Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

7. Bố thícăn bản rộng độ chúng sanh

23 Tháng Ba 201100:00(Xem: 11435)
7. Bố thí là căn bản rộng độ chúng sanh

KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC
Hán dịch: Đại Sư An Thế Cao
Giảng: Đại sư Tịnh Vân
Việt dịch: Thích Minh Quang

Bài 7: Bố thícăn bản rộng độ chúng sanh

Phiên âm:

Đệ lục giác tri: Bần khổ đa oán, hoành kết ác duyên. Bồ Tát bố thí, đẳng niệm oan thân, bất niệm cựu ác, bất tắng ác nhân.

Dịch nghĩa:

Điều giác ngộ thứ sáu: Nghèo khổ hay oán hờn, thường kết ngang duyên ác. Bồ Tát hành bố thí, bình đẳng với oán thân, không nhớ đến lỗi cũ, không ghét bỏ người ác.

Giảng giải:

Trong đoạn Kinh trên, trước hết chúng tôi sẽ nói quan điểm về giàu nghèo trong thế gian theo Phật giáo.

Trong đời này, người có tiền ở nhà cao cửa rộng, ăn món ngon vật lạ; người không tiền kiếm nhà tranh ở cũng khó, ba bữa ăn chưa chắc đã no. Người nghèo hèn lúc gặp vận may, của cải vào như nước. Người giàu sang khi gặp vận rủi, phải lưu lạc xin ăn. Đây là những điều thường thấy trong đời. Cho nên nghèo hèn không phải nghèo hèn mãi; giàu sang cũng chẳng phải giàu sang hoài. Nghèo hèn là do xan tham, giàu sang là nhờ hỷ xả.

Theo cách nhìn Phật giáo, giàu và nghèo không phải ở nơi có tiền hay không tiền. Nên biết, nghèo kho? không phải là nói người không có tiền bạc, châu báu. Dù cho người có vàng bạc, ngọc ngà chất đầy như núi, mà không có đạo đức, không có học vấn, không có phước tuệ, vẫn gọi là nghèo khổ.

Trên đời này người có tiền rất nhiều, nhưng họ không biết khéo sử dụng tiền bạc, nên trở lại bị tiền bạc sai sử, làm tôi mọi cho nó. Chỉ cần có tiền là chuyện gì họ cũng dám làm, dù phi pháp, xấu xa đến mấy! Những người này tuy có tiền, nhưng không có trí tuệ, không biết dùng tiền vào chỗ hữu dụng, ngược lại còn gây ra đau khổ, nên vẫn là nghèo kho?

Người nghèo khổ thì dễ dàng khởi tâm oán giận. Họ do thấy mình khốn khổ gian nan, nghèo cùng không nơi nương tựa, nên thường sinh tâm oán trời trách người, ghen ghét với kẻ phước to, học rộng; buồn giận với người sang quí, tài cao, thậm chí tìm trăm mưu ngàn kế để hại người, gây ra biết bao ác duyên, tạo thành vô số ác nghiệp!

Người nghèo khổ hay oán giận những gì?

Thứ nhất là trên oán trời. Họ hận Bồ tát sao không gia hộ, trách thần minh sao chẳng hiển linh?

Có những người chỉ vì cầu tài lợi trước mắt mà bị tà giáo dụ dỗ, làm mê hoặc, ngay cả bài vị tổ tông cũng đem đi bán! Đây là điều mà các địa phương như Cao Hùng, Hoa Liên v.v… ở Đài Loan thường xảy ra.

Thứ hai là dưới oán thế gian. Một mai gặp lúc nghèo khổ, thất chí, lại trách xã hội như thế này, chủ nghĩa như thế kia, chế độ như thế nọ.

Thứ ba là trong oán gia đình quyến thuộc. Có nhiều người ra ngoài gặp nhiều chuyện bực mình, về nhà lại đem vợ con ra hành tội! Khi không có tiền, họ lại trách người trong nhà vô dụng. Đó gọi là: Thiếu gạo vợ chồng sinh lắm chuyện!

Thứ tư là ngoài oán thầy bạn. Người thất nghiệp thường không trách mình thiếu tài chuyên môn, lại cứ trách bạn bè không chịu giúp đỡ.

Những trường hợp do nghèo khổ sinh ra oán giận như trên, không những chỉ làm khổ cho mình, mà còn làm khổ cho người!

Nếu về mặt vật chất không dư dả, nhưng về mặt tinh thần lại biết tu dưỡng, thì cuộc sống của chúng tađạm bạc vẫn thấy an vui.

Người không có tiền mà có trí tuệ đạo đức, vẫn không phải là người nghèo khổ, và cũng không bao giờ oán trời trách người. Thuở xưa, Nhan Hồi nghèo đến nỗi chỉ có cơm một giỏ, nước một bầu, ai thấy cũng đều tội nghiệp, mà ông vẫn sống an lạc như thường. Cho nên nghèo khổ hay oán không phải chỉ đánh giá trên mặt kinh tế. Hàng ẩn sĩ ở núi sâu, bậc đầu đà nơi cổ tự, họ tuy thiếu thốn về mặt của cải, vật chất, song về mặt tinh thần lại giàu có không ai sánh bằng!

Người nghèo khổ suốt ngày không biết tu tạo phước đức, chỉ biết kiếm tiền. Trên đời không ai giàu ba ho, vì cho dù thần tài hoan hỷ cho bạn tiền, nhưng đàng sau thần tài còn có quỷ nghèo đi theo đòi lại! Thực ra, dù mình có tiền mà không biết đủ, thì thần tài cũng không thể nào làm ta vui lòng! Nếu không biết đủ, gia tài dù muôn vạn vẫn cảm thấy nghèo khổ, và như vậy oán giận cũng càng nhiều, ác duyên càng kết nối, ác nghiệp càng gây tạo vô số!

Người tu học đạo Bồ tát, không luận là nghèo giàu, đều không oán trời trách người. Trái lại, Bồ tát còn nguyện đem vật sở hữu của mình ra bố thí cho người. Bố thí, đây là cách phát tài tốt nhất. Phần đông người ta nghĩ rằng bố thí là cho người, và đã cho người, thì làm sao mình phát tài cho được? Thực ra, đạo lý này rất đơn giản. Như một đám ruộng, nếu ta không gieo trồng, làm sao có thu hoạch? Không có hạt giống tu tập bố thí, thì làm sao có hoa trái giàu sang?

Chư Phật Bồ tátba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, là do nhiều đời, nhiều kiếp tu hạnh bố thí mà được. Hành giả Đại thừa, tu học lục độ vạn hạnh, lấy bố thí làm đầu trong sáu Ba la mật. Tâm Bồ đề, tâm từ bi của chúng ta phải được nuôi dưỡng từ hành động bố thí.

Thuở xưa có một bà cụ nghèo hèn than với tôn giả Ca Chiên Diên về sự cực khổ, nghèo đói của mình. Nghe xong, Ngài nói:

- Bà vì nghèo mà chịu khổ, sao không bán phứt cái nghèo đi?"

- Cái nghèo có thể bán được sao?

Bà cụ kinh ngạc kêu lên, và tiếp theo hỏi:

- Cái nghèo nếu bán được, thì ai mà chẳng muốn bán! Vậy trên đời này đâu còn ai nghèo? Hơn nữa, có ai chịu mua cái nghèo đâu?

- Bà hãy bán cho ta!

Tôn giả điềm nhiên đáp.

Bà lão liền xin tôn giả chỉ cách bán cái nghèo. Tôn giải khai thị:

Hãy bố thí! Đó là cách bán cái nghèo. Bà nên biết giàu nghèo trong đời đều có nhân duyên. Người nghèo hèn do đời trước không biết bố thí tu phước. Do đó, bố thí là cách bán nghèo, mua giàu tốt nhất.

Bà cụ nghe rồi trí tuệ khai phát, từ đó biết tu tạo phước đức và hành Bồ tát đạo!

Nhưng có người sẽ nghĩ như vầy: Người có tiền đương nhiên có thể làm việc bố thí, còn nghèo khổ như bà cụ này thì lấy gì mà bố thí.

Nói đến bố thí, nhiều người nghĩ phải có tiền bạc, của cải mới bố thí được. Nhưng thực ra, bố thí có nhiều phương diện, không phải nhất định đem tiền bạc, của cải ra cho người mới là bố thí. Dù chúng ta nghèo đến nỗi không có một chút gì, cũng vẫn thực hành hạnh bố thí được! Ví dụ khi chúng ta gặp ai, mình đưa tay vẫy chào: Anh mạnh khoẻ! Hoặc hỏi: Anh ăn cơm chưa? Hay anh từ đâu đến? Cám ơn anh! Mời ngồi! A Di Đà Phật!

Nếu bạn làm được như thế, thì không những sẽ gieo duyên tốt với người, mà còn thực hành được việc bố thí ngôn ngữ. Ngoài điều này ra, lúc bạn tiếp xúc với người mà mỉm cười, nét mặt hoan hỉ, chú ý lắng nghe v.v…, đây chính là bố thí vẻ mặt. Thấy người lạc đường thì chỉ lối hay dắt họ đi. Thấy người khiêng đồ không nỗi, thì xách hay khiêng giùm họ, thấy người làm không được thì giúp họ làm, đây gọi là bố thí thân hành. Thấy người chịu khổ sinh tâm thương xót, thấy người bố thí sinh tâm hoan hỷ, đây chính là bố thí tâm ý.

Những cách bố thí: Ngôn ngữ, vẻ mặt, thân hành, tâm ý nêu trên, ai nếu muốn đều có thể làm được. Phật Pháp không phải là hàng trưng bày, cũng không phải thuộc về quí tộc! Phật Phápđại chúng, ai ai cũng có thể phụng hành Phật Pháp.

Kinh nói bố thí có ba cách: Tài thí, Pháp thívô úy thí.

Tài thí là đem tiền của, phẩm vật ra giúp cho người; Pháp thí là đem tri thức, kỹ thuật, Chánh Pháp ra dạy cho người; vô úy thíbảo vệ công lý chính nghĩa, vì xã hội dẹp trừ bạo loạn, giúp tinh thần của mọi người được an ổn, không lo sợ.

Hành bố thí là điều dễ dàng. Nhưng thực hành bố thí đạt đến chỗ cả ba đều không là điều rất khó. Khi bố thí người ta dễ nảy sinh ra tâm lý mong người cảm ơn, báo đáp hay ca ngợi công đức của họ. Chẳng những vậy, họ còn cảm thấy mình bố thí được là điều hết sức vinh dự, hay khinh rẽ người nhận vật bố thí. Nếu đem tâm như thế ra bố thí, chỉ là hạnh lànhthế gian, mà không phải hạnh bố thí của Bồ tát. Trong Phật Pháp, bố thí cần phải đặt trên nền tảng cả ba đều không. Một, không có bản ngã ta là người bố thí. Hai, không có thấy đây là người thọ thí. Ba, không thấy kia là vật bố thí. Trong Phật Pháp, hành hạnh bố thí mà không thấy mình hành bố thí, tu công đức mà không thấy mình được công đức. Thực ra, mình không cầu công đức, công đức lại càng vô lượng! Đó gọi là:

Cố ý trồng hoa, hoa chẳng nở
Vô tâm tiếp liễu, liễu xanh tươi!

Bố thí cho người thân hay người mình yêu mến thì dễ, bố thí cho người mình oán hận, đó mới là điều rất khó. Biếu quà cho người mình yêu thích là vì thỏa mãn lòng yêu mến của mình; còn biếu quà cho kẻ mình không thích mới thật là hành hạnh bố thí. Vì thế, Bồ tát bố thí phải bình đẳng oán thân. Không luận chúng sinh là kẻ oán hay người thân, Bồ tát đều bố thí một cách bình đẳng. Nếu có người xưa kia làm hại mình, nay gặp lúc họ mắc nạn nhờ mình cứu giúp, trong lòng ta nhất định sẽ không mấy bằng lòng, hoan hỉ giúp đỡ. Đây là do tâm từ bi của chúng ta không đủ. Nói đến đây tôi chợt nhớ đến nhân cách của Pháp sư Từ Hàng.

Pháp sư đã kể một chuyện mà bản thân gặp phải như sau. Khi Pháp sư giữ chức y bát (tên một chức sự trong tòng lâm) ở Cổ sơn, một hôm Ngài đi vệ sinh quên mang theo giấy, nên xin vị trà đầu (người lo việc trà nước trong chùa) cũng đang đi vệ sinh bên cạnh. Vị này vốn là người xấu tính, nên lấy giấy đã dùng rồi đưa cho, khiến tay Ngài cầm dính đồ dơ! Vị kia trêu chọc người như vậy, gặp ai khác chắc đã nổi giận, nhưng Pháp sư vẫn điềm nhiên như không.

Một hôm Pháp sư Từ Hàng dời phòng , vị kia lại đến. Pháp sư mới nói với ông ấy:

Ông đến thật may quá, nhờ ông giúp tôi xem chừng đồ đạc một lát, tôi mang tấm mềm bông đi trước, sẽ trở lại liền. Một lát sau Ngài quay trở lại, phát hiện ra một trăm đồng tiền bạc để trong ngăn kéo thiếu mất sáu mươi bảy đồng. Ngài rất ngạc nhiên, chợt nghĩ ra, đây nếu không phải là vị trà đầu này lấy thì còn ai? Điều này thì không thể nói ra được. Nếu nói ra rất có quan hệ đến danh dự người ta. Mất tiền còn có thể tìm lại được, còn mất danh dự thì thật khó lấy lại. Ngài nghĩ đến đó, nên giả như là không hay biết gì.

Một lát sau vị trà đầu cáo từ. Từ lão lại tặng ông mười lăm đồng bạc.

Ông ấy không chịu nhận. Nhưng Pháp sư nói rằng làm người phải giúp đỡ lẫn nhau, ông làm chức y bát mỗi tháng được hai mươi đồng, tặng bớt một chút đâu có sao? Nghe vậy, vị trà đầu mới nhận.

Không lâu sau, người trong chùa nghi vị trà đầu này sao có nhiều tiền quá, không biết từ đâu có? Vị trà đầu mới bảo là do Pháp sư Từ Hàng cho. Có người hỏi Từ lão có đúng vậy không. Gặp người khác nhất định sẽ nói ra hành vi trộm cắp của người kia, nhưng Ngài vẫn từ bi độ lượng, không nói xấu hắn một tiếng nào. Hành vi không nhớ lỗi cũ, không ghét người ác này, nếu khôngtinh thần bình đẳng oán thân thì không thể làm nổi. Bố thí cho người từng gây oán với mình, không nói lỗi cũ của người từng làm hại mình, tinh thần này thật vĩ đại biết bao!

Từ lão lại nói với tôi, ông trước giờ vốn là người gầy yếu, song từ khi xảy ra vụ này, lần lần trở nên mập mạnh, cái bụng Di Lặc cũng từ từ to ra! Không nhớ lỗi cũ, không ghét người ác, người học Phật không nên giận cách đêm. Tinh thần: Thà người phụ ta, chớ ta không phụ người, đã khuyên người học hạnh Bồ tát nên khoan dung với người lầm lỗi, dành cơ hội cho họ ăn năn, cải đổi, giúp đỡ họ quay về nẻo chánh. Đây mới là chân chính độ sinh. Không nhớ lỗi cũ, không báo cừu rửa hận là điều mà người có tu dưỡng dễ dàng làm được; còn không ghét người ác, tức người oán ghét khi gặp mặt, mà mình không sinh tâm oán ghét mới là điều rất khó. Muốn làm được oán thân bình đẳng, nếu không có tấm lòng của Bồ tát thì không thể được. Nên biết, oán giận là điều tương đối. Mình giận người, người cũng giận mình. Mọi người đối với oán giận nên mở không nên buộc. Mình khoan thứ với người, thì người cũng khoan thứ với mình. Chúng ta không thể sống cô độc một mình, quả đất tròn, có ngày gặp mặt. Người mình yêu thích để lòng thương yêu, kẻ mình oán giận cũng mở lòng thương yêu, như vậy mới có thể làm được việc oán thân bình đẳng.

Thuở Phật còn tại thế, Đề Bà Đạt Đa nhiều phen làm hại đức Phật, như sai người hành thích, lăn đá trên núi xuống, cho voi say giày xéo v.v…, nhưng Ngài chẳng những không báo thù, mà còn thường nói: Đề Bà Đạt Đatăng thượng duyên cho ta, Đề Bà Đạt Đathiện trí thức của ta! Xem người ác như thiện trí thức, Phật sở dĩ là Phật vì có lòng từ bi bao trùm trời đất, có đức khoan dung đối với người ác.

Thế giới Ta bà là đời ác năm trược. Trong đời ác năm trược, nghịch tăng thượng duyên rất nhiều, trong nghịch cảnhtu tập, thì thành tựu rất mau. Trong cuộc sống tu hành, nếu có người ác phá hoại, đây không phải là một điều bất hạnh, trái lại, nó còn giúp cho đạo nghiệp chúng ta dễ dàng thành tựu.

Không có bóng tối, làm sao hiển hiện được ánh sáng quang minh? Không có ác độc, làm sao có những điều lương thiện? Cho nên, phiền não tức Bồ đề, hành giả Đại thừa không oán ghét người ác, không sợ phiền não. Chỉ cần có tâm niệm oán thân bình đẳng, thì điều ác cũ là ân huệ của chúng ta, còn người ác là thiện tri thức của mình. Mây mù tan hết, sẽ là ánh dương quang rực rỡ chiếu soi!

Dịch thơ:

Điều thứ sáu phải nên giác ngộ
Nghèo khổ nhiều tật đố trách phiền
Thường gây lắm việc oan khiên
Ngang nhiên kết buộc ác duyên với người!
Bậc Bồ tát độ đời bố thí
Bình đẳng tâm không nghĩ oán thân
Càng thương những kẻ ác nhân
Khoan dung hỉ xả những phần lỗi xưa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19715)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23972)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41222)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19705)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24005)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21749)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23315)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27510)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26579)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29324)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33208)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20209)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25789)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20922)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31332)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38587)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21450)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44273)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29836)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42226)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22146)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45784)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32126)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23969)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24399)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29285)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33931)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27692)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32153)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21072)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28859)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21595)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28085)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22084)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21446)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19510)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19478)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19843)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19262)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29203)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20628)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28306)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23653)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33201)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31851)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21384)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39636)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21566)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19386)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26413)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24838)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21760)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22399)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29144)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22563)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20474)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23533)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21243)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35336)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24550)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant