Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

9. Tâm đại thừacăn bản phổ độ chúng sanh

23 Tháng Ba 201100:00(Xem: 10658)
9. Tâm đại thừa là căn bản phổ độ chúng sanh

KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC
Hán dịch: Đại Sư An Thế Cao
Giảng: Đại sư Tinh Vân
Việt dịch: Thích Minh Quang

Bài 9: Tâm đại thừacăn bản phổ độ chúng sanh

Phiên âm:

Đệ bát giác tri: Sinh tử xí nhiên, khổ não vô lượng, phát Đại thừa tâm, phổ tế nhất thiết, nguyện đại chúng sanh, thọ vô lượng khổ, linh chư chúng sanh, tất cánh đại lạc.

Dịch nghĩa:

Điều giác ngộ thứ tám: Sinh tử luôn thiêu đốt, khổ não thật vô biên, nên phát tâm Đại thừa, cứu độ khắp tất cả, nguyện thay thế chúng sinh, gánh chịu vô lượng khổ, khiến cho tất cả loài, đều được đại an lạc.

Giảng giải:

Tám điều giác ngộ của Bồ tát mà Kinh này nói, điều thứ nhất là thế gian quan của Phật giáo; điều thứ hai đến điều thứ bảy là nói nhân sinh quan của Phật giáo. Điều giác ngộ cuối cùng này là tông yếu của Kinh, thuyết minh: Đại thừa tâmcăn bản phổ độ chúng sinh.

Chúng ta đọc Kinh này từ đầu đến cuối đều nói về thế gianvô thường, khổ không, vô ngã, bất tịnh, cho đến ngũ dụctai họa, đa cầu là tội lỗi, phải lìa sinh tử, phải ra ba cõi, thì dường như thuộc về tư tưởng tiểu thừa. Nhưng tông chỉ chính yếu của Kinh này là muốn người học Phật phát tâm đại từ bi, độ khắp chúng sinh; thay chúng sinh đảm đương khổ nạn. Đây hoàn toàntư tưởng Đại thừa nhập thế.

Tu học Tiểu thừa chỉ cầu giải thoát cho riêng mình, còn đối với việc cứu độ chúng sinh thì không có một chút nhiệt tình. Cuộc sống độc thiện kỳ thân này, mang nặng màu sắc chủ nghĩa cá nhân. Nhưng hành giả Đại thừa chẳng những cầu giải thoát cho riêng mình, mà còn mang bi nguyện cứu đời giúp người, làm những việc lợi lạc cho hữu tình trong xã hội. Đây chính là ý chỉ và tâm yếu của Kinh này.

Đức Phật thuyết Pháp, trong rất nhiều Kinh điển đều lấy hàng Tỳ kheo làm đối tượng. Nhưng Kinh Bát Đại Nhân Giác này lại thiên về Phật tử tại gia, nhằm hướng dẫn hàng cư sĩ học Phật phải cải thiện cuộc sống như thế nào, nhận thức thế gian như thế nào, cho đến phổ độ chúng sinh như thế nào.

Kinh văn của Kinh này tuy ngắn gọn, mà thật có thể đại biểu cho tư tưởng Tiểu thừa, Đại thừa trong Phật giáo. Theo Kinh này, hành giả muốn tu học Bồ tát đạo, bước đầu tiên phải tu Pháp môn Tiểu thừa. Cho nên, hành giả trước hết phải đối với danh lợi giả dối trong thế gian triệt để buông bỏ, rèn luyện thân tâm, tích cực chuẩn bị đạo lực đến mức không còn bị thế gian ô nhiễm, rồi sau mới tùy nghi bước vào cuộc đời cứu giúp chúng sinh. Đây mới gọi là Bồ tát chân chính.

Không luận là hành giả Tiểu thừa thiên về thoát ly thế gian, hay hành giải Đại thừa thiên về phổ độ chúng sinh, cả hai đều có cái nhìn chung là: Sinh tử thiêu đốt, khổ não vô biên.

Chúng sinh trong vòng luân hồi gây tạo biết bao tội lỗi. Thân phạm sát sinh, trộm cướp, tà dâm; tâm đầy tham lam, sân hận, si mê. Những nghiệp tội vô lượng vô biên đó, như ngọn lửa trong kiếp hỏa đốt cháy thế gian, thiêu đốt thân tâm, khiến chúng sinh phải chịu biết bao khổ não. Nói đến khổ não vô lượng, trong Kinh cũng tùy lúc nói có hai khổ, ba khổ, tám khổ v.v…. Tóm lại Ta bàthế giới khổ đau. Văn trước chúng tôi đã từng nói qua thân có các khổ về già bệnh chết; tâm có các khổ về tham sân si; gia đình có các khổ về ân ái biệt ly; quyến thuộc có các khổ về không được hòa hợp; xã hội có các khổ về cầu muốn không được, oán thù gặp nhau; quốc gia có các khổ về chiến tranh, giặc giã; thiên nhiên có có các khổ về lũ lụt, động đất, giông bão….

Khổ chi phối thế gian, bức bách chúng sinh. Mục đích của chúng ta học Phật là giải thoát đau khổ. Nhân sinh là khổ. Nhưng chúng ta cần phải hỏi: Khổ từ đâu ra? Khổ từ đa dục mà ra. Đa dục từ chỗ nào có? Đa dục từ chấp ngã có. Vì sao chấp ngã gây ra khổ? Vì sự tương quan giữa ngã chấppháp chấp không được điều hòa. Có cái khổ do mình và vật mà có, đó là do mình mong cầu vật chất mà không thỏa mãn. Có cái khổ do mình và người mà có, đó là do quan hệ đụng chạm giữa ta và người. Có cái khổ do mìmh và thân tâm mà có, đó là già, bệnh, phiền não, vốn đi theo, cùng có mặt với sinh. Có cái khổ do mình và dục vọng cộng với nhận thức mà có, đó là do nội tâm chúng ta nhận thức sai lầm thế gian mà ra. Chúng ta bị khổ não bao vây, không luận là ai, cũng đều có nguyện vọng chung là giải thoát đau khổ. Cho nên trách nhiệm của Bồ tát là phải phát tâm Đại thừa, độ tất cả chúng sinh thoát khỏi khổ ách.

Nói đến độ tất cả chúng sinh thoát khỏi khổ ách, có chia ra hai cách khác nhau. Một là trước cứu độ mình rồi sau cứu độ người. Hai là trước cứu độ người, còn mình chưa được độ vẫn không cần kíp lắm.

Trước cứu độ mình rồi sau mới độ người là bảo: Mình nếu chưa được độ, làm sao có thể độ được người? Biển khổ mênh mông, chúng sinh chìm đắm, mình nếu không biết bơi thì làm sao cứu với họ được? Vì vậy, muốn phổ độ tất cả chúng sinh, trước hết mình phải liễu thoát sinh tử, không còn ưu bi khổ não.

Còn nói trước độ người mà mình chưa được độ, đây mới là Bồ tát phát tâm. Học Bồ tát là ngay nơi chúng sinh mà học. Bồ tát lìa chúng sinh ra cũng không gọi là Bồ tát. Lúc cứu độ chúng sinh viên mãn, cũng là lúc Bồ tát đạo của mình viên mãn.

Không luận là nói cách nào, đã phát tâm Đại thừa học đạo, nguyện độ khắp tất cả chúng sinh, thì việc trọng yếu hơn hết là hoằng Pháp lợi sinh. Đối với Bồ tát, hoằng Pháp là bổn phận tất nhiên, lợi sinh là hoài bão xưa nay, không một chút chần chờ, do dự. Đây chính là thái độ Bồ tát Đại thừa đối với cuộc đời. Nói phát tâm Đại thừa, vậy thế nào là tâm Đại thừa? Phật giáo chia ra Đại thừaTiểu thừa. Đại thừa là chỉ Bồ tát, Tiểu thừa là chỉ Thanh văn, Duyên giác, mà trong Kinh Pháp Hoa dùng xe dê, xe nai và xe trâu trắng lớn để tỉ dụ.

Thanh văn chỉ có thể tự độ, không thể độ người, như xe dê không thể chở đồ. Duyên giác có thể độ mình và thân thuộc, như xe nai chở được một ít đồ. Bồ tát tự độ lại có thể phổ độ chúng sinh, như xe trâu trắng lớn có thể chở mọi thứ hàng hóa. Phát tâm Đại thừa nói ở đây, cũng chính là tâm Bồ tát độ khắp tất cả chúng sinh.

Tâm Đại thừa bao hàm tâm Bồ đe? tâm đại bi và tâm phương tiện. Tâm Bồ đềhạt giống (nhân), tâm đại bi là gốc rễ (bản), tâm phương tiện là hoa trái (cứu cánh). Một hành giả Bồ tát phát tâm, nhất định phải có đủ ba tâm nói trên, mới gọi là phát tâm Đại thừa.

Phát tâm Bồ đềphát tâm trên cầu Phật đạo. Nói Phật đạo, là phải trải qua ba đại a tăng kỳ kiếp mới đạt được. Không phát tâm Vô thượng Bồ đề, làm sao qua được sự khảo nghiệm lâu xa như vậy? Kinh nói: Trong đời có một người phát tâm Bồ đề, là có thêm một hạt giống thành Phật. Học Phật không phát tâm Bồ đề, như thửa ruộng không gieo giống, thì làm sao có ngày gặt hái? Tâm Bồ đề chính là tâm thệ nguyện, có tâm thệ nguyện mới có thể thành tựu. Phát tâm Bồ đề là phát bốn lời thệ nguyện rộng lớn (tứ hoằng thệ nguyện):

Chúng sinh vô biên, thệ nguyện độ
Phiền não vô tận, thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng, thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng, thệ nguyện thành.
Đây chính là tâm Bồ đề của Đại thừa.

Phát tâm Đại biphát tâm dưới độ chúng sinh. Bồ tát dưới độ chúng sinh phải phát tâm đại từ vô duyên, đại bi đồng thể, xem khổ nạn của chúng sinhkhổ nạn của mình, xem niềm vui của chúng sinh là niềm vui của mình, độ chúng sinh mà không mong cầu báo đáp, thấy việc phục vụ chúng sinh là lẽ đương nhiên. Nguyện thay chúng sinh, chịu vô lượng kho?mà Kinh này nói, chính là tâm đại bi của đại thừa.

Phát tâm phương tiệnphát tâm thực hành bốn nhiếp pháp. Chúng sinh căn tánh bất đồng, muốn giải cứu đau khổ cho chúng sinh, cần phải có nhiều phương tiện khéo léo. Đức Phật từng quán sát căn tánh chúng sinhtùy duyên thuyết Pháp, nói ra bốn muôn tám ngàn Pháp môn. Đây chính là đức Phậtphương tiện độ sinh.

Bồ tát thực hành bốn cách nhiếp hóa (tứ nhiếp pháp): Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sư, để khiến các chúng sinh, được đại an lạc. Đây chính là tâm phương tiện.

Bao gồm cả ba tâm: tâm Bồ đề, tâm đại bi, tâm phương tiện, đó chính là tâm Đại thừa. Phát tâm Đại thừa cứu độ chúng sinh, cần phải làm được chuyện khó làm, nhẫn được việc khó nhẫn. Nếu không, tâm Đại thừa không dễ gì phát khởi.

Thuở quá khứ, Xá Lợi Phất khi còn ở nhân địa tu tập chuyển từ Tiểu thừa lên Đại thừa, sắp chứng vào bậc Thất địa Bồ tát bất thoái, thì có vị trời muốn đến thử tâm Đại thừa của Ngài. Vị trời ấy hóa là một người con hiếu, đang ngồi than khóc bên đường. Xá Lợi Phất đi ngang trông thấy hỏi:

- Xin hỏi sao lại ngồi ở đây mà khóc? Có chuyện gì xảy ra vậy?

- Không liên can gì đến Ngài, xin để cho tôi yên.

- Hãy nói cho tôi biết, tôi là đệ tử Phật thương yêu giúp đỡ mọi người. Ông có điều gì khó khăn, xin nói ra tôi sẽ giúp.

- Việc của tôi tôi sợ Ngài không giúp được!

- Ông hãy nói cho tôi nghe xem!

Xá Lợi Phất giục.

Lúc đó vị ấy mới than thở:

- Mẹ tôi chẳng may bị mắc chứng bệnh nan y. Thầy thuốc bảo phải dùng mắt người sống hòa với thuốc uống mới hết. Nhưng người này phải là bậc Thánh tu hành! Ngài nghĩ xem, mắt người sống đã là khó kiếm, lại cón phải là mắt của bậc Thánh tu hành thì kiếm đâu ra? Nghĩ đến mẹ tôi không cách nào cứu được, nhất định phải chết, nên tôi đau lòng than khóc.

Nghe xong, Xá Lợi Phất mỉm cười, từ hòa nói với người ấy:

- Được rồi, ông cứ an tâm, tôi sẽ giúp cho!

- Thật ư?

- Không sai chút nào! Nói cho ông biết, tôi là người đã chứng quả, đã phát tâm Đại thừa đem những vật ngoài thân ra thí cho chúng sinh. Nay có cơ hội đem vật trong thân ra cho chúng sinh, xin ông hãy móc mắt tôi!

Nói xong, Xá Lợi Phất điềm nhiên đứng cho người kia móc mắt. Song người đó xua tay bảo:

- Làm như vậy không được! Tôi không dám móc mắt Ngài, vì đây là việc làm phạm pháp. Nếu ông hoan hỷ cứu mạng mẹ tôi, xin hãy tự móc mắt lấy!

Xá lợi Phất nghe nói có lý, liền tự tay móc mắt bên trái ra, ráng chịu đựng cơn đau nói với người ấy:

- Ông hãy cầm lấy, cầu nguyện mẹ ông sớm bình phục.

Nhưng người kia cũng lại xua tay nói:

- Thầy thuốc bảo phải con mắt bên phải mới được! Con mắt bên trái của Ngài tôi đâu có cần?

Xá Lợi Phất nghe xong, giật mình thất sắc, nghĩ bụng:

- Thật là không may! Con mắt bên trái đã móc ra rồi, còn lại con bên phải để nhìn, nay biết làm sao?

Ông tự trách mình sao vô ý, không hỏi trước cần con bên nào! Kế đó, Xá Lợi Phất lại nghĩ: Các bậc thánh xưa tu học Bồ tát đạo, phát tâm Đại thừa, trải qua nhiều đời nhiều kiếp xả bỏ đầu mắt tủy não bố thí cho chúng sinh. Ta nay sao lại không làm được? Cứu người phải tới nơi tới chốn. Con mắt bên trái không dùng được, thì cho con mắt bên phải. Suy nghĩ như vậy xong, Ngài bèn dũng mãnh móc con mắt phải ra cho người kia. Nhưng người ấy cầm lấy con mắt đưa lên mũi ngửi, liền quăng xuống đất, lấy chân chà đạp lên, mắng rằng:

- Ông là bậc thánh gì mà tròng mắt lại hôi tanh như vậy? Đâu có thể đem làm thuốc để trị bệnh cho mẹ tôi!

Xá Lợi Phất lúc ấy tuy mù, nhưng tai vẫn nghe biết người đó quăng mắt mình xuống đất rồi chà đạp lên, lại nghe lời mắng chửi nên nản lòng, suy nghĩ: Ông cần con mắt người sống là thứ không thể tìm được. Tôi vì phát tâm Đại thừa, phổ độ chúng sinh nên móc mắt cho ông. Thế mà mắt bên trái ông nói vô dụng, mắt bên phải ông chê tanh hôi, tôi có gì lầm lỗi với ông mà ông lại mắng tôi!

Xá Lợi Phất lúc ấy không còn lòng nào nghĩ chuyện cứu độ chúng sinh, vô cùng chán nản, cảm thấy chúng sinh khó độ, nên không phát tâm Đại thừa nữa.

Đây là một đoạn đường trải qua của Xá Lợi Phất khi ở nhân địa tu hành trong thuở quá khứ.

Qua đó ta có thể thấy, tâm Đại thừa thật khó phát vô cùng. Song chúng ta không nên sợ khó. Do chúng taquan niệm phân biệt đối đãi giữa mình và chúng sinh, nên không có tâm đại bi đồng thể. Nếu chúng ta có thể lìa được bốn tướng: ngã, nhân, chúng sinh, thọ gia như Kinh Kim Cang nói, thì tâm Đại thừa phổ độ chúng sinh sẽ phát khởi.

Muốn thực hiện hạnh lợi tha, phải có tinh thần dũng mãnh, xông pha vào chốn dầu sôi lửa bỏng, hoan hỷ nguyện thay chúng sinh chịu vô lượng khổ. Được như vậy, mới là hành giả Bồ tát Đại thừa. Đức Phật khi mới xuất gia đã phát bốn thệ nguyện:

1. Nguyện cứu khổ ách cho chúng sinh.

2. Nguyện trừ hoặc chướng cho chúng sinh

3. Nguyện đoạn tà kiến cho chúng sinh.

4. Nguyện độ chúng sinh khỏi vòng sinh tử.

Bốn tâm nguyện này, cũng chính là tâm Đại thừa của Bồ tát.

Kinh Hoa Nghiêm nói: Không cầu an lạc cho riêng mình
Chỉ nguyện chúng sinh được hết khổ.

Đây là tâm Đại thừa độ khắp tất cả chúng sinh của Bồ tát. Như Bồ tát Văn Thù thì đại trí, Bồ tát Phổ Hiền thì đại hạnh, Bồ tát Quan Âm thì đại bi, Bồ tát Địa Tạng thì đại nguyện, đây đều là những nhân vật đại biểu sự phát tâm Đại thừa, đáng cho chúng ta noi theo.

Tóm lại, chỉ mong riêng mình khỏi khổ, là hạng người bình thường (đương nhiên cũng có người vì căn tánh hạ liệt không mong thoát khổ, thích ngồi trong lao ngục); mong người khác thoát khổ, là hạng người có tâm thiện lớn; mong thay thế chúng sinh chịu khổ, đây là hàng Bồ tát phát tâm Đại thừa. Những bậc Bồ tát phát tâm Đại thừa như Bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Địa Tạng đều có thể khiến các chúng sinh, được đại an lạc nơi Niết bàn thanh tịnh giải thoát.

Dịch Thơ:

Điều thứ tám nhớ ghi giác biết
Lửa tử sinh muôn kiếp đốt thiêu
Chúng sinh khổ não đủ điều
Xưa nay không biết bao nhiêu đọa đày.
Phát tâm lớn chịu thay đau khổ
Hạnh Đại thừa rộng độ quần sinh
Khiến cho tất cả hữu tình
Đồng lên bờ giác thanh bình an vui.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12535)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14116)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10862)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10532)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11208)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12015)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13170)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13662)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33684)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11355)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12946)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13072)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11644)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17911)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11454)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11876)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11521)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18992)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12567)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11352)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13158)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15795)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11834)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11709)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12786)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12644)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13981)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13009)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12963)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13309)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12785)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12721)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11767)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11745)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12353)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12398)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19840)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11979)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12002)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16902)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12688)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15075)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16137)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12902)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12259)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11936)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11941)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13167)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16521)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13242)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12509)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11837)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19875)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11175)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11273)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10413)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11109)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10983)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10053)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11764)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant