Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. Phật Chỉ Tâm Lần Thứ Ba

01 Tháng Tư 201100:00(Xem: 10741)
4. Phật Chỉ Tâm Lần Thứ Ba

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM GIẢNG GIẢI
SURAMGAMA SUTRA
Lê Sỹ Minh Tùng
Cuốn Một

Chương Thứ Ba

Phật Chỉ Tâm Lần Thứ Ba

Phật bảo :


- Này đại vương! Như đại vương đã biết ngay nơi thân ông đang tồn tại, nay Như Lai hỏi ông. Thân máu thịt này của ông có giống như thân kim cương bất hoại hay sẽ bị biến hoại?
Bạch Thế Tôn! Thân con hiện nay, rốt cuộc rồi sẽ bị biến hoại.


Đức Phật bảo :


- Đại vương! Ông chưa từng diệt, làm sao biết mình sẽ biến diệt?


- Bạch Thế Tôn! Cái thân biến hoại vô thường của con hiện nay tuy chưa từng diệt, nhưng con thấy trước mắt, từng niệm dời đổi mãi không ngừng như lửa tàn thành tro, dần dần tiêu tan. Vì tàn hoại không dừng nên con biết chắc thân này sẽ bị diệt mất.


Đức Phật nói :


- Này Đại vương! Đúng như vậy.


Đại vương! Ông nay tuổi đã già yếu, dung mạo so với lúc trẻ như thế nào?


- Bạch Thế Tôn! Khi xưa con còn bé, da dẻ tươi nhuận, đến tuổi trưởng thành, khí huyết sung mãn, nay tuổi già, thân thể cũng theo đó mà già yếu khô gầy, tinh thần không còn sáng suốt, tóc bạc mặt nhăn, sống chẳng còn bao lâu. Làm sao có thể so sánh với khi còn trẻ mạnh.
Phật bảo:


- Này đại vương! Thân thể của ông đâu phải già liền?


Vua Ba-tư-nặc thưa:


- Bạch Thế Tôn! Nó âm thầm thay đổi, con thật chẳng biết, lạnh nóng đổi dời cho đến ngày nay. Vì sao? Lúc hai mươi tuổi, tuy tuổi còn nhỏ, nhưng sắc mặt đã già hơn lúc mười tuổi. Khi ba mươi thì già hơn lúc mới hai mươi. Nay con đã sáu mươi hai tuổi, so với lúc năm mươi tuổi, rõ ràng lúc năm mươi tuổi cường tráng hơn nhiều.


- Bạch Thế Tôn! Con thấy nó âm thầm dời đổi, tuy cái già nua nầy thay đổi trong vòng mười năm. Nếu con suy nghĩ kỹ hơn, chẳng những nó thay đổi trong khoảng một kỷ, hai kỷ mà thực ra nó thay đổi trong mỗi năm, chẳng những nó thay đổi trong từng năm, mà thực ra nó thay đổi trong từng tháng. Chẳng những nó thay đổi trong từng tháng, mà thật ra nó thay đổi trong từng ngày. Suy nghĩ thật sâu, quán sát thật kỹ, thấy nó thay đổi trong từng sát na, trong từng mỗi niệm, không hề dừng nghĩ. Thế nên con biết thân này cuối cùng phải chịu sự biến đổihoại diệt.
Đức Phật bảo :


- Này đại vương! Ông thấy sự biến hóa thay đổi không ngừng, nên biết thân mình hoại diệt. Vậy chính khi nó hoại diệt, ông có biết trong thân có cái gì không hoại diệt chăng?
Vua Ba-tư-nặc thưa :


- Thật con chẳng biết.


Đức Phật đã khai thị cho vua Ba-tư-nặc và đại chúng thấu rõ sắc thân tứ đại là một hiện tượng, một dạng vật lý cho nên phải bị chi phối bởi luật vô thường của tạo hóa. Sắc thân thay đổi không ngừng, biến hóa theo niên kỷ, tháng ngày dời chuyển, thay đổi từng giờ, từng phút, từng sát na.



Phật Chỉ Cái “Tánh Thấy” Không Sinh Diệt


Đức Phật bảo :


- Nay tôi sẽ chỉ cho ông tánh chẳng sinh diệt.


Đức Phật bảo :


- Này đại vương! Ông thấy nước sông Hằng lúc mấy tuổi?


Vua Ba-tu-nặc thưa :


- Khi lên ba tuổi, mẹ con dẫn đến lễ bái Kỳ-đà-thiên, có đi qua con sông này. Con được thấy nước sông Hằng khi ấy.
Đức Phật bảo :


- Này đại vương! Như ông vừa nói, khi ông hai mươi tuổi thấy mình già hơn khi mười tuổi, cho đến khi sáu mươi tuổi , ngày qua tháng lại, niệm niệm dời đổi. Vậy khi ông thấy nước sông Hằng lúc ba tuổi so với cái thấy nước sông Hằng lúc mười ba tuổi như thế nào?


Nhà vua thưa :


- Cái thấy ấy không khác so với khi còn ba tuổi, cho đến nay con đã 62 tuổi, cái thấy ấy vẫn không khác.


Đức Phật bảo :


- Nay ông tự cảm thương tóc bạc mặt nhăn, mặt ông nhất định là nhăn hơn lúc trẻ. Vậy cái thấy sông Hằng của ông hiện nay và cái thấy lúc còn nhỏ có già có trẻ chăng?


Vua Ba-tư-nặc thưa :


- Bạch Thế Tôn! Không vậy.


Đức Phật bảo :


- Mặt ông tuy nhăn, nhưng tánh thấy này chưa từng bị nhăn. Cái bị nhăn thì biến đổi, còn cái không bị nhăn thì chẳng biến đổi.
Cái biến đổi thì phải bị hoại diệt, cái không biến đổi kia vốn chẳng sinh diệt, làm sao trong đó nó nhận chịu sự sinh tử của ông? Mà ông còn dẫn lời của ngoại đạo Mạt-già-lê rằng : ”Thân này sau khi chếthoàn toàn mất hẳn”.


Vua nghe lời ấy, tin rằng thân này sau khi chết sẽ sinh thân khác, nên vua cùng đại chúng vui mừng hớn hở như được điều chưa từng có.


Theo tục lệ của người Ấn Độ vào thời Đức Phật thì người Ấn Độ phải đến sông Hằng để lấy nước sông mà xối từ đỉnh đầu xuống khắp châu thân để gội sạch tất cả những ô nhiễm, dơ bẫn giúp cho họ loại bỏ những vô minh mà có được trí tuệ sáng suốt. Vì thế mà vua Ba-tư-nặc cũng làm theo tục lệ này nên khi lên ba tuổi được mẹ dắt đến sông Hằng trước là lễ lạy thần sông Kỳ-bà-thiên và sau đó dùng nước thiêng của sông Hằng mà rửa sạch những uế trược, bẩn nhơ.


Ngày nay chúng ta sống ở những quốc gia Tây phương, tín đồ của những hệ phái tin lành, Thiên chúa giáo cũng dùng nước thánh (nước lạnh từ trong faucet) để rửa tội. Họ làm những cái bồn lớn như bồn tắm rồi nhận tín đồ vào đó cho ước toàn thân thì những tội lỗi do tổ tiên gây ra sẽ được xóa sạch. Đây là họ bắt chước theo câu chuyện ông thánh John đã rửa tội cho chúa Jesus trong dòng sông Jordan hai ngàn năm về trước. Thật ra người Phật tử không cần phải đến sông Hằng, hay qua tận trung Đông để ngâm mình trong dòng sông Jordan mà rửa tội. Vì có rửa cũng chẳng bao giờ sạch được. Nếu tội lỗi có thể dùng xà phòng, hay nước mà rửa được thì chúng ta tắm hằng ngày bao nhiêu tội ác cũng theo dòng nước trôi đi đâu còn nữa. Như vậy thế giới này sẽ biến thành thiên đường cực lạc rồi, nhưng tại sao con người vẫn còn tranh chấp giết hại lẫn nhau? Tội là do tâm tạo để biến thành nghiệp chướng. Nhưng tâm là tư tưởng mà dùng nước rửa bên ngoài thì làm sao xóa được những tư tưởng thiện ác trong tâm!


Tuy sắc thân tứ đại biến đổi, hư hoại, thoái hóa theo thời gian, không gian cũng như :


“Xuân đến trăm hoa nở


Xuân đi trăm hoa rụng


Sự vật đổi thay trông trước mắt


Già nua biểu hiện mái tóc sầu”.


Nhưng trong cái vô thường sinh diệt đó, còn có cái thường hằng bất sinh bất diệt. Đó là cái tánh thấy. Thật ra tánh thấy cũng là một hiện tượng, nhưng là hiện tượng của sự tùy duyên biểu hiện của bản thể chân như. Vì thế thân già mắt kém nhưng tánh thấy không già. Tóc tuy có điểm màu sương, lưng có còm, má có hóp nhưng tánh thấy vẫn sáng suốt như ngày nào, không tăng không giảm. Trong thế giới hữu vi sinh diệt, hễ có sắc, có tướng là có thay đổi rồi sẽ hoại diệt mất đi. Chỉ có bản thể chân thườngbất sinh bất diệt cũng như :


Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết


Trước sân, xuân nọ cành mai hãy còn.


Xuân đến thì mai nở, xuân đi thì mai rụng cũng như duyên đến thì thân sanh, duyên tan thì thân hoại. Xuân đến, xuân đi, mai nở, mai tàn, nhưng cây mai trước sân nhà đâu có mất. Cũng như sắc thân có sinh có diệt, nhưng bản thể chân như có mất bao giờ.

A Nan Cầu Phật Chỉ Cái “Điên Đảo”.


A Nan từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay quỳ xuống bạch Phật :


- Bạch Thế Tôn! Nếu cái thấy nghe này không sanh diệt, tại sao chúng con bỏ quên chân tánh, làm việc điên đảo? Nguyện xin Thế Tôn đem lòng thương xót rửa sạch trần cấu cho chúng con.
Liền khi ấy, Đức Phật buông cánh tay sắc vàng, năm ngón tay chỉ xuống, bảo A Nan rằng :


- Nay ông thấy cánh tay tôi như thế này là xuôi hay ngược?


A Nan thưa :


- Chúng sinh trong thế gian đều cho đó là ngược, riêng con chẳng biết thế nào là xuôi hay ngược.


Đức Phật bảo A Nan :


- Nếu người thế gian cho là ngược, vậy họ cho thế nào là xuôi?


A Nan thưa :


- Khi Như Lai đưa cánh tay hướng lên trên không thì gọi là xuôi.


Bấy giờ Phật đưa cánh tay lên và bảo ông A Nan :


- Cái trái ngược của ông là ở chỗ đó, chỉ có một việc thay đổi lẫn nhau vậy mà người thế gian gán cho cái thấy một ý niệm Ngược, Xuôi. A Nan! Thân ông và thân Như Lai chẳng khác gì nhau, nhưng thân Như Laipháp thân thanh tịnh chánh biến tri giác, còn thân ông gọi là tánh điên đảo. Vậy ông hãy chín chắn suy nghĩ tìm xem sự trái ngược của thân ông và thân Phật khác ở chỗ nào?


Khi ấy A Nan cùng toàn thể chúng hội chăm chú nhìn Phật không chớp mắt, không biết nơi thân tâm mình chỗ nào là điên đảo?


Đức Phật khởi lòng từ bi, thương xót A Nan và cả đại chúng, nên phát ra lời nói bằng âm thanh như tiếng hải triều, bảo khắp đại chúng :


- Này các thiện nam tử! Như Lai thường nói sắc, tâm và tâm sở pháp đều duy tâm biến hiện. Thân tâm các ông chỉ là vật ở trong chơn tâm minh diệu. Tại sao các ông bỏ mất đi cái chơn tâm minh diệu quý báu mà nhận lấy cái mê trong ngộ?


Dựa vào câu hỏi thì đủ biết ông A Nan vẫn chưa thấy được chân tánh nên lấy vọng làm chân mà tâm sinh điên đảo. Đứng về mặt chơn đế, vạn pháp vốn không có tên tuổi, nhưng đứng về mặt tục đế, nhân sinh xã hội đặt cho sự vật vạn pháp một danh ngôn để xưng gọi mà con người sống phù hợp theo tánh hiện thực khách quan của nó. Nhưng tai hại của danh ngôn là do sanh lòng chấp mắc. Con người vì chấp vào hình tướng nên cho rằng hướng này đúng hướng kia sai, tay đưa lên là xuôi hay đưa xuống là nghịch. Xuôi đối với người này mà nghịch đối với người kia thì xuôi ngược nói sao chẳng được, lấy gì làm tiêu chuẩnnói đúng hay sai. Ông A Nan còn để tâm duyên theo tiền trần thì bị Phật quở là đúng rồi.

Khi cư sĩ Duy Ma Cật hỏi Bồ-tát Nhất Sanh Bổ Xứ Di Lặc trong Kinh Duy Ma Cật rằng : ”Thế Tôn thọ ký cho Ngài một đời nữa sẽ thành Phật. Đời quá khứ đã qua, đời hiện tại biến chuyển không ngừng, đời tương lai chưa đến. Vậy một đời là đời nào? Theo Phật giáo không có cái móc thời gian nên thời gian là giả huyển, không thật. Con người đặt ra để gọi thế thôi. Người Tàu gọi giờ thìn, giờ ngọ. Người Mỹ gọi năm giờ, bảy giờ…Cũng cùng một thời gian mà bên Mỹ là mùa đông giá rét, còn ở Úc là mùa hè nóng bức. Ở Việt nam là ban đêm trong khi đó ở Hoa kỳ lại là ban ngày. Thế thì thời gian nào là thật? Con người còn chạy theo hình sắc bên ngoài là chạy theo sinh diệt, còn biết quay về với thật tướng, chân tánh thì mới sống được với chơn tâm thanh tịnh thường hằng bất biến. Nhưng chân tánhchân không thì làm sao thấy được mà so sánh xuôi hay ngược.


Bây giờ Phật hỏi tại sao thân Phật và thân ông A Nan giống nhau mà thân Phật gọi là pháp thân thanh tịnh Chánh biến tri, còn thân A Nan là thân điên đảo? Nếu nhìn từ hình sắc thì thân của Đức Phật và thân của A Nan đều là thân tứ đại, chịu sinh lão bệnh tử như nhau, không sai không khác. Nhưng ở đây Đức Phật dùng chữ “pháp thân thanh tịnh” cho nên thân mà Đức Phật muốn ám chỉ trong đoạn kinh này không phải là ứng thân sinh diệt mà chính là pháp thân, là chơn tâm thanh tịnh có sẳn trong tất cả mọi chúng sinh. Cái khác nhau ở đây là Đức Phật lúc nào cũng sống với chơn tâm. Đó là Ngài làm chủ bản thân, làm chủ vạn pháp và làm chủ tâm tánh mình. Đức Thế Tôn nhìn tất cả hiện tượng vạn pháp với cái “tri kiến vô kiến” nghĩa là thấy mà như không thấy nên tâm không còn dính mắc. Cái tâm này chính là pháp thân thanh tịnh Chánh biến tri. Ngược lại ông A Nanđại chúng sống với tâm phan duyên, chạy theo ngoại trần mà quên bỏ tâm tánh của mình. Ông nhận thức vạn pháp theo “tri kiến lập tri” nghĩa là thấy sao biết vậy nên tâm chất đầy vọng tưởng, không thanh tịnh. Do đó Phật quở ông A Nan vì bỏ mất chơn tánh nên A Nan sống với tánh điên đảo là như vậy.


Dựa theo Duy thức luận, tâm gồm có tám thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt-na thứca-lại-da thức) đều có quyền tự chủ, tự tại, cũng như vị vua nên được gọi là “tâm vương”. Vị quốc vương thì phải có quần thần phụ tá, tâm vương thì cũng phải có bộ hạ tùy tùng giúp đở mới tác tạo ra nghiệp. Những bộ hạ này không được tự tại nên gọi là “tâm sở” hay “tâm sở pháp”. Những thứ như tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến…đều thuộc về tâm sở. Sắc thuộc về sắc pháp như hình sắc, màu sắc, nhưng sắc là tướng phát sinh bởi tâm vươngtâm sở. Do đó sắc, tâm và tâm sở pháp cũng đều do tâm biến hiện. Vì thế nếu sống với tánh thì có được chơn tâm, ngược lại chạy theo trần thì sống trong điên đảo khổ đau.
Phật lại dạy rằng :


A Nan! Mê muội thành ra có hư không, trong hư không mê muội ấy, kết cái tối tăm thành sắc. Sắc xen tạp với vọng tưởng, nhận tướng vọng làm thân. Cảnh sắc bên ngoài phản ánh tư tưởng bên trong rồi cho cái tác dụng nghĩ ngợi lăng xăngtâm tánh. Một khi đã lầm là tâm thì chắc chắn nhận lầm tâm ở trong thân. Chẳng biết rằng từ sắc thân cho đến núi sông hư khôngthế giới đều là vật ở trong chơn tâm minh diệu. Thật chẳng khác trăm ngàn biển lớn sạch trong, chỉ nhận một cái bọt nước rồi cho đó là nước của toàn thể đại dương. Các ông là những người trong đám người mê, chỉ một cánh tay Như Lai mà nảy sanh quan niệm Ngược Xuôi, tranh biện. Như Lai gọi các ông là những người đáng thương xót.


Ông A Nanđại chúng cũng vì nhận tâm phan duyên làm chơn tâm nên sống trong điên đảo mà tạo nghiệp để phải lưu chuyển trong sinh tử luân hồi. Vì còn mê nên con người chỉ tham đắm hình sắc ảo tưởng, giả dối sinh diệt bên ngoài mà quên quay về sống với cái chân thật, thanh tịnh, không sinh diệt, lúc nào cũng có bên trong là chơn tâm, là bản lai diện mục, là Phật tánh vĩnh hằng trong tất cả mọi chúng sinh. Hình sắc có khác biệt như núi cao rừng thẳm, chim bay cá lặn, trời xanh mây trắng và những hình ảnh đó tuy có đẹp đẽ, hấp dẫn hay quyến rũ đến đâu thì tất cả cũng đều do bản tâm biến hiện. Người mê thì lấy sắc, hư không làm tâm, chẳng khác nào như thấy một bọt biển nhỏ bé mà cho rằng đó là toàn thể nước của đại dương. Còn kẻ thức tỉnh thì sống với chơn tâm bao la vô cùng vô tận cũng như toàn thể nước của đại dương không còn ngăn ngại.


Tuy chơn tâm rộng lớn bao la vô cùng vô tận, nhưng còn người sống với tâm phan duyên, nhận các tướng sinh diệt của trần cảnh làm bản tâm nên chính họ đã đánh mất đi cái chân tánh trong sạch tức là chơn tâm minh diệu. Vì thế Đức Phật mới gọi đây là sự trái ngược cũng giống như cánh tay của Như Lai đang buông rũ xuống.


Chúng sinh vì chấp cái sắc thân tứ đạithế giới giả dối sinh diệt bên ngoài mà đánh mất đi cái hiện hữu không sinh diệt đã sinh ra nó cho nên Đức Phật mới gọi đây là sự đảo lộn. Thí dụ khi chúng ta nhìn vào tấm gương thì thấy tất cả những hình tướng phản chiếu từ tấm gương. Nào là nhà xinh xe đẹp; nào là núi cao rừng thẳm; nào là trăng sáng mây bay; thiên hình vạn tướng…Con người thấy được những hình sắc đẹp đẻ trong gương nhưng họ quên mất những hình sắc đó là do sự soi chiếu từ bản gương. Cũng thế chơn tâm là cội nguồn sinh ra tất cả vạn pháp trên thế giancon người quên bỏ nó để chạy theo tâm phan duyên sinh diệt. Do đó người mê thì họ sống trong sắc tướng thế giới giả dối, còn người giác ngộ luôn sống trong chân tánh thanh tịnh của bản tâm. Dựa theo Pháp Giới Duyên Khởi thì “Bất biến Tùy duyên” có nghĩa là khi có đủ nhân duyên thì Bản Thể Chân Như duyên khởi thành vạn vật trong thế gian này.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19863)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28976)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20694)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19446)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30506)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36431)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33237)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35575)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20993)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21926)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25263)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25801)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31270)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18566)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25146)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23777)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28946)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20873)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31446)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25553)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29725)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22530)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25725)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23289)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25754)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23728)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40617)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23356)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22454)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22103)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23515)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16972)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23290)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24319)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41112)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18999)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20494)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27731)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38130)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34082)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36793)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24006)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29201)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60166)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27626)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68751)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24540)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24504)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22720)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26376)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26551)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20826)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20067)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27556)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46446)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53588)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23618)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21100)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25588)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29273)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant