Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

4. Tri túccăn bản để gìn giữ đạo nghiệp

23 Tháng Ba 201100:00(Xem: 10336)
4. Tri túc là căn bản để gìn giữ đạo nghiệp

KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC
Hán dịch: Đại Sư An Thế Cao
Giảng: Đại sư Tịnh Vân
Việt dịch: Thích Minh Quang

Bài 4: Tri túccăn bản để gìn giữ đạo nghiệp

Phiên âm:

Đệ tam giác tri: Tâm vô yểm túc, duy đắc đa cầu, tăng trưởng tội ác. Bồ tát bất nhĩ, thường niệm tri túc, an bần thủ đạo, duy tuệ thị nghiệp.

Dịch nghĩa:

Điều giác ngộ thứ ba: Tâm nếu không biết đủ, chỉ lo việc tham cầu, sẽ tăng thêm tội ác. Bồ tát không như vậy, thường nhớ đến tri túc, vui cảnh nghèo giữ đạo, lấy tuệ làm sự nghiệp.

Giảng giải:

Điều giác ngộ thứ hai: Đa dụccăn bản của sinh tử. Còn điều giác ngộ thứ ba: Tri túccăn bản để gìn giữ đạo nghiệp. Muốn lìa sinh tử, đầu tiên phải trừ dục; muốn tu chính đạo, trước hết phải tri túc. Người không tri túc, cho dù tu hành bao lâu năm, vẫn không có ngày thành tựu.

Tâm của chúng sinh không bao giờ thấy thỏa mãn đối với những gì mình đã có được. Tiền bạc có một trăm lại nghĩ đến một ngàn, được một ngàn lại đòi lên một vạn! Quan vị là quận trưởng mong làm tỉnh trưởng, lên tỉnh trưởng lại muốn làm bộ trưởng!

Có một bài ca nói thật đúng cái tâm không biết đủ của con người:

Suốt ngày bận rộn cũng chỉ vì
Lo ăn, lo mặc chuyện áo y
Ăn mặc đủ rồi, lại suy nghĩ:
Phòng trung còn thiếu vợ đương thì!
Vợ đẹp, hầu non đều đủ cả
Ra vào xe ngựa lấy đâu đi?
Ngựa đã thành bầy, xe đã sẵn
Lại lo ruộng ít, khó thu chi!
Mua được ruộng vườn trăm vạn mẫu
Sợ không quan chức bị người khi!
Tam phẩm, tứ phẩm còn chê nhỏ
Ngũ phẩm, thất phẩm có ra gì.
Nhất phẩm vừa lên quan tể tướng
Lại muốn làm vua, chắc có khi?
Thỏa lòng lên được ngôi thiên tử
Mơ ước thành tiên sống trường kỳ!
Tham vọng leo thang không dừng nghỉ
Vô thường chợt đến, ôm hận đi!

Đây là nói về một người sống trong dục vọng, không bao giờ biết đủ về giàu sang, công danh, để kiếp người đáng qúi trôi qua trong phiền não khổ đau.

Tai họa trên thế gian, tội ác trong cuộc sống đều do tâm không biết đủ này mà ra. Mọi người ai cũng biết:

Một mai vô thường đến
Mới hay mộng huyễn thân
Muôn việc đem chẳng được
Chỉ nghiệp theo thức thần!

Nhưng họ sống một ngày là lại tham cầu một ngày!

Theo truyền thuyết, ông Lữ Động Tân vốn là vị tu tiên về sau qui y Phật giáo. Một hôm, ông chợt khởi lên ý tưởng muốn thử căn cơ chúng sinh, xem có thể hóa độ được không. Ông liền hóa làm một ông lão xuống phàm trần và gặp một đứa trẻ. Ông bước đến hỏi:

- Này chú bé, chú muốn gì? Chỉ cần chú nói cho tôi biết, tôi sẽ làm vừa lòng chú!

Chú bé ấy suy nghĩ, cái quí nhất trong đời không gì hơn vàng, có vàng chuyện gì làm cũng xong, nên đáp:

- Tôi muốn có một khối vàng!

Lữ Động Tân liền chỉ ngón tay vào tảng đá bên cạnh, khối đá bổng nhiên biến thành khối vàng! Ông nói:

- Này chú nhỏ, hãy mang khối vàng này đi, xem như là lễ ra mắt của chúng ta!

Chú bé ấy ngạc nhiên đến sững người trước việc chỉ đá hoá vàng của Ngài, nhưng sau khi suy nghĩ một lát, lại nói:

- Tôi không muốn khối vàng này!

- Vì sao không muốn?

- Tôi chỉ muốn ngón tay của Ngài!

- Ngươi muốn ngón tay ta để làm gì?

- Vừa rồi Ngài nói sẽ làm vừa lòng tôi. Khối vàng này có lúc sẽ xài hết, nếu Ngài cho tôi ngón tay, lúc cần tiền chỉ việc dùng nó để chỉ đá hóa vàng, sẽ mặc sức tiêu xài!

Chú bé này tâm không biết đủ, không nhận ra tấm lòng của người tốt khiến cho Lữ Động Tân vô cùng thất vọng. Ngài chỉ còn biết than chúng sinh khó độ mà thôi!

Chúng sinh tâm không biết đủ, chỉ lo tham cầu, tăng thêm tội ác là một điều không thể phủ nhận. Tham dục càng nhiều, tội lỗi càng lắm. Không ai biết nghĩ đến:

Ngàn gian nhà rộng thênh thang Đêm nằm ngủ chỉ vài gang là vừa Tiền muôn bạc vạn thải thừa Ngày ăn ba bữa, cất chừa làm chi?

Đàng sau gia tài đồ sộ kia, không biết che dấu biết bao tội ác! Bên trong địa vị cao sang đó, ai hay ẩn chứa thật lắm âm mưu! Những tham cầu phi pháp, làm tăng thêm tội lỗi, tóm lại có mấy điểm như sau:

Lấy trộm tài vật của người:

Ví dụ như ăn trộm, ăn cướp, làm thổ phỉ chuyên cướp đoạt tài vật của người để sống.

Chối bỏ trách nhiệm:

Như mượn đồ vật của ai, đến kỳ không trả, lại chối nói không có, hay đổ thừa, hại người lợi mình

Nuốt lời gửi gắm:

Ví dụ có người bận việc đi xa, gửi đồ cho mình trông coi hộ. Đến khi họ trở về lấy lại, mình phủ nhận, rồi chiếm làm của riêng.

Dối lấy của chung:

Ví dụ hai người cùng hùn vốn làm ăn, khi có lợi nhuận đáng lẽ phải chia đều, mà mình vì muốn hưởng nhiều hơn, nên số lời nhuận đúng ra là mười triệu mà chỉ nói có năm triệu.

Thừa cơ chiếm dụng:

Ví dụ biển thủ của công, giảm bớt giờ làm, ăn xén vật liệu, mượn của công làm việc tư v.v….

Cậy thế lực lấy của người:

Ví dụ như tham ô, dùng thủ đoạn qua mặt pháp luật, mượn thế lực chèn ép, cưỡng đoạt của người ta, khiến cho họ không dám kêu ca.

Kinh doanh phi pháp:

Như mở quán rượu, vũ trường hay giết heo mổ trâu, hoặc buôn bán các dụng cụ sát sinh.

Lòng người không biết nhàm đủ, nên việc tham cầu phi pháp là điều không thể tránh khỏi. Thực ra, y phục vốn là để che thân và ngăn gió lạnh, nhưng người có tiền lại đòi hỏi quần là áo lụa, nhung gấm hoa hòe; cơm ăn vốn cho khỏi đói, nhưng người có tiền lại muốn mâm cao cỗ đầy, sơn hào hải vị; chỗ ở vốn để tránh gió che mưa, nhưng người có tiền lại muốn nhà cao cửa rộng, trang hoàng lộng lẫy; về mặt giải trí thì núi sông hoa cảnh trong thiên nhiên người ta không cho là đủ, lại còn rượu chè, khiêu vũ, bài bạc đủ thứ . Vật chất hữu hạn mà dục vọng con người lại vô cùng thì làm sao thỏa mãn cho được? Do đó con người cứ chạy theo lòng dục, luôn mãi tìm cầu, bất kể thủ đoạn, hại người lợi mình, gây ra vô số tội ác.

Phàm phu trong vòng điên đảo do tâm không biết đủ nên tham cầu nhiều điều phi pháp. Nhưng bậc Bồ tát tu hành lại thường nhớ đến tri túc, vui cảnh nghèo giữ đạo, lấy tuệ làm sự nghiệp. Pháp sư Đạo An đời Tấn là vị công thần bậc nhất trong lịch sử Trung Quốc. Một hôm có cư sĩ là Khích Siêu sai người dâng Ngài một ngàn hộc gạo trắng để cúng vào ngôi Tam Bảo. Trong chùa không có kho lương thực lớn nào có thể chứa đủ số lượng nhiều như thế. Ngài Đạo An phải dành ra ba ngôi nhà lầu mới để hết một ngàn hộc gạo. Nhân đó Ngài viết thư trả lời cư sĩ Khích Siêu, trong đó có đoạn viết: "Nhờ ông cúng cho chúng tôi một ngàn hộc gạo, nhưng cũng vì thế mà tăng thêm phiền hà cho việc chứa cất!"

Bất cứ ai cũng hiềm của cải ít, mà Đạo An lại hiềm của cải nhiều! Đây là tâm lượng của bậc Thánh giả, là thái độ của Bồ tát đối với thế gian.

Bậc tu đạo giác ngộ đối với vật dục thế gian cho rằng: Tham cầu nhiều, kết quả sẽ bần cùng; hoan hỷ xả bỏ, sẽ giàu có hạnh phúc. Của cải nhiều thì tâm làm tôi mọi cho hình hài, cuộc sống không sao an tĩnh được!

Một người không biết tri túc, tâm đam mê ngoại cảnh, hễ tham tài lợi thì sinh mạng nằm trong tay của tài lợi; hễ tham sắc đẹp thì sinh mạng nằm trong tay của sắc đẹp! Người tham lam cần phải biết, ngay thân mình còn không giữ được, huống chi của cải là những thứ bên ngoài? Như các tay cự phú bao đời mà nay có còn đâu? Nếu biết tri túc thì sinh mệnh mới an định, cuộc sống mới thực sự an lạc.

Thuở xưa có một người cưỡi la ra ngoài dạo chơi, gặp một người cưỡi ngựa đi phía trước, trong lòng rất ưa thích, mong ước có được con ngựa cao to như thế để cưỡi. Nhưng liền đó anh ta quay đầu lại nhìn thấy một người đang cực nhọc đẩy xe mồ hôi như tắm. Anh suy nghĩ chu đáo, tâm tham muốn liền lắng dịu, rồi cảm khái thốt lên bài thơ:

Người khác cưỡi ngựa, mình cưỡi la
Tủi thân sao lại kém người ta?
Quay đầu chợt gặp ông xe đẩy
Mới thấy vẫn còn hơn người xa!

Điều này cho thấy, nếu chúng ta nhìn người giàu sang hơn mình, sẽ bất bình, sinh tâm không biết đủ. Nhưng nếu ta so với người nghèo hèn hơn, sẽ tự nhiên không còn tham cầu, không tạo nghiệp xấu. Câu biết đủ thường an lạc thật đáng cho người học đạo chúng ta ghi lòng tạc dạ!

Người giác ngộ luôn luôn là người tri túc nên không tham cầu phi pháp. Bồ tát giác ngộ không phải là không cần tiền, mà là khéo biết dùng tiền. Tiền bạc tích trữ thì không phải thuộc về mình, tiền bạc dùng vào việc có ích mới thuộc về mình. Cho nên cách người giác ngộ xử lý tiền bạc như sau:

Mười phần tiền của kiếm được, hai phần dùng vào việc phước thiện, bố thí cúng dường; hai phần chi dụng trong cuộc sống hàng ngày; hai phần để dành phòng khi già cả, yếu đau, và lúc cần gấp. Còn lại bốn phần dùng vào việc kinh doanh để phát triển gia nghiệp.

Phật Pháp nói tiền bạc là sở hữu chung của năm nhà:

1. Nhà vua quan: Bọn tham quan ô lại có thể dựa vào quyền thế để tước đoạt của cải chúng ta.

2. Nhà lửa nước: Tai nạn lũ lụt, hỏa hoạn có thể cuốn trôi, đốt sạch của cải chúng ta trong một buổi.

3. Nhà trộm cướp: Trộm cướp lén lấy trộm hay ngang nhiên cướp đoạt của cải chúng ta.

4. Nhà chiến tranh: Gặp lúc chiến tranh khói lửa, nhà cửa ly tán, của cải càng nhiều càng lo sợ, nguy hiểm.

5. Nhà con cái: Gặp con cái bất hiếu, phá tán gia tài, khiến tan nhà nát cửa.

Tiền của chính thuộc về năm nhà này. Người tri túc vì biết: Người ta ăn thì còn, còn mình ăn thì hết, nên không chỉ cất chứa, hưởng thụ riêng cho mình, mà còn biết bố thí cúng dường để vun trồng cội phước và làm những việc lợi ích. Của cải đó mới là chân thật của mình.

Thời Chiến Quốc vua Tề Tuyên Vương muốn bái Nhan Xúc làm thầy, nên nói với ông rằng:

- Chỉ cần Ngài nhận tôi làm đệ tử, sống chung với tôi, thì mỗi ngày sẽ ăn cao lương mỹ vị, mặc toàn lụa là gấm vóc, ra ngoài có kiệu xe đưa rước, lại thêm có mỹ nhân hầu hạ.

Nhan Xúc thản nhiên đáp:

- Cảm ơn lòng tốt của Ngài, nhưng tôi không mong làm thầy của vua. Tôi chỉ mong được thảnh thơi ăn cơm, thì ngon đồng như ăn thịt; ra đường từ từ dạo bước, nào khác với việc đi xe; an phận giữ mình, không làm điều sai quấy, thì đó là tôn quí; đời sống thanh tịnh, phàm làm việc gì đều không trái với đạo lý, thì đó là an lạc, hạnh phúc.

Tri túc như Nhan Xúc mới không bị thế gian làm nhục. Người tu hạnh Bồ tát có thể sống yên vui trong cảnh nghèo vẫn giữ đạo thanh tịnh, lấy việc cầu trí tuệ giải thoát làm sự nghiệp cả đời mình. Đại sư Huệ Năng giã gạo chuyên cần. Thiền sư Bách Trượng một ngày không làm, một ngày không ăn. Luật sư Hoằng Nhất mấy mươi năm mặc một chiếc áo bông. Hòa thượng Hư Vân lúc ở chùa Chân Như chỉ uống nước thay cơm mà không khuất phục trước thế lực ác. Học được tinh thần vui nghèo giữ đạo của các vị đó mới có thể thực sự thấu hiểu được cuộc sống, tận dụng được cuộc sống!

Bồ tát tu học Phật Pháp không nhất thiết phải nghèo khổ mới gọi là thanh cao. Trong Phật giáo có rất nhiều vị trưởng giả giàu có. Nếu bên trong tham dục không trừ, bề ngoài làm ra vẻ khổ hạnh, đây là điều cần phải tránh!

Trong Phật giáo, cũng không phải dạy chúng ta không cần tiền, mà dạy chúng ta nên có tiền của chính đáng, dùng vào chỗ chính đáng. Nếu tiền của có được và sử dụng một cách chính đáng, thì có càng nhiều lại càng tốt! Nếu là tiền của không chính đáng, dầu một đồng xu cũng không lấy.

Thuở Phật còn tại thế, một hôm Ngài và A Nan cùng đi trên đường, gặp một khối vàng không biết là của ai đánh rơi. Đức Phật thấy rồi quay sang A Nan bảo:

- Này A Nan, ông có thấy không? Rắn độc đó!

A Nan đáp:

- Bạch Phật con có thấy. Quả là rắn độc!

Đức PhậtA Nan đi khỏi, hai cha con nông dân đang làm ruộng nghe nói rắn độc, bèn hiếu kỳ bước lại xem thử, song không ngờ đó lại là một khối vàng! Hai người hết sức vui mừng, cười thầm thầy trò đức Phật thấy của qúi mà không biết. Họ bèn mang khối vàng về nhà, cho rằng nay mai sẽ phát tài. Không bao lâu, nhà vua biết vàng bạc trong kho có người trộm mất nên ra lệnh điều tra. Đội điều tra tìm thấy trong nhà hai cha con có khối vàng ròng, thật không cách gì chối khỏi tội trộm, khi chứng cứ đã rành rành. Do đó họ bị bắt giam vào ngục, khép vào tử tội. Hai cha con nông dân thấy mình thật oan uổng, mới nhớ lại lời đức Phật nói với A Nan quả không sai. Người cha bèn đóng vai đức Phật, nói với con rằng:

Này A Nan, ông có thấy không? Rắn độc đó!

Người con đáp:

Bạch đức Phật, con có thấy. Quả là rắn độc!

Quan coi ngục nghe hai cha con hỏi đáp rất lấy làm kỳ lạ, nên cho thẩm vấn lại, điều tra kỹ lưỡng mới biết họ bị oan.

Hai cha con người đó vì cất chứa vàng bạc mà làm hại mình. Họ lại nhờ nhớ được lời Phật và A Nan đối đáp về đạo lý vui nghèo giữ đạo mới được cứu thoát. Qua đó ta thấy, của cải không phải phần mình không nên lấy, vui nghèo giữ đạo mới là cách sống an ổn chân chính.

Tiền bạc là rắn độc, nhưng sống không thể thiếu tiền bạc. Cho nên tiền bạc cũng là tư lương của người học đạo. Đây chỉ là vấn đề sử dụng tiền bạc đúng hay không đúng mà thôi! Dùng tiền bạc để lo sự nghiệp xây dựng hạnh phúc cho mọi người; dùng tiền bạc để hộ trì việc tu học, bồi dưỡng giới thân tuệ mạng của tăng ni, thì tiền bạc không phải là rắn độc mà là tịnh tài!

Bậc Thánh giả vui nghèo giữ đạo, lấy trí tuệ làm sự nghiệp, thì không nên cất chứa rắn độc, song nên biết dùng tịnh tài để lo việc Phật sự.

Dịch Thơ:

Điều thứ ba biết tâm giong ruổi
Luôn tìm cầu, đeo đuổi chẳng nhàm
Không sao thỏa được lòng tham
Tội kia theo đó, càng làm càng sâu
Bậc Bồ tát vô cầu, biết đủ
Vui phận nghèo, qui củ tu hành
Trau dồi tuệ nghiệp lợi sanh
Vung gươm trí tuệ, cắt mành vô minh.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12423)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 13972)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10741)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10406)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11075)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11869)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13045)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13527)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33514)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11252)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12825)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 12959)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11526)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17772)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11320)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11747)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11405)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18872)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12461)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11217)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13060)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15625)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11732)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11610)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12633)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12548)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13863)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12889)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12834)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13202)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12652)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12609)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11665)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11654)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12233)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12253)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19689)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11878)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11905)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16730)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12574)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 14947)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 15981)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12763)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12141)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11802)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11843)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13047)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16419)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13144)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12389)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11732)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19737)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11070)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11180)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10315)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11015)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10883)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 9951)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11657)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant