Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. Phật Chỉ Tâm Lần Thứ Ba

01 Tháng Tư 201100:00(Xem: 10744)
4. Phật Chỉ Tâm Lần Thứ Ba

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM GIẢNG GIẢI
SURAMGAMA SUTRA
Lê Sỹ Minh Tùng
Cuốn Một

Chương Thứ Ba

Phật Chỉ Tâm Lần Thứ Ba

Phật bảo :


- Này đại vương! Như đại vương đã biết ngay nơi thân ông đang tồn tại, nay Như Lai hỏi ông. Thân máu thịt này của ông có giống như thân kim cương bất hoại hay sẽ bị biến hoại?
Bạch Thế Tôn! Thân con hiện nay, rốt cuộc rồi sẽ bị biến hoại.


Đức Phật bảo :


- Đại vương! Ông chưa từng diệt, làm sao biết mình sẽ biến diệt?


- Bạch Thế Tôn! Cái thân biến hoại vô thường của con hiện nay tuy chưa từng diệt, nhưng con thấy trước mắt, từng niệm dời đổi mãi không ngừng như lửa tàn thành tro, dần dần tiêu tan. Vì tàn hoại không dừng nên con biết chắc thân này sẽ bị diệt mất.


Đức Phật nói :


- Này Đại vương! Đúng như vậy.


Đại vương! Ông nay tuổi đã già yếu, dung mạo so với lúc trẻ như thế nào?


- Bạch Thế Tôn! Khi xưa con còn bé, da dẻ tươi nhuận, đến tuổi trưởng thành, khí huyết sung mãn, nay tuổi già, thân thể cũng theo đó mà già yếu khô gầy, tinh thần không còn sáng suốt, tóc bạc mặt nhăn, sống chẳng còn bao lâu. Làm sao có thể so sánh với khi còn trẻ mạnh.
Phật bảo:


- Này đại vương! Thân thể của ông đâu phải già liền?


Vua Ba-tư-nặc thưa:


- Bạch Thế Tôn! Nó âm thầm thay đổi, con thật chẳng biết, lạnh nóng đổi dời cho đến ngày nay. Vì sao? Lúc hai mươi tuổi, tuy tuổi còn nhỏ, nhưng sắc mặt đã già hơn lúc mười tuổi. Khi ba mươi thì già hơn lúc mới hai mươi. Nay con đã sáu mươi hai tuổi, so với lúc năm mươi tuổi, rõ ràng lúc năm mươi tuổi cường tráng hơn nhiều.


- Bạch Thế Tôn! Con thấy nó âm thầm dời đổi, tuy cái già nua nầy thay đổi trong vòng mười năm. Nếu con suy nghĩ kỹ hơn, chẳng những nó thay đổi trong khoảng một kỷ, hai kỷ mà thực ra nó thay đổi trong mỗi năm, chẳng những nó thay đổi trong từng năm, mà thực ra nó thay đổi trong từng tháng. Chẳng những nó thay đổi trong từng tháng, mà thật ra nó thay đổi trong từng ngày. Suy nghĩ thật sâu, quán sát thật kỹ, thấy nó thay đổi trong từng sát na, trong từng mỗi niệm, không hề dừng nghĩ. Thế nên con biết thân này cuối cùng phải chịu sự biến đổihoại diệt.
Đức Phật bảo :


- Này đại vương! Ông thấy sự biến hóa thay đổi không ngừng, nên biết thân mình hoại diệt. Vậy chính khi nó hoại diệt, ông có biết trong thân có cái gì không hoại diệt chăng?
Vua Ba-tư-nặc thưa :


- Thật con chẳng biết.


Đức Phật đã khai thị cho vua Ba-tư-nặc và đại chúng thấu rõ sắc thân tứ đại là một hiện tượng, một dạng vật lý cho nên phải bị chi phối bởi luật vô thường của tạo hóa. Sắc thân thay đổi không ngừng, biến hóa theo niên kỷ, tháng ngày dời chuyển, thay đổi từng giờ, từng phút, từng sát na.



Phật Chỉ Cái “Tánh Thấy” Không Sinh Diệt


Đức Phật bảo :


- Nay tôi sẽ chỉ cho ông tánh chẳng sinh diệt.


Đức Phật bảo :


- Này đại vương! Ông thấy nước sông Hằng lúc mấy tuổi?


Vua Ba-tu-nặc thưa :


- Khi lên ba tuổi, mẹ con dẫn đến lễ bái Kỳ-đà-thiên, có đi qua con sông này. Con được thấy nước sông Hằng khi ấy.
Đức Phật bảo :


- Này đại vương! Như ông vừa nói, khi ông hai mươi tuổi thấy mình già hơn khi mười tuổi, cho đến khi sáu mươi tuổi , ngày qua tháng lại, niệm niệm dời đổi. Vậy khi ông thấy nước sông Hằng lúc ba tuổi so với cái thấy nước sông Hằng lúc mười ba tuổi như thế nào?


Nhà vua thưa :


- Cái thấy ấy không khác so với khi còn ba tuổi, cho đến nay con đã 62 tuổi, cái thấy ấy vẫn không khác.


Đức Phật bảo :


- Nay ông tự cảm thương tóc bạc mặt nhăn, mặt ông nhất định là nhăn hơn lúc trẻ. Vậy cái thấy sông Hằng của ông hiện nay và cái thấy lúc còn nhỏ có già có trẻ chăng?


Vua Ba-tư-nặc thưa :


- Bạch Thế Tôn! Không vậy.


Đức Phật bảo :


- Mặt ông tuy nhăn, nhưng tánh thấy này chưa từng bị nhăn. Cái bị nhăn thì biến đổi, còn cái không bị nhăn thì chẳng biến đổi.
Cái biến đổi thì phải bị hoại diệt, cái không biến đổi kia vốn chẳng sinh diệt, làm sao trong đó nó nhận chịu sự sinh tử của ông? Mà ông còn dẫn lời của ngoại đạo Mạt-già-lê rằng : ”Thân này sau khi chếthoàn toàn mất hẳn”.


Vua nghe lời ấy, tin rằng thân này sau khi chết sẽ sinh thân khác, nên vua cùng đại chúng vui mừng hớn hở như được điều chưa từng có.


Theo tục lệ của người Ấn Độ vào thời Đức Phật thì người Ấn Độ phải đến sông Hằng để lấy nước sông mà xối từ đỉnh đầu xuống khắp châu thân để gội sạch tất cả những ô nhiễm, dơ bẫn giúp cho họ loại bỏ những vô minh mà có được trí tuệ sáng suốt. Vì thế mà vua Ba-tư-nặc cũng làm theo tục lệ này nên khi lên ba tuổi được mẹ dắt đến sông Hằng trước là lễ lạy thần sông Kỳ-bà-thiên và sau đó dùng nước thiêng của sông Hằng mà rửa sạch những uế trược, bẩn nhơ.


Ngày nay chúng ta sống ở những quốc gia Tây phương, tín đồ của những hệ phái tin lành, Thiên chúa giáo cũng dùng nước thánh (nước lạnh từ trong faucet) để rửa tội. Họ làm những cái bồn lớn như bồn tắm rồi nhận tín đồ vào đó cho ước toàn thân thì những tội lỗi do tổ tiên gây ra sẽ được xóa sạch. Đây là họ bắt chước theo câu chuyện ông thánh John đã rửa tội cho chúa Jesus trong dòng sông Jordan hai ngàn năm về trước. Thật ra người Phật tử không cần phải đến sông Hằng, hay qua tận trung Đông để ngâm mình trong dòng sông Jordan mà rửa tội. Vì có rửa cũng chẳng bao giờ sạch được. Nếu tội lỗi có thể dùng xà phòng, hay nước mà rửa được thì chúng ta tắm hằng ngày bao nhiêu tội ác cũng theo dòng nước trôi đi đâu còn nữa. Như vậy thế giới này sẽ biến thành thiên đường cực lạc rồi, nhưng tại sao con người vẫn còn tranh chấp giết hại lẫn nhau? Tội là do tâm tạo để biến thành nghiệp chướng. Nhưng tâm là tư tưởng mà dùng nước rửa bên ngoài thì làm sao xóa được những tư tưởng thiện ác trong tâm!


Tuy sắc thân tứ đại biến đổi, hư hoại, thoái hóa theo thời gian, không gian cũng như :


“Xuân đến trăm hoa nở


Xuân đi trăm hoa rụng


Sự vật đổi thay trông trước mắt


Già nua biểu hiện mái tóc sầu”.


Nhưng trong cái vô thường sinh diệt đó, còn có cái thường hằng bất sinh bất diệt. Đó là cái tánh thấy. Thật ra tánh thấy cũng là một hiện tượng, nhưng là hiện tượng của sự tùy duyên biểu hiện của bản thể chân như. Vì thế thân già mắt kém nhưng tánh thấy không già. Tóc tuy có điểm màu sương, lưng có còm, má có hóp nhưng tánh thấy vẫn sáng suốt như ngày nào, không tăng không giảm. Trong thế giới hữu vi sinh diệt, hễ có sắc, có tướng là có thay đổi rồi sẽ hoại diệt mất đi. Chỉ có bản thể chân thườngbất sinh bất diệt cũng như :


Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết


Trước sân, xuân nọ cành mai hãy còn.


Xuân đến thì mai nở, xuân đi thì mai rụng cũng như duyên đến thì thân sanh, duyên tan thì thân hoại. Xuân đến, xuân đi, mai nở, mai tàn, nhưng cây mai trước sân nhà đâu có mất. Cũng như sắc thân có sinh có diệt, nhưng bản thể chân như có mất bao giờ.

A Nan Cầu Phật Chỉ Cái “Điên Đảo”.


A Nan từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay quỳ xuống bạch Phật :


- Bạch Thế Tôn! Nếu cái thấy nghe này không sanh diệt, tại sao chúng con bỏ quên chân tánh, làm việc điên đảo? Nguyện xin Thế Tôn đem lòng thương xót rửa sạch trần cấu cho chúng con.
Liền khi ấy, Đức Phật buông cánh tay sắc vàng, năm ngón tay chỉ xuống, bảo A Nan rằng :


- Nay ông thấy cánh tay tôi như thế này là xuôi hay ngược?


A Nan thưa :


- Chúng sinh trong thế gian đều cho đó là ngược, riêng con chẳng biết thế nào là xuôi hay ngược.


Đức Phật bảo A Nan :


- Nếu người thế gian cho là ngược, vậy họ cho thế nào là xuôi?


A Nan thưa :


- Khi Như Lai đưa cánh tay hướng lên trên không thì gọi là xuôi.


Bấy giờ Phật đưa cánh tay lên và bảo ông A Nan :


- Cái trái ngược của ông là ở chỗ đó, chỉ có một việc thay đổi lẫn nhau vậy mà người thế gian gán cho cái thấy một ý niệm Ngược, Xuôi. A Nan! Thân ông và thân Như Lai chẳng khác gì nhau, nhưng thân Như Laipháp thân thanh tịnh chánh biến tri giác, còn thân ông gọi là tánh điên đảo. Vậy ông hãy chín chắn suy nghĩ tìm xem sự trái ngược của thân ông và thân Phật khác ở chỗ nào?


Khi ấy A Nan cùng toàn thể chúng hội chăm chú nhìn Phật không chớp mắt, không biết nơi thân tâm mình chỗ nào là điên đảo?


Đức Phật khởi lòng từ bi, thương xót A Nan và cả đại chúng, nên phát ra lời nói bằng âm thanh như tiếng hải triều, bảo khắp đại chúng :


- Này các thiện nam tử! Như Lai thường nói sắc, tâm và tâm sở pháp đều duy tâm biến hiện. Thân tâm các ông chỉ là vật ở trong chơn tâm minh diệu. Tại sao các ông bỏ mất đi cái chơn tâm minh diệu quý báu mà nhận lấy cái mê trong ngộ?


Dựa vào câu hỏi thì đủ biết ông A Nan vẫn chưa thấy được chân tánh nên lấy vọng làm chân mà tâm sinh điên đảo. Đứng về mặt chơn đế, vạn pháp vốn không có tên tuổi, nhưng đứng về mặt tục đế, nhân sinh xã hội đặt cho sự vật vạn pháp một danh ngôn để xưng gọi mà con người sống phù hợp theo tánh hiện thực khách quan của nó. Nhưng tai hại của danh ngôn là do sanh lòng chấp mắc. Con người vì chấp vào hình tướng nên cho rằng hướng này đúng hướng kia sai, tay đưa lên là xuôi hay đưa xuống là nghịch. Xuôi đối với người này mà nghịch đối với người kia thì xuôi ngược nói sao chẳng được, lấy gì làm tiêu chuẩnnói đúng hay sai. Ông A Nan còn để tâm duyên theo tiền trần thì bị Phật quở là đúng rồi.

Khi cư sĩ Duy Ma Cật hỏi Bồ-tát Nhất Sanh Bổ Xứ Di Lặc trong Kinh Duy Ma Cật rằng : ”Thế Tôn thọ ký cho Ngài một đời nữa sẽ thành Phật. Đời quá khứ đã qua, đời hiện tại biến chuyển không ngừng, đời tương lai chưa đến. Vậy một đời là đời nào? Theo Phật giáo không có cái móc thời gian nên thời gian là giả huyển, không thật. Con người đặt ra để gọi thế thôi. Người Tàu gọi giờ thìn, giờ ngọ. Người Mỹ gọi năm giờ, bảy giờ…Cũng cùng một thời gian mà bên Mỹ là mùa đông giá rét, còn ở Úc là mùa hè nóng bức. Ở Việt nam là ban đêm trong khi đó ở Hoa kỳ lại là ban ngày. Thế thì thời gian nào là thật? Con người còn chạy theo hình sắc bên ngoài là chạy theo sinh diệt, còn biết quay về với thật tướng, chân tánh thì mới sống được với chơn tâm thanh tịnh thường hằng bất biến. Nhưng chân tánhchân không thì làm sao thấy được mà so sánh xuôi hay ngược.


Bây giờ Phật hỏi tại sao thân Phật và thân ông A Nan giống nhau mà thân Phật gọi là pháp thân thanh tịnh Chánh biến tri, còn thân A Nan là thân điên đảo? Nếu nhìn từ hình sắc thì thân của Đức Phật và thân của A Nan đều là thân tứ đại, chịu sinh lão bệnh tử như nhau, không sai không khác. Nhưng ở đây Đức Phật dùng chữ “pháp thân thanh tịnh” cho nên thân mà Đức Phật muốn ám chỉ trong đoạn kinh này không phải là ứng thân sinh diệt mà chính là pháp thân, là chơn tâm thanh tịnh có sẳn trong tất cả mọi chúng sinh. Cái khác nhau ở đây là Đức Phật lúc nào cũng sống với chơn tâm. Đó là Ngài làm chủ bản thân, làm chủ vạn pháp và làm chủ tâm tánh mình. Đức Thế Tôn nhìn tất cả hiện tượng vạn pháp với cái “tri kiến vô kiến” nghĩa là thấy mà như không thấy nên tâm không còn dính mắc. Cái tâm này chính là pháp thân thanh tịnh Chánh biến tri. Ngược lại ông A Nanđại chúng sống với tâm phan duyên, chạy theo ngoại trần mà quên bỏ tâm tánh của mình. Ông nhận thức vạn pháp theo “tri kiến lập tri” nghĩa là thấy sao biết vậy nên tâm chất đầy vọng tưởng, không thanh tịnh. Do đó Phật quở ông A Nan vì bỏ mất chơn tánh nên A Nan sống với tánh điên đảo là như vậy.


Dựa theo Duy thức luận, tâm gồm có tám thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt-na thứca-lại-da thức) đều có quyền tự chủ, tự tại, cũng như vị vua nên được gọi là “tâm vương”. Vị quốc vương thì phải có quần thần phụ tá, tâm vương thì cũng phải có bộ hạ tùy tùng giúp đở mới tác tạo ra nghiệp. Những bộ hạ này không được tự tại nên gọi là “tâm sở” hay “tâm sở pháp”. Những thứ như tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến…đều thuộc về tâm sở. Sắc thuộc về sắc pháp như hình sắc, màu sắc, nhưng sắc là tướng phát sinh bởi tâm vươngtâm sở. Do đó sắc, tâm và tâm sở pháp cũng đều do tâm biến hiện. Vì thế nếu sống với tánh thì có được chơn tâm, ngược lại chạy theo trần thì sống trong điên đảo khổ đau.
Phật lại dạy rằng :


A Nan! Mê muội thành ra có hư không, trong hư không mê muội ấy, kết cái tối tăm thành sắc. Sắc xen tạp với vọng tưởng, nhận tướng vọng làm thân. Cảnh sắc bên ngoài phản ánh tư tưởng bên trong rồi cho cái tác dụng nghĩ ngợi lăng xăngtâm tánh. Một khi đã lầm là tâm thì chắc chắn nhận lầm tâm ở trong thân. Chẳng biết rằng từ sắc thân cho đến núi sông hư khôngthế giới đều là vật ở trong chơn tâm minh diệu. Thật chẳng khác trăm ngàn biển lớn sạch trong, chỉ nhận một cái bọt nước rồi cho đó là nước của toàn thể đại dương. Các ông là những người trong đám người mê, chỉ một cánh tay Như Lai mà nảy sanh quan niệm Ngược Xuôi, tranh biện. Như Lai gọi các ông là những người đáng thương xót.


Ông A Nanđại chúng cũng vì nhận tâm phan duyên làm chơn tâm nên sống trong điên đảo mà tạo nghiệp để phải lưu chuyển trong sinh tử luân hồi. Vì còn mê nên con người chỉ tham đắm hình sắc ảo tưởng, giả dối sinh diệt bên ngoài mà quên quay về sống với cái chân thật, thanh tịnh, không sinh diệt, lúc nào cũng có bên trong là chơn tâm, là bản lai diện mục, là Phật tánh vĩnh hằng trong tất cả mọi chúng sinh. Hình sắc có khác biệt như núi cao rừng thẳm, chim bay cá lặn, trời xanh mây trắng và những hình ảnh đó tuy có đẹp đẽ, hấp dẫn hay quyến rũ đến đâu thì tất cả cũng đều do bản tâm biến hiện. Người mê thì lấy sắc, hư không làm tâm, chẳng khác nào như thấy một bọt biển nhỏ bé mà cho rằng đó là toàn thể nước của đại dương. Còn kẻ thức tỉnh thì sống với chơn tâm bao la vô cùng vô tận cũng như toàn thể nước của đại dương không còn ngăn ngại.


Tuy chơn tâm rộng lớn bao la vô cùng vô tận, nhưng còn người sống với tâm phan duyên, nhận các tướng sinh diệt của trần cảnh làm bản tâm nên chính họ đã đánh mất đi cái chân tánh trong sạch tức là chơn tâm minh diệu. Vì thế Đức Phật mới gọi đây là sự trái ngược cũng giống như cánh tay của Như Lai đang buông rũ xuống.


Chúng sinh vì chấp cái sắc thân tứ đạithế giới giả dối sinh diệt bên ngoài mà đánh mất đi cái hiện hữu không sinh diệt đã sinh ra nó cho nên Đức Phật mới gọi đây là sự đảo lộn. Thí dụ khi chúng ta nhìn vào tấm gương thì thấy tất cả những hình tướng phản chiếu từ tấm gương. Nào là nhà xinh xe đẹp; nào là núi cao rừng thẳm; nào là trăng sáng mây bay; thiên hình vạn tướng…Con người thấy được những hình sắc đẹp đẻ trong gương nhưng họ quên mất những hình sắc đó là do sự soi chiếu từ bản gương. Cũng thế chơn tâm là cội nguồn sinh ra tất cả vạn pháp trên thế giancon người quên bỏ nó để chạy theo tâm phan duyên sinh diệt. Do đó người mê thì họ sống trong sắc tướng thế giới giả dối, còn người giác ngộ luôn sống trong chân tánh thanh tịnh của bản tâm. Dựa theo Pháp Giới Duyên Khởi thì “Bất biến Tùy duyên” có nghĩa là khi có đủ nhân duyên thì Bản Thể Chân Như duyên khởi thành vạn vật trong thế gian này.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31347)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26231)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27539)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27934)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26727)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31246)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20283)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22971)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30082)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21597)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20285)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22690)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20786)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30341)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28806)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34757)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44250)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35542)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22565)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21387)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20703)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24774)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37938)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19079)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19355)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21851)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20891)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29537)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35170)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28842)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32621)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26236)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28944)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43169)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34981)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43959)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37926)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21345)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43040)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49029)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39870)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53802)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36835)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40832)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49744)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47333)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27749)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27040)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27245)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24082)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20868)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34329)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22490)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25138)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25868)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22970)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22478)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21769)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23331)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21193)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant