tịnh quán để đối trị tham dục, lấy từ bi đối trị sân hận, lấy vô ngã đối trị kiêu mạn, lấy chánh tín đối trị nghi hoặc, lấy chánh kiến đối trị tà kiến. Phiền não tóm lại có sáu loại căn bản: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Ngoài sáu loại căn bản phiền não này ra, còn có hai mươi loại tùy phiền não.

Căn bản phiền não như rễ cây, nó là gốc rễ của tất cả phiền não. Trong hai mươi tùy phiền não, lại chia ra có mười tiểu phiền não, hai trung phiền não và tám đại phiền não. Mười tiểu phiền não là: phẫn nộ, cừu hận, kết oán, giả dối, gian trá, siểm khúc, ngạo mạn, bách hại, tật đố, tự tư.

Hai trung phiền não là: vô tàm, vô quí.

Tám đại phiền não là: bất tín, giải đãi, phóng dật, hôn trầm, trạo cử, thất niệm, tán loạn, bất chánh tri.

Chúng ta sở dĩ không nhận ra được bản tánh chân như của mình, là do phiền não che lấp ánh sáng tâm thể. Chúng ta sống trong nguy hiểm, lo sợ, là do phiền não nhiễu loạn. Cội gốc của tất cả phiền não chính là ngã chấp. Chúng sinh do chấp ngã nên tất cả phiền não mới dấy khởi. Cho nên cổ đức nói: Muốn học Phật Pháp, trước hết hãy vô nga. Tu chứng được cảnh giới vô ngã, cũng chính là đạt được cảnh giới không còn phiền não.

Ngã chấp đây là căn bản của phiền não sinh tử. Vô ngã là điều khó thực hiện biết bao! Ngã chấp không trừ, thì phiền não ác không thể phá được. Cách phá phiền não ác là trước phải tu tập ba môn vô lậu học: giới –định – tuệ, kế nữa là niệm Thánh hiệu Phật A Di Đà thì phiền não ác sẽ từ từ được phá trừ, bản lai diện mục của chúng ta dần dần được hiển lộ.

Phiền não phá rồi lại còn phải hàng ma. Những gì có thể làm hư hoại thiện căn, dứt mất tuệ mạng của chúng sinh, đều gọi là ma. Những chướng ngại, nhiễu loạn, phá hoại, dụ hoặc hay cướp đoạt tuệ mạng đều gọi là ma. Ngoại cảnh có ma: sắc thanh danh lợi; trong tâm có ma: tham sân phiền não. Không có tinh thần hàng phục ma thì không thể tu đạo. Ma có mặt khắp mọi nơi, nhưng nguy hiểm nhất lại là ma ẩn tàng ngay trong tâm chúng ta! Trong các tu viện lớn, tượng Bồ tát Vi Đà tay cầm chày hàng ma đứng mặt ngó vào mình, cho thấy hàng phục nội ma quan trọng hơn hàng phục ngoại ma!

Phật giáo suy vi, những vị mang tâm niệm tiếp nối làm hưng thịnh hạt giống Phật, khiến Chánh Pháp cửu trụ Ta bà, thật hiếm có người! Còn hạng mặc áo Phật, ăn cơm Phật, mượn danh là đệ tử Phật để mua bán Như Lai, thì ma con, ma cháu rất đông. Làm người con Phật chân chánh, ngày nay phải có tinh thần khiêu chiến với ma! Thời mạt Pháp, cách Thánh lâu xa thì Phật cao một thước, ma cao một trượng! Mong rằng đệ tử chánh tín của Phật thời nay phải học theo Bồ tát Vi Đà, tay cầm chày hàng ma, tuân theo lời dạy Kinh này để hàng phục tất cả ma quỷ chướng đạo!

Kinh văn nói: Hàng phục bốn ma. Bốn ma đó là:

1.Phiền não ma: Đây là chỉ tập khí tham sân si v.v… làm não hại thân tâm.

2. Ngũ ấm ma: Đây là chỉ năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức hay sinh ra tất cả đau khổ.

3. Tử ma: Đây là chỉ sự chấm dứt mạng căn sinh tồn của chúng sinh.

4. Thiên ma: Đây chỉ thiên ma ngoại đạo làm hư hoại thiện căn của chúng sinh, như ma vươngcõi trời Tự tại dục giới.

Trong Tiểu Chỉ QuánKhởi Tín Sớ v.v…, đều nói cách hàng phục bốn matrì niệm Thánh hiệu đức Phật A Di Đà, hay xưng niệm tam quy, ngũ giới, hoặc tụng Bát Nhã Tâm Kinh. Đức Phật Thích Ca khi ngồi trên tòa Kim cang dưới cội Bồ đề, trước phải hàng phục ma, rồi sau mới thành đạo!

Phiền não khiến chúng ta gây tạo tội ác đã phá trừ; ma chướng làm nhiễu loạn đạo nghiệp của chúng ta đã hàng phục, thì có thể ra khỏi luân hồi sinh tử, giải thoát lao tù ngũ ấm, tam giới!

Ngũ ấm là chỉ sắc thân do ngũ uẩn hòa hợp của loài hữu tình. Ấm có nghĩa là che ngăn, vì sắc thọ tưởng hành thức thường ngăn che chân như Phật tánh của chúng hữu tình. Tam giới chỉ dục giới, sắc giớivô sắc giới.

Ngũ ấm là chỗ tụ họp của các khổ, ba cõi như ngôi nhà đang bốc cháy. Thân tâm, thế giới đều vô thường không thật, như lao ngục không thể nương cậy. Phải phá phiền não ác, hàng phục bốn ma, mới có thể ra khỏi ngục ấm giới!

Chúng sinh phải tinh tấn tu đạo, không được giải đãi, buông xả thân năm ấm, ra khỏi nhà ngục tam giới, chứng đắc pháp thân thường trú, an nhiên tự tại, mới là cảnh giới an ổn, giải thoát, quang minh!

Dịch Thơ:

Điều thứ tư phải luôn ghi nhớ
Lười biếng làm lỡ dở đạo tâm
Quen theo thói tục lạc lầm
Đắm mê sa đọa trong hầm khổ đau.
Nên thường phải dồi trau tinh tấn
Dũng mãnh tu phá những não phiền
Bốn ma hàng phục bình yên
Khỏi ngục ấm giới về miền chân như.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31350)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26233)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27542)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27936)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26733)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31251)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20286)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22973)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30086)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21599)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20289)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22692)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20791)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30346)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28811)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34762)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44250)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35545)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22567)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21389)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20706)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24781)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37939)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19084)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19356)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21853)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20896)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29537)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35176)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28842)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32625)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26240)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28947)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43174)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34983)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43965)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37929)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21345)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43042)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49029)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39874)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53805)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36839)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40834)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49744)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47337)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27758)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27041)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27245)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24082)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20869)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34330)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22494)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25140)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25869)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22972)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22481)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21770)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23334)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21193)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant