Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

I. Tâm vô trụ

19 Tháng Tư 201100:00(Xem: 17679)
I. Tâm vô trụ

Một Sức Sống Chân Thật Giữa Thế Gian
THIỀN TÔNG ĐỐN NGỘ
Thích Thông Phương
Hội Thiền Học Việt Nam PL. 2547 - DL. 2003

BẢO NHẬM


Đốn ngộ tuy đồng Phật
Đa sanh tập khí thâm
Phong đình ba thượng dũng
Lý hiện niệm du xâm.

Nghĩa:
Đốn ngộ tuy đồng Phật
Nhiều đời tập khí sâu
Gió dừng sóng còn vỗ
Lý hiện niệm vẫn vào

Lẽ thật sờ sờ không chối cãi, nhưng làm sao một phen sáng phải sáng mãi không cùng tận! Bởi ngộ thì trong chớp mắt không kịp suy nghĩ, song từ đó về sau thời gian còn dài, sức sống của mình chưa trải qua, đâu thể đem công phu trong một thoáng mà sánh kịp! Do đó cần phải có sự bảo nhậm, gìn giữ, khiến cho LÝ TỨC NHƯ THẾ,SỰ CŨNG NHƯ THẾ mới thật sự có sức sống không dối.

 Hãy nghe Quy Sơn sau khi tỏ ngộ, lễ tạ trình bày với Tổ Bá Trượng, Bá Trượng liền bảo: “Đây là con đường rẻ tạm thời. Kinh nói: ‘Muốn thấy Phật tánh, phải quán thời tiết nhân duyên, thời tiết đã đến, như mê chợt ngộ, như quên chợt nhớ, mới tỉnh vật của mình không từ bên ngoài được". Cho nên Tổ sư bảo:- ‘Ngộ rồi đồng chưa ngộ, không tâm cũng không pháp". Chỉ là không tâm hư vọng, phàm thánh v.v… Xưa nay tâm pháp nguyên tự đầy đủ. Nay người đã vậy nên tự khéo gìn giữ.”
Ngưỡng sơn bảo Quang Dũng: “Phàm thánh cả hai đều quên, tình dứt thể hiển bày. Ta lấy đây để nghiệm xét người, hai mươi năm không kể đến, ông nên gìn giữ đó.
Bài "Bảo Cảnh Tam Muội" do ngài Vân Nham truyền cho Động Sơn Lương giới, mở đầu bằng bốn câu:
 Như thị chi pháp
Phật Tổ mật phó
Nhữ kim đắc chi
Nghi thiện bảo hộ.

Nghĩa:
Pháp ấy như vậy
Phật Tổ thầm trao
Nay ông được đó
Nên khéo gìn giữ.
Cho thấy, chư Tổ luôn luôn dặn dò gìn giữ kỹ lưỡng như thế, đâu thể hời hợt xem thường! Song, bảo nhậm như thế nào ?

I. TÂM VÔ TRỤ

Chúng sanh chúng ta luôn luôn sống với "tâm có trụ", do đó hằng mất mình trong chỗ trụ. Chỗ trụ tức các duyên trần, cũng gọi là bạn bè. Tâm chúng ta không bao giờ sống không bạn bè, trái lại cứ luôn luôn tìm bạn để duyên, để biết, không bạn bè thì tưởng chừng như không còn có mình. Sống từ kiếp này qua kiếp nọ, cứ lang thang nơi đất khách quê người, chính vì TÂM CÓ CHỖ TRỤ này.

Giờ đây đã sáng được bản tâm, tỏ được bản tánh, thấy rõ được nguồn sống chân thật của chính mình rồi, có lẽ nào lại chịu sống theo nếp cũ đường mê đó sao? Kinh Kim Cang Phật dạy, nếu muốn AN TRỤ TÂM VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC, phải bố thí cả sáu căn. Nghĩa là muốn tâm không chạy lang thang nữa, phải buông xả, không trụ vào sáu trần, thì tự nhiên AN TRỤ thôi. Tâm đối trước sáu trần, tức là thường hiện diện trước thế gian này, nhưng không trụ vào một trần nào, là đi qua tất cả mà không dừng lại trên bất cứ thứ gì, thì chính đó là luôn luôn có mặt hiện hữu không mê. Bảo nhậm là chỗ đó!
Có vị tăng hỏi Thiền sư Bổn Tịch:
- Học nhân trong mười hai giờ, thế nào bảo nhậm?
Sư đáp:
- Như người đi qua làng cổ độc, một giọt nước cũng chẳng được thắm môi.
Muốn giữ gìn suốt ngày không để vắng mất, phải như người đi qua làng cổ độc, thì cái gì trong đó, từ ngọn cỏ, cọng rau, giọt nước đều có chất độc, quyết không được đụng vào một chút gì. Cũng vậy, người bảo nhậm không mất, phải luôn luôn sáng ngời, đi qua tất cả cảnh trần mà không dừng lại trên bất cứ chỗ nào, thì có mất đi đâu? Trong ấy, chỉ cần vừa động niệm là để chạy lọt rồi.

Thiền sư Hân ở Dũng Tuyền từng bảo: “Ta bốn mươi năm tại chỗ này còn có chạy lọt, các ông chớ mở miệng to. Kẻ kiến giải thì nhiều, người hạnh giải thì trong muôn người mới có một.”

Đây là lời nói thành thật của người đã từng kinh nghiệm qua. Kẻ mới sáng, thoáng thấy lẽ thật ngay hiện tiền, tưởng chừng như mình đã sống trong ấy. Không ngờ giây phút đột biến xuất thần ấy qua rồi, tâm niệm quen theo đường cũ, lối mòn vẫn nổi dậy theo duyên, tình yêu ghét lấy bỏ vẫn chưa sạch.

Thiền sư Đại Huệ bảo: “Thường thường người lợi căn thượng trí được nó chẳng phí sức, bèn sanh tâm khinh dễ mà không tu hành; họ phần đông bị cảnh giới trước mắt cướp đoạt mang đi, làm chủ tể chẳng được, ngày qua tháng lại mê man chẳng tỉnh, đạo lực không thắng được nghiệp lực, nên ma được dịp thuận tiện phá hoại, chắc chắn bị ma nắm quyền sai sử, đến lúc mạng chung cũng chẳng đắc lực.” (Trích Kho Báu Nhà Thiền)

Người lanh lợi nhận được dễ dàng tưởng là xong, là tự tại, không cần công phu gì thêm, lâu ngày sức yếu, đạo lực lại chưa có, hẳn bị nghiệp lực làm chủ dẫn đi, đụng cảnh yêu ghét vẫn yêu ghét như thường, mới biết THẬT CHƯA PHẢI.

Thiền sư Vô Văn Thông ở Hương Sơn, nối pháp ngài Thiết Sơn Quỳnh, đã từng kể lại kinh nghiệm của mình: “Tuy kiến giải về thiền đã rõ ràng và đầy đủ nhưng vọng tâm vẫn còn ẩn kín sâu sa chưa hoàn toàn dứt sạch. Thế rồi tôi lại lánh mình vào trong núi sáu năm ở Châu Quang, kế sáu năm nữa ở Lục An và sau rốt lại ba năm ở Châu Quang nữa, bấy giờ mới thật được thảnh thơi.”

Cho thấy, người có thực sống đàng hoàng thì lời nói ra có đầy đủ hạnh giải thiết thực, không đồng với người chỉ nghiêng một bên lý. Lời nói thì giải thoát ngay trước mắt không cần trải qua thứ lớp công phu bên ngoài, nhưng thực tế có thực giải thoát hay không là một việc khác. Đâu phải nói giải thoát là thành giải thoát.

Chúng ta hãy nghe Hòa thượng Viên ngộ nói: “Thuở xưa, bậc đạo cao đức dày bảo người đã thoát căn trần nên hoằng mật ấn hai ba mươi năm dụng công một cách lạnh lẽo, lặng lặng, vừa có mảy may tri kiến liền quét sạch, cũng chẳng lưu lại dấu vết càn quét, ở trên bờ kia buông tay, quên hẳn toàn thân thì chắc chắn được sống rất thích thú. Chỉ sợ khởi cái biết về hành động ấy thì cái biết đó là tai họa vậy.” (Trích Kho Báu Nhà Thiền)

Nghĩa là, người thực sự sáng đạo và sống đạo thì phải âm thầm gìn giữ cho quên hẳn tướng ngã, không phải chưa gì đã lo phô trương cho người biết TA đã ngộ, bày hiện tri kiến này, tri kiến nọ. Đâu biết, trong ấy vừa khởi một chút thấy biết là dư rồi. Nếu lại khởi cái biết về hành động ấy, tức có bóng dáng cái ta xen vào, BIẾT TA ĐÃ NGỘ. Lục Tổ đâu chẳng từng bảo:

 Ngơ ngơ chẳng tạo dữ
Ngốc ngốc chẳng làm lành
Lặng lẽ dứt thấy nghe
Thênh thang tâm không dính.

Tổ nhắc, phải như ngu như ngốc, không một chút dấu vết cho quỷ thần xem thấy, không cần ai biết tới mình. Nên nhớ, muốn tỏ bày cho người biết mình đã ngộ, đã sáng, là trình cái TA ra rồi! Chúng ta đang mang thân phàm phu này, ai dám bảo rằng ngay đây mình đã sạch tướng ngã? Dù ngộ cao sâu cách mấy, nhưng tập khí chấp ngã nhiều đời vẫn còn đó, chưa hẳn sạch hết hoàn toàn, mà nó vẫn ngủ ngầm trong ta. Thiếu ánh sáng chánh giác là nó lộ ra ngay! Kinh nói, chỉ Phật mới là “Tri tập khí vĩnh đọan”, tức Phật mới thật sự biết rõ chính mình dứt sạch hẳn không còn tập khí. Người có công phu thực sự cần nghiệm kỹ!

Ở một đoạn khác, ngài Viên Ngộ bảo: “Sau khi nhận được ý chỉ, phải miên mật tương tục giữ gìn khiến không cho gián đoạn để trưởng dưỡng thánh thai. Dẫu có gặp cảnh giới ác mà vẫn có khả năng dùng đựơc định lực chánh tri kiến dung nhiếp nó khiến thành một phiến thì cơn biến đổi lớn sanh tử chẳng đủ làm động lòng mình, hàm dưỡng được lâu năm sẽ thành con người vô vi, vô sự, đại giải thoát, đâu chẳng phải là chỗ làm đã xong, việc hành cước đã rồi ư! (Trích Kho Báu Nhà Thiền)

Tức một phen đã sáng phải sáng mãi không cùng tận, dù trong nghịch cảnh vẫn không mất, trong cơn sanh tử vẫn sáng tỏ, mới có sức sống chân thật. Chỗ này không thể nói suông, ngộ suông mà được. Trái lại công phu miên mật, liên tục giữ gìn không gián đoạn. Kinh nghiệm của người đi trước là như thế, chúng ta đâu dám tự hào với chỗ thấy hiểu riêng ư?

Hòa thượng Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:
- Này Huệ Tích! Tâm thức ông vi tế lưu chú không đến, nay đã được mấy năm rồi?
Ngưỡng Sơn chưa vội đáp, hỏi vặn lại:
- Hòa thượng không đến, đã được mấy năm rồi?
Lúc đó Quy Sơn đã bảy mươi tuổi, Sư đáp Ngưỡng Sơn:
- Lão tăng không đến đã bảy năm rồi.
Ngưõng Sơn thưa:
- Huệ Tịch con chính đang náo loạn!
Lời bình của ngài Đại Huệ: “Lấy đây mà xét, chỗ này lấy thô tâm nói không để mà dối nhau được chăng? Thật ra, phải là người có lực lượng lớn mới được!” (Trích Kho Báu Nhà Thiền)

Vi tế lưu chú tức dòng sanh diệt nhỏ nhiệm ngấm ngầm trong tâm. Ngưỡng Sơn như thế mà còn đáp: “Con chính đang náo loạn!”, thử hỏi ngày nay chúng ta công phu được tới đâu mà dám vỗ ngực nói mình tự tại? Hãy nghe kỹ lời bình của Thiền sư Đại Huệ: “Lấy đây mà xét, chỗ này lấy thô tâm nói không để mà dối nhau được chăng?” Chưa gì đã hấp tấp bảo tất cả đều không, nhưng thực sự đã không chưa? Dùng "lý hay" để dối người mê thì được nhưng đâu thể dối Phật, dối Tổ, dối Diêm Vương! Hành giả chân chính không thể không xét kỹ!

Cho nên, chính vô trụ là trả lại “tâm bình thường là đạo”, sạch hết mọi kiến giải sai biệt, chỉ một sức sống chân thật luôn hiện hữu.

Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:
- Chư Thánh từ trước hướng chỗ nào đi?
Ngưỡng Sơn đáp:
- Hoặc ở trên trời hoặc ở nhân gian.
Vậy, đâu là chỗ đi của chư Thánh? Có chỗ nào, là bị người khám phá ngay, là bị quỷ thần có cơ hội thuận tiện, thì cùng phàm phu khác gì? Ngưỡng Sơn trả lời: “Hoặc ở trên trời, hoặc ở nhân gian” ý chỉ không có chỗ cố định để tìm, để thấy, bặt dấu vết của tâm. Chỗ đi của chư Thánh là như thế như thế, người còn “có tâm” làm sao bắt theo kịp? Do đó không bao giờ có thể bắt chước.

Như vậy, chỉ môt TÂM VÔ TRỤ mà sống đúng nghĩa chân thật của nó, tức luôn luôn sáng tỏ không mê, không gián đoạn. Ở trong đó thì một hạt bụi nhỏ cũng không lầm qua được. Như Tổ Lâm tế bảo: “Giả sử có Văn Thù, Phổ Hiền, mỗi vị hiện mỗi thân đến hỏi pháp, vừa mở miệng ‘Thưa Hòa thượng…’, tôi sớm biết rồi. Huynh đệ vừa đến gặp nhau, tôi đã trọn khác. Bởi vì chỗ thấy của tôi riêng khác, ngoài chẳng trụ phàm Thánh, trong chẳng trụ căn bản, thấy suốt trọn không có nghi ngờ.”

Tại sao ngài biết tinh tế như vậy? Chính vì tâm vô trụ, không trụ trong tâm, không trụ ngoại cảnh, trong ngoài phàm thánh đều bặt, không chỗ bám dừng, nên hằng sáng ngời, không có chút gì có thể làm lầm được. Vừa mở miệng “Thưa Hòa thượng…” là biết ngay trong tâm ông có vấn đề gì rồi! Người vừa đến gặp nhau, cũng biết là có việc rồi! Đến đây mới thực là "trâu trắng sờ sờ". Chưa được vậy, đừng vội ăn to nói lớn, khó tránh khỏi nhân quả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31338)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26226)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27528)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27918)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26717)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31235)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20265)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22936)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30061)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21575)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20249)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22666)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20759)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30318)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28795)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34731)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44236)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35518)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22547)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21379)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20690)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24766)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37926)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19047)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19332)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21825)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20872)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29527)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35136)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28818)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32607)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26228)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28933)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43152)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34971)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43941)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37914)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21333)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43029)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49016)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39846)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53784)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36827)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40815)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49740)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47314)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27702)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27028)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27236)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24079)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20853)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34323)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22469)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25125)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25849)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22954)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22474)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21763)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23323)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21188)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant