Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 1: Khởi Nguyên Của Tỳ KheoTỳ Kheo Ni

12 Tháng Tư 201100:00(Xem: 8005)
Chương 1: Khởi Nguyên Của Tỳ Kheo Và Tỳ Kheo Ni

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
Hòa Thượng Thánh Nghiêm
Thích Nữ Tuệ Đăng dịch
Nhà xuất bản Thời Đại 2010

Thiên thứ sáu: Tỳ Kheo Tỳ Kheo Ni Giới Cương Yếu
Chương 1: Khởi Nguyên Của Tỳ KheoTỳ Kheo Ni

 LỜI MỞ ĐẦU

 

Tỳ kheo giớiTỳ kheo ni giớiđại giới trọng yếu trong Phật giới, vì thế cũng là một thứ Phật giới phong phú nhất. Nhìn từ góc độ trụ thế của Phật pháp, Tỳ kheo giớiTỳ kheo ni giới trọng yếu hơn Bồ tát giới. Thế nên trong Đại Tạng Kinh Hán dịch có Quảng bản Đại Luật của Tỳ kheo giớiTỳ kheo ni giới đến bốn năm trăm quyển, đó là chưa kể đến phần chú sớ, trứ thuật của Lịch đại Tổ sư. Hai năm đầu tiên tôi duyệt Luật tạng ở Đài Nam, tôi cũng đặt trọng tâm chú ý vào trong Quảng Luật của Tỳ kheo, Tỳ kheo ni; nhưng trong quyển sách này chỉ giới thiệu sơ lược về Tỳ kheo, Tỳ kheo ni giới. Nhân vì: Thứ nhất, đây là một quyển sách có tính cách phổ thông, độc giả phần đông là người tại gia, người tục vị tất tuyệt đối không được xem luật Tỳ kheoTỳ kheo ni; nhưng cũng không cần phải giới thiệu việc xuất gia một cách kỹ càng cho người thế tục. Thứ hai, nói một cách nghiêm chỉnh, trong hoàn cảnh Trung Quốc hiện đại, Tỳ kheoTỳ kheo ni đúng như luật đắc giới và đúng như luật trì giới, đó chẳng phải việc dễ dàng. Thật tâm mà nói, chính tôi cũng chưa thật xứng đáng là một “Tỳ kheo” của Tỳ kheo giới, thậm chí tôi cũng không phải là một Sa di đúng như pháp, tôi chỉ là một Ưu bà tắc hiện tướng xuất gia mà thôi, dẫu cho muốn thực hành đúng như luật cũng khó khăn biết bao! Vì thế, nội dung của thiên này tôi cũng không cổ động độc giả chưa đầy đủ Tỳ kheo, Tỳ kheo ni giới đọc. Đương nhiên, tôi cũng không kịch liệt phản đối.

Đối với sự nghiên cứu Luật Tỳ kheo, Tỳ kheo ni tôi gần như dốc hết toàn bộ tinh lực trong mấy năm, đó là vì tôi muốn từ trong luật tìm ra nguyên nhân suy đồi của Phật giáo Trung Quốc và nhờ đó mà tìm ra phương án chấn hưng Phật giáo Trung Quốc. Vì thế tôi vừa đọc vừa ghi, vừa làm bút ký, khiến cho mỗi một vấn đề quy nạp thành một trung tâm làm thành một thiên tâm đắc và thêm vào đó ý kiến của mình. Phân tích ý kiến những vấn đề ấy cũng chính là làm mới lạ những vấn đề đã “chết” từ nhiều thế kỷ thành ra vấn đề hiện thực của chúng ta. Tôi thử làm sống lại luật điển, không vì cố chấp vào cổ xưa mà không biết canh tân. Bằng không, cũng không cần tôi phải tốn hao giấy mực, vì những trứ tác về Luật xưa nay đã có nhiều người làm rồi. Tuy tôi có cách nhìn của riêng tôi, nhưng vẫn không trái với luật điển, và có thể nói mọi điều ghi ra đều có căn cứ, độc giả có thể tra cứu đối chiếu. Độc giả đọc thiên này rồi có thể tham duyệt hai quyển “Phật Giáo Chế Độ và Sinh Hoạt” và “Phật Giáo Thật Dụng Pháp “cũng của tôi chuyên giới thiệu về các vấn đề trọng yếu của Luật chế.

 

 


 

Chương 1

KHỞI NGUYÊN CỦA

 TỲ KHEOTỲ KHEO NI

 

 I.  VÌ SAO GỌI LÀ TỲ KHEO, TỲ KHEO NI?

Tỳ kheo là dịch âm của Phạn văn Bhiksu, ý nghĩa chủ yếu là “Khất sĩ”. Trên theo “Như Lai” khất cầu Phật pháp để dưỡng dục huệ mạng của pháp thân, dưới hướng về người tục khất cầu cơm áo để nuôi sống sinh mạng của sắc thân, vì thế gọi là Khất sĩ. Ngoài ra còn có các nghĩa: Bố ma, Phá ác, Tịnh mạng, Tịnh trì giới. Nhân vì xuất gia học Phật làm Tỳ kheo là muốn liễu thoát sinh tử, không còn bị sự khuấy nhiễu và chi phối của ma nghiệp cùng ma cảnh; ma vương bớt đi một ma dân để lợi dụngchi phối; cho nên ma cảm thấy sợ hãi vì thế gọi là Bố ma. Tỳ kheo trì giới hay phá được phiền não ác nghiệp, vì thế gọi là Phá ác. Tỳ kheo không làm các nghề buôn bán, trồng trọt, thợ thuyền để mưu sinh, mà chỉ thanh tịnh khất thực để tự sống, vì thế gọi là Tịnh mạng. Tỳ kheo đem cả hình tướng, thọ mạng của suốt cuộc đời mình kiên trì giới luật thanh tịnh, vì thế gọi là Tịnh trì giới.

Đồng âm dịch khác của Tỳ kheo còn có Tỳ khưu, Bật sô, Bí sô. Trong chú sớ của Cổ đức Trung Quốc có người cho rằng Bí sô là tên của một lọai cỏ, căn cứ vào truyền thuyết, loại cỏ này có năm đức tính đăc biệt:

1. Thể tánh mềm mại.

2. Bò ra bên ngoài.

3. Hương thơm bay xa.

4. Trị được đau nhức.

5. Không tránh ánh sáng mặt trời.

Vì thế, lấy làm tên gọi của người xuất gia. Kỳ thật, theo sự nghiên cứu của các học giả thời gần đây, sự giải thích này chỉ là theo tưởng tượng, không chính xác. Bí sô là cựu dịch, Tỳ kheotân dịch, từ nguyên văn chữ Phạn dịch ra, chứ không có căn cứ vào tên lọai cỏ nào cả. Lại có người nói “Đức tỷ Khổng Khưu” nên gọi là “Tỳ khưu”, lại càng không đúng.

Tỳ kheo ni là dịch âm của Phạn văn Bhiksuni ý nghĩa của nó cùng Tỳ kheo tương đồng, chỉ dùng âm “ni” biểu thị nữ tánh. Tỳ kheo ni cũng có nghĩa là nữ Tỳ kheo hoặc nữ khất sĩ. Trên phương diện dịch âm khác còn có Tỳ khưu ni, Bật sô ni, Bí sô ni.

Trong Phật giáo nói ba đời chư Phật đều có 7 hoặc 9 chúng đệ tử tăng tục nam nữ. Tỳ kheo đứng đầu 7 chúng. Tỳ kheo ni kế Tỳ kheo, đây là hai bậc chủ lực cốt cán trong Phật giáo đồ. Thời Đức Phật tại thế, hoạt động của Phật giáo lấy Đức Phật làm trung tâm. Sau khi Phật diệt độ, hoạt động của Phật giáo lấy người xuất gia làm trung tâm. Đệ tử tại gia lấy Tăng đoàn xuất gia làm trung tâm. Nếu như khôngTỳ kheo, Tỳ kheo ni, sự trụ thế của Phật giáo sẽ mất đi giá trị của tôn giáo, mà chỉ có giá trị của triết học hoặc học thuyết văn hóa.

II. SỰ XUẤT HIỆN CỦA TỲ KHEOTỲ KHEO NI

Trên thế giới, chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa về sự xuất hiện của Tỳ kheoTỳ kheo ni là do hơn 2.500 năm về trước, trong nhân loại xuất hiện một ngôi sao sáng, đó là Đức Phật Thích Ca Thế Tôn cứu người, cứu đời và cứu tất cả chúng sinh.

Phật giáo có những danh từ dùng theo ngữ vựng sẵn có của Ấn Độ với nội dung mới mẻ, như tên gọi của bốn chúng đệ tử, có điều dường như lấy từ một phương thức giống nhau mà ra. Tỷ như trong Ngũ Phần Luật có 11 thứ Tỳ kheo; trong đó, Khất Tỳ kheo không phải là Tỳ kheo đúng như pháp của Phật giáo. Nhưng chúng ta có thể khẳng định nghĩa bao hàm của 7 chúng Phật tử hoàn toàn bất đồng với đồ chúng ngoại đạo. Chính ngoại đạo cũng chưa có thể đem thứ bậc của đồ chúng họ phân ra được kỹ lưỡng và cẩn thận như thế.

Căn cứ trong Ngũ Phần Luật quyển 15 nói: Sau khi Phật thành đạo, đầu tiên ngài nhận sự cúng dường của hai người lái buôn tên Ly Vị và Ba Ly, rồi dạy hai người này thọ nhị tự quy y: Quy y Phật, quy y Pháp. Phật lại cho con gái của Bà la môn Tư Na là nàng Tu Xà Đà thọ nhị tự quy y. Nhân vì lúc ấy Đức Phật chưa độ 5 thầy Tỳ kheo nên chưa có Tăng bảo để quy y. Đủ thấy sự xuất hiện của Tỳ kheo sau Ưu bà tắcƯu bà di. Nhưng căn cứ vào sự ghi chép của Tứ Phần Luật Thọ Giới Kiền Độ, 7 chúng đệ tử Phật lấy Tỳ kheo làm thượng thủ, cũng vì Tỳ kheo xuất hiện rất sớm. Đó là lần chuyển pháp luân đầu tiên ở vườn Lộc Dã. Trong lần đầu tiên truyền thánh giáo, Phật độ 5 người thị tùng theo Ngài xuất gia ở buổi đầu. Năm người thị tùng này do vua Tịnh Phạn phái đến vừa làm bạn với Thái tử vừa phục vụ Thái tử tu hành. Sau vì Thái tử bỏ sự khổ hạnh cực đoan, làm cho năm người thị tùng hiểu lầm cho rằng Thái tử thoái đạo tâm, vì thế họ khinh thị và ly khai Thái tử. Sau khi Thái tử thành đạo, Ngài nhớ lại năm Tỳ kheo này làm việc khổ nhọc, không kể lạnh nóng hầu hạ cúng dường, nên trước tiên độ năm người này. Đó là những Tỳ kheo được độ sớm nhất, cũng là năm vị Tỳ kheodanh tiếng hơn hết.

Tỳ kheo ni trong 7 chúng Phật tử địa vị chỉ dưới Tỳ kheo, nhưng Tỳ kheo ni lại xuất hiện rất muộn. Ngày Đức Phật thành đạo cũng là ngày đản sanh của Tôn giả A Nan. Người nữ được xuất gia trong Phật giáo là do sự đồng tình của Tôn giả A Nan và Ngài đứng ra thỉnh cầu Đức Phật chấp nhận. Lúc ấy A Nan đã xuất gia thành Tỳ kheo đang làm thị giả theo bên cạnh Đức Phật. Sau khi thành đạo, Đức Phật thuyết pháp 49 năm, lúc Phật sắp nhập diệt, trong Căn Bản Tạp Sự quyển 37, A Nan cũng tự nói:“Tôi theo Phật hơn 20 năm”. Kinh Trường A Hàm quyển 5 cũng nói: “Sau khi Phật thành đạo 25 năm, Ngài A Nan mới làm thị giả”. Do đây suy ra dưới tòa của Đức Phật có sự hoạt động của Tỳ kheo ni ít nhất cũng trễ hơn sự xuất hiện của Tỳ kheo hơn 20 năm. Nhưng trong Tứ Phần Luật San Bổ Tùy Cơ Yết Ma Tùy Giảng Biệt Lục của Đại sư Hoằng Nhất ghi: “Sau khi Như Lai thành đạo 14 năm. Di mẫu Ái Đạo cầu xuất gia”. Rốt cuộc như thế nào, còn đợi khảo chứng. Nhưng không có gì phải nghi, là bà Đại Ái Đạo, Di mẫu của Đức Phật là một vị đại Tỳ kheo ni sớm nhất và cũng nổi tiếng hơn hết. Căn cứ theo kinh nói: “Đương thời theo bà Đại Ái Đạo xuất gia một lượt có đến 500 người nữ thuộc giai cấp quý tộc dòng họ Thích”.

II. TỲ KHEOTỲ KHEO NI ĐẦU TIÊNTRUNG QUỐC

Người Trung Quốc biết có Phật giáo, các sử gia tin rằng bắt đầu từ vua Minh Đế đời Đông Hán niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 8 (65 TL). Trong 200 năm đầu, công tác truyền giáo đã phát triển nhanh chóng và phổ cập khắp nhân dân, giáo sĩ truyền giới hầu hết là Phạn Tăng từ Tây Vức sang.Sau khi người Trung Quốc tin Phật rồi, tuy cũng có ghi chép về sự truyền giớithọ giới. Nhưng người Trung Quốc thành Tỳ kheo chính thức đúng như luật là vào đời Tào Ngụy niên hiệu Gia Bình năm thứ 2 (250 TL), do sau khi Ngài Đàm Ma Ca La từ Trung Thiên Trúc đến Lạc Dương của Trung Quốc kiến lập pháp Yết ma thọ giới.

Trung QuốcTỳ kheo ni là vào đời Lưu Tống niên hiệu Gia Nguyên năm thứ 7 (430 TL), có Sa môn của nước Kế Tân tên Cầu Na Bạt Ma đến Dương Châu. Lại, vào niên hiệu Gia Nguyên năm thứ 10 có Tăng Già Bạt Ma đến Dương Châu, đương thời có hai Tỳ kheo ni người nước Sư Tử ( Tích Lan) trước sau đến, từ đó bắt đầu kiến lập luật thống của Ni giới Trung Quốc. Đủ thấy Tỳ kheo ni của Trung Quốc xuất hiện trễ hơn Tỳ kheo 180 năm của lịch sử. Lúc ấy có hai bộ Tăng để truyền thọ Tỳ kheo ni giới hay không cũng rất khó suy định.

Những tư liệu kể trên rút ra từ Hành Sự Sao của Luật sư Đạo Tuyên. Căn cứ vào sự nghiên cứu gần đây của Pháp sư Trúc Ma nói: “Tại Trung Quốc, người nữ học Phật xuất gia rất sớm, chiếu theo bốn quyển Tỳ kheo ni Truyện của Pháp sư Bảo Sướng đời Lương, trong ấy biên chép từ đời Tấn đến đời Lương có 74 ni được đưa vào truyện mà Thích Tịnh Kiểm là một Tỳ kheo ni đầu tiên ở Trung Quốc”. (Hải Triều Âm quyển 43, tháng 10). Chúng ta xem trong Tỳ kheo ni Truyện thấy Tỳ kheo ni Tịnh Kiểm vào niên hiệu Kiến Hưng đời Tấn Mẫn Đế (313-316), nhân vào trong một ngôi chùa ở cửa Tây cung thành nghe Sa môn Phát Thỉ giảng kinh rồi phát tâm xuất gia.

Nhưng không lý tưởng cho lắm, vì vị Tỳ kheo ni đầu tiên của Trung Quốc trực tiếp ở trong Tỳ kheo Tăng thọ Tỳ kheo ni giới. Tịnh Kiểm trước thọ thập giới nơi Sa môn Trí Sơn ở Tây thành; sau đó, vào niên hiệu Thăng Bình nguyên niên đời Đông Tấn Mục Đế (357 TL): “Đi thuyền đến đất Tứ, bốn người là Tịnh Kiểm…đồng đăng đàn theo Đại Tăng để thọ Cụ túc giới”. Thời đại này so với Hành Sự Sao ghi chép sớm hơn 76 năm. Tịnh Kiểm phát tâm xuất gia, 40 năm sau mới thọ Cụ túc giới, đủ thấy sự khó khăn của việc cầu giới.

Nếu từ trong Cao Tăng Truyện tìm căn cứ lịch sử Cao Tăng Trung Quốc lại sớm hơn 70 năm. Vì trong Lương Cao Tăng Truyện ghi vị Sa môn đầu tiên của Trung Quốc Nghiêm Phật Điều. Trong Lương Cao Tăng Truyện quyển 1 nói: “Lúc ấy lại có Ưu bà tắc An Huyền, người nước An Tức”, “Cũng vào cuối đời Hán Linh Đế du lịch Lạc Dương”, “An Huyền và Sa môn Nghiêm Phật Điều cùng dịch Kinh Pháp Cảnh. An Huyền miệng dịch Phạn văn, Phật Điều bút thọ”, “Phật Điều vốn là người quê ở Lâm Hoài”.

Theo đoạn sử này chúng ta thấy Nghiêm Phật Điều là người Trung Quốc quê ở Lâm Hoài, nay thuộc Tây Bắc huyện Hu Di thuộc tỉnh An Huy. Vào cuối niên hiệu Hán Linh Đế, Phật Điều cùng với một cư sĩ tên An Huyền của nước An Tức cùng dịch Kinh Pháp Cảnh, thân phận của Nghiêm Phật Điều lúc ấySa môn. Cuối niên hiệu Hán Linh Đế là năm 189 TL, vì thế so với Tào Ngụy niên hiệu Gia Bình năm thứ 2 (250 TL) sớm hơn 70 năm.

Nghiêm Phật Điều dù có sử khảo chứng là một vị Cao tăng đầu tiên của Trung Quốc, nhưng Phật Điều có phải là vị Tỳ kheo đầu tiên của Trung Quốc hay không, điều đó không được biết. Nhân vì Lương Cao Tăng Truyện khi đề cập đến Nghiêm Phật Điều vài câu trong truyện Chi Lâu Ca Sấm, chỉ nói Phật Điều là Sa môn, chưa nói có phải là Tỳ kheo hay không.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19716)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23974)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41226)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19705)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24010)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21749)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23316)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27510)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26579)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29327)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33211)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20209)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25789)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20924)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31334)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38589)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21451)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44278)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29838)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42227)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22147)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45787)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32129)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23974)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24399)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29287)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33932)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27693)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32153)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21074)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28859)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21599)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28090)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22085)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21448)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19516)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19479)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19844)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19263)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29207)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20629)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28309)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23655)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33206)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31852)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21392)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39637)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21567)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19387)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26413)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24840)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21760)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22400)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29144)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22563)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20477)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23535)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21245)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35344)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24553)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant