Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 2: Phương PhápLợi Ích Của Quy Y Tam Bảo

12 Tháng Tư 201100:00(Xem: 8303)
Chương 2: Phương Pháp Và Lợi Ích Của Quy Y Tam Bảo

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
Hòa Thượng Thánh Nghiêm
Thích Nữ Tuệ Đăng dịch
Nhà xuất bản Thời Đại 2010

Thiên thứ hai: Quy Y Tam Bảo
Chương 2: Phương PhápLợi Ích Của Quy Y Tam Bảo

I. QUY Y TAM BẢO NHƯ THẾ NÀO?

Sau khi chúng ta đã có khái niệm về quy y Tam bảo rồi thì phải nên quy y Tam bảo.

Về nghi viết quy y Tam bảo, lúc đức Phật còn tại thế, nhân vì căn khí của người thọ quy y sâu dày, thế nên cũng không có dùng nghi tiết gì. Như đệ tử Tam bảo đầu tiên của đức Phật Thích Ca là cha của Da Du Già ở trước Phật nói: “Con nay quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, cúi xin Thế Tôn nhận cho con làm Ưu bà tắc”. Nói như thế, được xem là thọ tam quy rồi.

Nói theo thực tế, trước khi đức Phật chưa độ 5 Tỳ kheo, trên đời không có Tỳ kheo Tăng bảo, Phật truyền tam quy cho hai người lái buôn, Long vương, và xướng tam quy, là muốn họ quy y vị lai Tăng.

Điều đó đủ biết Tam bảomột thể; quy y Phật, quy y Pháp mà chẳng quy y Tăng thì cũng chẳng thành quy y.

Câu nói quy y tam bảo thật rất đơn giản, nhưng trước khi quy y, tốt hơn hết là học cho thuộc. Từ trước đến nay người thọ quy y đều ở ngay lúc quy y do vị thầy truyền quy y nói một câu thì nói theo một câu. Có người do vị thầy truyền quy y nói chẳng rõ, hoặc do trong lòng mình rối rắm, nên sau khi quy y rồi lại chẳng biết nội dung của những lời quy y là gì. Quy y như thế chẳng thành quy y.

Lời nói quy ytam quy, tam kết như sau: Con là…(tên tục) suốt đời quy y Phật, suốt đời quy y Pháp, suốt đời quy y Tăng (nói 3 lần). Quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi (cũng nói 3 lần). Trước nói quy y 3 lần chánh thọ tam quy y giới, sau là tam kết của quy y. Chỗ trọng yếu của quy y là lúc nói ba lần chánh thọ tam quy, nhận lấy giới thể vô tác của tam quy cũng ở chỗ này chánh thọ. Tốt hơn hết là ngay lúc chánh thọ tam quy phải quán tưởng: Lúc nói văn quy y lần thứ nhất, do công đức phát tâm của mình cảm nhận mười phương đại địa chấn động và có mây công đức từ mười phương đại địa bay lên. Lúc nói văn quy y lần thứ hai, mười phương nổi mây công đức từ từ kết tập trên đỉnh đầu thành hình lọng hoa. Lúc nói văn quy y lần thứ ba, lọng mây bằng mây này liền thành hình cái phễu từ từ rơi xuống đảnh của mình, thấm khắp toàn thân và từ trong thân tỏa ra khiến cho thân tâm của mình tùy theo sự toả rộng của mây công đức mà đầy khắp mười phương thế giới. Đến đây tự mình đã nhận xong giới thể của tam quy, thân tâm của mình cũng theo công đức của giới thể cùng vũ trụ đồng một thể lượng. Thử nghĩ, quy y như vậy thì thiêng liêng và trang trọng biết bao!

Nếu như không quán tưởng được như thế, thấp nhất cũng phải nghe lời nói quy y rõ rang, nói ra cho rõ ràng, đây là tuyệt đối chẳng thể lôi thôi. Vì thế Đại sư Hoàng Nhất đã có nói qua một đoạn rất khẩn thiết như sau:

Dù là người xuất gia hay tại gia, lúc thọ Tam quy, trọng yếu nhất có hai điểm: Thứ nhất là chú ý đến ý nghĩa của quy y Tam bảo. Thứ hai là ngay lúc thọ tam quy, vị thầy phải nói thậtrõ ràng. Nếu lời thầy giảng toàn là văn ngôn không thể hiểu được, như vậy quyết chẳng đắc tam quy; hoặc cách quá xa nghe không rõ, cũng chẳng đắc tam quy. Hoặc tuy nghe hiểu hết, nhưng trong ấy có một hai chỗ nghi, cũng không đắc tam quy. Lúc chánh thọ, tức là ba lần nói: Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Đây là điều quan trọng nhất cần phải hết sức chú ý. Tiếp theo quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi, là tam kết không quan trọng. Vì thế các vị phát tâm thọ giới trước tiên phải biết rõ ý nghĩa tam quy, và đương lúc thọ phải chú ý ba câu: “Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”, mới đắc tam quy. (Luật học yếu lược)

Do đó tam quy tuy đơn giản, song muốn thực sự đắc giới thể của tam quy y cũng chẳng phải dễ. Chúng ta thấy hiện tại đệ tử tam quy có nhiều người không đắc tam quy. Nếu như đệ tử không biết tam quy, thì chẳng ngại gì thỉnh Bổn sư hoặc thỉnh thầy khác thọ quy y một lần nữa. Trong nghi thức quy y đại quy mô của tập thể mấy chục người hoặc mấy trăm, mấy ngàn người là chẳng thể tin cậy được, chỉ là gieo trồng căn lành mà thôi.

Từ trên sự bồi dưỡng của tình tự tôn giáo mà nói, nghi thức thọ giới càng long trọng thì càng kích phát long chí thành, sự yêu cầu của thọ giới càng nghiêm khắc thì càng khiến cho người ta cảm thấy thiêng liêng, trang trọng. Cầu thọ tam quy vốn chỉ cần thỉnh cầu một vị thầy quy y ở trước Phật ba lần và nói tam quy, tam kết là được. Để thấy sự trịnh trọng của việc này, cuối đời nhà Minh, Luật sư Kiến Nguyệt ở núi Bảo Hoa, Nam Kinh, có biên tập bộ Tam Quy Ngũ Giới Chánh Phạm. Bộ này chiếu theo nghi thức truyền thọ Bồ tát giới cho đến Cụ túc giớibiên tập thành, bộ sách này vẫn còn lưu thông, được đa số các thầy quy y dùng làm y cứ.

Trong Tam Quy Chánh Phạm có 8 tiết mục:

1. Trải toà thỉnh sư: Do người thọ quy y bày pháp tòa, dâng cúng hương hoa, đèn đuốc chỉnh tề, rồi đi lễ thỉnh vị thầy quy y lên tòa.

2. Khai đạo: Khai thị ý nghĩa của tam quy y.

3. Thỉnh Thánh: Nghinh thỉnh mười phương Tam bảo chứng minh thọ quy yHộ pháp Long thiên giám đàn hộ giới.

4. Sám hối: Sám hối nghiệp chướng để cầu ba nghiệp thân, miệng, ý thanh tịnh, nhận được giới thể tam quy không tạp không uế.

5. Thọ quy: Tam quy, tam kết và phát tam thệ.

6. Phát nguyện: Phát tâm vô thượng Bồ đề, nguyện độ tất cả chúng sanh.

7. Hiển ích khuyến chúc: Nói tam đức của tam quy thù thắng và dặn y theo lời dạy vâng làm.

8. Hồi hướng: Đem công đức thọ tam quy này hồi hướng cho tất cả chúng sanh chìm đắm mau thoát sinh tử, sớm về cõi Phật.

Thọ tam quy như thế mới kể là trang trọng và viên mãn cứu cánh. Nhưng bộ Tam Quy Chánh Phạm này hiện tại cũng chẳng thực dụng cho lắm, vì văn tự dùng trong sách này đều là văn ngôn. Tuy lối hành văn điển lệ, cao nhã, nhưng nếu như vị thầy quy y không khéo ứng dụng, lúc thăng tòa thuyết quy y, người thọ tam quy không làm sao hiểu được, đã không hiểu được thì cũng không đắc tam quy. Vì thế ĐạiHoằng Nhất phê bình bộ sách này như sau: “Bộ Tam Quy Ngũ Giới Chánh Phạm do Luật sư Kiến Nguyệt ở núi Bảo Hoa biên tập, khai thị phần nhiều dùng văn biền ngẫu, người nghe không làm sao hiểu được, nên cũng đồng như văn rỗng vô ích mà thôi. Tốt nhất là nên thỉnh vị thầy dịch thành tiếng phổ thông” (Luật học yếu lược).

Nếu đứng về mặt thực dụng mà nói, tám tiết mục ghi trong bộ Tam Quy Ngũ Giới Chánh Phạm thật ra có thể nói là thiếu một điều chẳng được. Tỳ kheo chẳng được đứng thuyết pháp cho cư sĩ nghe, cho nên cần phải trải toà. Dạy cho biết ý nghĩa của Tam Bảo, vì thế cần phải khai đạo. Vị thầy quy yđại biểu Tam bảo truyền quy y cho người cho nên phải thỉnh thánh. Vì muốn đổi mới con người cho nên phải sám trừ tội lỗi quá khứ. Tam quy, tam kết và tam thệ là trọng tâm của sự thọ tam quy cho nên cần phải thực hành. Tam quy phân làm ba phẩm: Phát tâm độ mình độ ngườiThượng phẩm, chỉ độ mình tự thoát sinh tửTrung phẩm, chỉ cầu chẳng đọa tam đồ (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) mà vẫn sinh ở cõi trời người là Hạ phẩm. Vì thế, khuyên phát tâm là điều tất yếu và để làm tăng thêm tâm tinh tấn và chí kiên cố, nên mục Hiển ích khuyến chúc (nói lên sự lợi ích và dặn dò khuyên nhủ) cũng là điều phải có. Để nuôi dưỡng lòng từ bi chẳng riêng tư nên đem công đức hồi hướng cho tất cả chúng sanh cũng là đúng.

Ở đây tôi muốn chỉ ra một điểm: Phật giáo Nguyên thuỷ không có phân biệt Đại thừa, Tiểu thừa; song giới luật thì thiên về hình thái Tiểu thừa, vì thế tam quy ở trong luật rất đơn giản, trừ lời nói tam quy ra, không có gì khác. Phật giáo Trung Quốc tất cả đều quy về Đại thừa, tất cả giới đều chiếu theo Đại thừa thọ trì cho nên thêm rất nhiều tiết mục. Nhưng những điều thêm vào này đều tốt, chứ không phải xấu. Ngày nay, nếu như chẳng lấy quy y làm bước đầu của hạnh môn Đại thừa, thì cũng có thể chẳng dùng đến các tiết mục phát nguyệnhồi hướng.

Nếu như bị hạn chế của thời gianhoàn cảnh, cũng chẳng ngại gì đơn giản hóa nghi thức tam quy. Nay tôi xin đề nghị một nghi thức giản đơn như sau:

Sau khi vị thầy lễ Phật xong ngồi yên, người thọ quy y quỳ gối chấp tay. Vị thầy quy y sau khi khai thị sơ lược về ý nghĩa của quy y Tam bảo, dạy người thọ quy y đọc kệ sám hối:

Trước kia con tạo bao nghiệp ác

Đều do vô thỉ tham sân si

Từ thân miệng ý mà sinh ra

Nay đối trước Phật xin sám hối.

Đọc ba lần, mỗi lần lạy một lạy, tiếp theochánh thọ tam quytam kết.

- Con tên là…suốt đời quy y Phật, suốt đời quy y Pháp, suốt đời quy y Tăng.

Nói ba lần, mỗi lần lạy một lạy rồi đọc:

- Con tên là…quy y Phật rồi, thà bỏ thân mạng chứ chẳng bao giờ quy y thiên ma ngoại đạo.

- Con tên là… quy y Pháp rồi, thà bỏ thân mạng chứ chẳng bao giờ quy y tà thuyết ngoại đạo.

- Con tên là… quy y Tăng rồi, thà bỏ thân mạng chứ chẳng bao giờ quy y đồ chúng ngoại đạo.

Đọc ba lần, mỗi lần lạy một lạy, rồi dạy phát tứ hoằng thệ nguyện:

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Đọc ba lần, mỗi lần lạy một lạy. Vị thầy quy y dạy sơ lược công đức của sự quy y và sách tấn y theo lời dạy vâng làm rồi dạy đọc kệ hồi hướng:

Quy y công đức thù thắng hạnh

Vô biên thắng phước đều hồi hướng

Nguyện khắp các chúng sanh chìm đắm

Chóng được sinh về Phật tịnh độ

Thập phương tam thế tất cả Phật

Chư tôn Bồ tát Ma ha tát

Ma ha Bát nhã Ba la mật.

Đến đây công đức quy y viên mãn. Sau khi vị thầy quỳ xuống tòa lễ Phật, người thọ giới lạy tạ vị thầy quy y ba lạy, thật ra là lễ Phật, lễ Tăng, song có một lễ cũng được.

Nghi thức quy y giản đơn đề nghị ở trên chẳng cần phải xướng lên, chỉ cần đọc mỗi chữ rõ ràng để người quy y lãnh thọ là được.

Trong đây, cũng có điều phải nói là tam thệ sau tam quy, tam kết: “Chẳng quy y thiên ma ngoại đạo, chẳng quy y tà thuyết ngoại đạo, chẳng quy y đồ chúng ngoại đạo”. Do sự kết lập của tam thệ này, tam quy cũng có tính chấttác dụng của giới. Đây chẳng phải tính chất bài xích tôn giáo khác của Phật giáo, mà nhân vì ngoại đạo (tất cả tôn giáo, học thuyết ngoài Phật giáo) tuy cũng có đạo lý riêng của họ, song đều không phải cứu cánh. Phật là đấng đại giác, phước huệ đầy đủ, vì thế quy y Phật chẳng cần phải quy y thiên ma ngoại đạo nữa. Pháp là kho báu của trí tuệ, quy y vâng làm chắc chắn có thể lìa khổ được an lạc, vì thế chẳng cần quy y tà thuyết của ngoại đạo nữa. Tăng là thầy của trời người, có khả năng truyền thọ đạo thanh tịnh, vì thế chẳng cần quy y đồ chúng của ngoại đạo nữa. Mục đích của ba lời thệ này là phòng ngừa cho người đã tiến vào con đường chính, chẳng còn đi lầm vào lối tẻ nữa. Sau khi thọ tam quy rồi, như nếu vì muốn được bảo hộ nhà cửa, tài sản, đất nước, nhân dânthân mạng an toàn mà cúng tế và lễ bái nếu không có tâm quy y quỷ thần, thiên thần, vẫn không mất quy y Tam bảo. Nếu có tâm quy y thiên thần, quỷ thần, thì mất quy y Tam bảo.

Nói đến vấn đề giới, sau khi quy y Tam bảo đích xác có một ít điều giới cấm. Thượng phẩm quy y các giới quy y Tam bảo tự nhiên đầy đủ. Hạ phẩm quy y cũng chỉ được ăn năm thứ tịnh nhục (chẳng nghi vì mình mà giết, chẳng thấy giết, chẳng nghe giết, tự tử, chim thú ăn còn dư) và chẳng được làm các nghề ác như: nghề đồ tể, nghề làm rượu, bán rượu, nghề mãi dâm, nghề cờ bạc. Mỗi năm vào tháng giêng, tháng năm, tháng chín, mỗi tháng sáu ngày chay (mùng 8, 14, 15, 23 và 2 ngày cuối tháng) nên ăn chay, nếu được như thế, người này trong hội đầu tiên của đức Phật đương lai Di Lặc sẽ có thể giải thoát.

Quy y Tam bảo còn có một điểm trọng yếu cần phải hiểu rõ là sau khi chúng ta quy y Tam bảo, tức là quy y thập phương tam thế tất cả Tam bảo. Vì thế, trong bài kệ hồi hướng có mấy câu: “Thập phương tam thế tất cả Phật. Chư tôn Bồ tát Ma ha tát, Ma ha Bát nhã Ba la mật”. Câu thứ nhất là tất cả Phật bảo, câu thứ hai là tất cả Tăng bảo, câu thứ ba là đại biểu Pháp bảo vô thượng. Trong ba câu này bao quát lý thể Tam bảosự tướng Tam bảo. Chúng ta hiện tại lấy sự tướng làm chủ yếu, vì thế cần phải nên cung kính cúng dường thánh tượng của tất cả chư Phật, Bồ tát, tất cả kinh điển của Phật giáo, tất cả người xuất gia của Phật giáo. Nhưng, Phật bổn sư của chúng taThích Ca Mâu Ni, Tăng bổn sư của chúng ta là vị thầy quy y; vì báo ân nên chúng ta thiên trọng về Phật bổn sư và Tăng bổn sư cũng là chuyện thường tình của con người. Như nếu chỉ lấy Phật bổn sư làm Phật, còn các đức Phật khác chẳng phải là Phật, ấy là trái với Phật giáo. Cũng vậy, nếu chỉ kính vị thầy quy y mà chẳng kính tất cả các vị Tăng khác thì cũng chẳng đúng. Cũng giống như phủ định ngàn vạn điều thiện mà chỉ khẳng định một điều thiện, chỉ trồng một khoảnh ruộng mà bỏ hoang ngàn vạn khoảnh ruộng, ai chẳng nói là việc làm ngu si!

II. LỢI ÍCH CỦA QUY Y TAM BẢO

Sự lợi ích của quy y Tam bảo thật ra rất nhiều, có thể cầu được cái vui hiện đời, có thể cầu được cái vui đời sau, lại cũng có thể do đây mà đạt đến cái vui cứu cánh của Niết bàn tịch tịnh. Tóm lại, có tám điểm lợi ích:

1. Thành đệ tử Phật.

2. Là nền tảng của sự thọ giới.

3. Giảm khinh tội chướng.

4. Chứa nhóm phước đức rộng lớn.

5. Chẳng đọa ác đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh).

6. Người và loài chẳng phải người (phi nhân) đều chẳng thể nhiễu loạn.

7. Tất cả việc tốt đều sẽ thành công.

8. Được thành Phật đạo.

Như muốn phân biệt nêu ra, trong kinh Phật nói rất nhiều, xin chỉ chọn ra năm điều như sau:

1. Nếu người quy y Tam bảo tương lai sẽ được phước báo chẳng thể cùng tận, ví như có một kho tàng châu báu nhân dân toàn cõi nước gánh chở bảy năm cũng chẳng hết, công đức quy y so với kho tàng này còn lớn hơn gấp ngàn vạn lần (Kinh Ưu bà tắc giới).

2. Có một vị Thiên tửcõi trời Đao lợi, phước trời hưởng hết, thọ mạng sắp chấm dứt, chỉ còn bảy ngày nữa sẽ chết, thân thể của vị Thiên tử ấy đang suy hoại. Nhưng vị ấy biết sau khi chết sẽ đầu thai vào bụng heo, vì thế vị ấy vô cùng sợ hãi liền đến thỉnh giáo Thiên chủ, Thiên chủ cũng không có cách cứu vớt, mới bảo vị ấy đến cầu cứu đức Phật. Đức Phật dạy vị ấy quy y Tam bảo sau khi chết chẳng những khỏi đọa vào thai heo, lại được sanh làm người gặp ngài Xá Lợi Phất thỉnh Phật thuyết pháp mà chứng được thánh quả (Kinh Chiết Phục La Hán)

3. Quá khứ có vị Thiên tửcõi trời thứ ba mươi ba, hưởng hết phước trời, còn bảy ngày nữa phải chết, những sự hoan lạc ngày trước đều ly khai vị ấy, thiên nữ xinh đẹp không còn lân cận vị ấy, tướng mạo đường đường oai vệ nay biến thành không có khí sắc, thân thể suy nhược hôi hám khó chịu, hai nách suốt ngày đổ mồ hôi dơ. Vị ấy biết mình sẽ đầu thai vào bụng heo, do đó vị ấy khóc than thảm thiết. Việc này làm cho Thiên chủ hay biết, Thiên chủ bèn dạy vị ấy thành tâm quy y Tam bảo, dạy vị ấy đọc thầm: “Quy y Phật lưỡng túc tôn, quy y Pháp ly dục tôn, quy y Tăng chúng trung tôn”. Vị ấy theo lời khuyên dạy của Thiên chủ quy y Tam bảo. Qua thời hạn 7 ngày, vị ấy chết. Thiên chủ muốn biết sau khi chết vị ấy sinh về đâu, song Ngài không có năng lực xem thấy chỗ sinh của vị Thiên tử này, Ngài đến hỏi đức Phật. Phật nói: “Vì nhờ công đức quy y Tam bảo, chuyển đọa thành thăng lên đến cõi trời Đâu Suất Đà, thiên nhãn các ông có thể thấy xuống bậc dưới chứ chẳng thể thấy lên tầng trên”. (Kinh Sai Miệt Năng Pháp Thiên Tử Thọ Tam Quy Y Hoạch Miễn Ác Đạo).

4. Nếu như trong bốn đại bộ châu Đông, Tây, Nam, Bắc toàn là thánh quả vị Nhị thừa, có người cúng dường suốt đời cho đến tạo tháp cho mỗi vị công đức của người ấy lớn chẳng thể tính lường, nhưng chẳng bằng công đức quy y Tam bảo (Kinh Giảo Lượng Công Đức).

5. Quá khứ có một vị Tỳ kheo tên Sa Đẩu chuyên tụng danh hiệu Tam bảo suốt mười năm bèn chứng được sơ quả Tu đà hoàn, hiện nay ở thế giới Phổ Hương làm Bích Chi Phật (Kinh Mộc Hoạn Tử).

Do điều ghi ở trên chúng ta đủ biết quy y Tam bảo là việc rất quý báu. Đồng thời đức Phật cũng đã từng nói: Người quy y Tam bảo được Tứ thiên vương sai 36 vị thiện thần đi theo ủng hộ.

Nhưng chúng ta phải biết: Quy y Tam bảo tuy có thể cầu sự bình ansung sướng ở hiện đời, nhưng mục đích cuối cùng của quy y Tam bảo là phải hướng về Tam bảo và làm cho chính mình cũng thành Tam bảo, nghĩa là đều có thể thành Phật; song điều thiết yếu là chẳng nên tự phụ mình, hoặc bỏ quên mình.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19688)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23953)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41210)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19686)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23974)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21741)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23291)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27497)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26552)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29308)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33177)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20179)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25760)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20903)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31301)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38553)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21425)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44241)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29814)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42187)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22131)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45736)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32103)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23947)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24377)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29244)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33908)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27676)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32118)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21058)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28840)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21562)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28055)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22058)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21421)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19489)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19457)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19828)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19234)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29169)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20607)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28273)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23647)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33163)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31831)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21363)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39611)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21543)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19366)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26369)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24810)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21750)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22372)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29125)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22550)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20467)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23509)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21229)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35307)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24540)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant