Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

I. Tâm vô trụ

19 Tháng Tư 201100:00(Xem: 17630)
I. Tâm vô trụ

Một Sức Sống Chân Thật Giữa Thế Gian
THIỀN TÔNG ĐỐN NGỘ
Thích Thông Phương
Hội Thiền Học Việt Nam PL. 2547 - DL. 2003

BẢO NHẬM


Đốn ngộ tuy đồng Phật
Đa sanh tập khí thâm
Phong đình ba thượng dũng
Lý hiện niệm du xâm.

Nghĩa:
Đốn ngộ tuy đồng Phật
Nhiều đời tập khí sâu
Gió dừng sóng còn vỗ
Lý hiện niệm vẫn vào

Lẽ thật sờ sờ không chối cãi, nhưng làm sao một phen sáng phải sáng mãi không cùng tận! Bởi ngộ thì trong chớp mắt không kịp suy nghĩ, song từ đó về sau thời gian còn dài, sức sống của mình chưa trải qua, đâu thể đem công phu trong một thoáng mà sánh kịp! Do đó cần phải có sự bảo nhậm, gìn giữ, khiến cho LÝ TỨC NHƯ THẾ,SỰ CŨNG NHƯ THẾ mới thật sự có sức sống không dối.

 Hãy nghe Quy Sơn sau khi tỏ ngộ, lễ tạ trình bày với Tổ Bá Trượng, Bá Trượng liền bảo: “Đây là con đường rẻ tạm thời. Kinh nói: ‘Muốn thấy Phật tánh, phải quán thời tiết nhân duyên, thời tiết đã đến, như mê chợt ngộ, như quên chợt nhớ, mới tỉnh vật của mình không từ bên ngoài được". Cho nên Tổ sư bảo:- ‘Ngộ rồi đồng chưa ngộ, không tâm cũng không pháp". Chỉ là không tâm hư vọng, phàm thánh v.v… Xưa nay tâm pháp nguyên tự đầy đủ. Nay người đã vậy nên tự khéo gìn giữ.”
Ngưỡng sơn bảo Quang Dũng: “Phàm thánh cả hai đều quên, tình dứt thể hiển bày. Ta lấy đây để nghiệm xét người, hai mươi năm không kể đến, ông nên gìn giữ đó.
Bài "Bảo Cảnh Tam Muội" do ngài Vân Nham truyền cho Động Sơn Lương giới, mở đầu bằng bốn câu:
 Như thị chi pháp
Phật Tổ mật phó
Nhữ kim đắc chi
Nghi thiện bảo hộ.

Nghĩa:
Pháp ấy như vậy
Phật Tổ thầm trao
Nay ông được đó
Nên khéo gìn giữ.
Cho thấy, chư Tổ luôn luôn dặn dò gìn giữ kỹ lưỡng như thế, đâu thể hời hợt xem thường! Song, bảo nhậm như thế nào ?

I. TÂM VÔ TRỤ

Chúng sanh chúng ta luôn luôn sống với "tâm có trụ", do đó hằng mất mình trong chỗ trụ. Chỗ trụ tức các duyên trần, cũng gọi là bạn bè. Tâm chúng ta không bao giờ sống không bạn bè, trái lại cứ luôn luôn tìm bạn để duyên, để biết, không bạn bè thì tưởng chừng như không còn có mình. Sống từ kiếp này qua kiếp nọ, cứ lang thang nơi đất khách quê người, chính vì TÂM CÓ CHỖ TRỤ này.

Giờ đây đã sáng được bản tâm, tỏ được bản tánh, thấy rõ được nguồn sống chân thật của chính mình rồi, có lẽ nào lại chịu sống theo nếp cũ đường mê đó sao? Kinh Kim Cang Phật dạy, nếu muốn AN TRỤ TÂM VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC, phải bố thí cả sáu căn. Nghĩa là muốn tâm không chạy lang thang nữa, phải buông xả, không trụ vào sáu trần, thì tự nhiên AN TRỤ thôi. Tâm đối trước sáu trần, tức là thường hiện diện trước thế gian này, nhưng không trụ vào một trần nào, là đi qua tất cả mà không dừng lại trên bất cứ thứ gì, thì chính đó là luôn luôn có mặt hiện hữu không mê. Bảo nhậm là chỗ đó!
Có vị tăng hỏi Thiền sư Bổn Tịch:
- Học nhân trong mười hai giờ, thế nào bảo nhậm?
Sư đáp:
- Như người đi qua làng cổ độc, một giọt nước cũng chẳng được thắm môi.
Muốn giữ gìn suốt ngày không để vắng mất, phải như người đi qua làng cổ độc, thì cái gì trong đó, từ ngọn cỏ, cọng rau, giọt nước đều có chất độc, quyết không được đụng vào một chút gì. Cũng vậy, người bảo nhậm không mất, phải luôn luôn sáng ngời, đi qua tất cả cảnh trần mà không dừng lại trên bất cứ chỗ nào, thì có mất đi đâu? Trong ấy, chỉ cần vừa động niệm là để chạy lọt rồi.

Thiền sư Hân ở Dũng Tuyền từng bảo: “Ta bốn mươi năm tại chỗ này còn có chạy lọt, các ông chớ mở miệng to. Kẻ kiến giải thì nhiều, người hạnh giải thì trong muôn người mới có một.”

Đây là lời nói thành thật của người đã từng kinh nghiệm qua. Kẻ mới sáng, thoáng thấy lẽ thật ngay hiện tiền, tưởng chừng như mình đã sống trong ấy. Không ngờ giây phút đột biến xuất thần ấy qua rồi, tâm niệm quen theo đường cũ, lối mòn vẫn nổi dậy theo duyên, tình yêu ghét lấy bỏ vẫn chưa sạch.

Thiền sư Đại Huệ bảo: “Thường thường người lợi căn thượng trí được nó chẳng phí sức, bèn sanh tâm khinh dễ mà không tu hành; họ phần đông bị cảnh giới trước mắt cướp đoạt mang đi, làm chủ tể chẳng được, ngày qua tháng lại mê man chẳng tỉnh, đạo lực không thắng được nghiệp lực, nên ma được dịp thuận tiện phá hoại, chắc chắn bị ma nắm quyền sai sử, đến lúc mạng chung cũng chẳng đắc lực.” (Trích Kho Báu Nhà Thiền)

Người lanh lợi nhận được dễ dàng tưởng là xong, là tự tại, không cần công phu gì thêm, lâu ngày sức yếu, đạo lực lại chưa có, hẳn bị nghiệp lực làm chủ dẫn đi, đụng cảnh yêu ghét vẫn yêu ghét như thường, mới biết THẬT CHƯA PHẢI.

Thiền sư Vô Văn Thông ở Hương Sơn, nối pháp ngài Thiết Sơn Quỳnh, đã từng kể lại kinh nghiệm của mình: “Tuy kiến giải về thiền đã rõ ràng và đầy đủ nhưng vọng tâm vẫn còn ẩn kín sâu sa chưa hoàn toàn dứt sạch. Thế rồi tôi lại lánh mình vào trong núi sáu năm ở Châu Quang, kế sáu năm nữa ở Lục An và sau rốt lại ba năm ở Châu Quang nữa, bấy giờ mới thật được thảnh thơi.”

Cho thấy, người có thực sống đàng hoàng thì lời nói ra có đầy đủ hạnh giải thiết thực, không đồng với người chỉ nghiêng một bên lý. Lời nói thì giải thoát ngay trước mắt không cần trải qua thứ lớp công phu bên ngoài, nhưng thực tế có thực giải thoát hay không là một việc khác. Đâu phải nói giải thoát là thành giải thoát.

Chúng ta hãy nghe Hòa thượng Viên ngộ nói: “Thuở xưa, bậc đạo cao đức dày bảo người đã thoát căn trần nên hoằng mật ấn hai ba mươi năm dụng công một cách lạnh lẽo, lặng lặng, vừa có mảy may tri kiến liền quét sạch, cũng chẳng lưu lại dấu vết càn quét, ở trên bờ kia buông tay, quên hẳn toàn thân thì chắc chắn được sống rất thích thú. Chỉ sợ khởi cái biết về hành động ấy thì cái biết đó là tai họa vậy.” (Trích Kho Báu Nhà Thiền)

Nghĩa là, người thực sự sáng đạo và sống đạo thì phải âm thầm gìn giữ cho quên hẳn tướng ngã, không phải chưa gì đã lo phô trương cho người biết TA đã ngộ, bày hiện tri kiến này, tri kiến nọ. Đâu biết, trong ấy vừa khởi một chút thấy biết là dư rồi. Nếu lại khởi cái biết về hành động ấy, tức có bóng dáng cái ta xen vào, BIẾT TA ĐÃ NGỘ. Lục Tổ đâu chẳng từng bảo:

 Ngơ ngơ chẳng tạo dữ
Ngốc ngốc chẳng làm lành
Lặng lẽ dứt thấy nghe
Thênh thang tâm không dính.

Tổ nhắc, phải như ngu như ngốc, không một chút dấu vết cho quỷ thần xem thấy, không cần ai biết tới mình. Nên nhớ, muốn tỏ bày cho người biết mình đã ngộ, đã sáng, là trình cái TA ra rồi! Chúng ta đang mang thân phàm phu này, ai dám bảo rằng ngay đây mình đã sạch tướng ngã? Dù ngộ cao sâu cách mấy, nhưng tập khí chấp ngã nhiều đời vẫn còn đó, chưa hẳn sạch hết hoàn toàn, mà nó vẫn ngủ ngầm trong ta. Thiếu ánh sáng chánh giác là nó lộ ra ngay! Kinh nói, chỉ Phật mới là “Tri tập khí vĩnh đọan”, tức Phật mới thật sự biết rõ chính mình dứt sạch hẳn không còn tập khí. Người có công phu thực sự cần nghiệm kỹ!

Ở một đoạn khác, ngài Viên Ngộ bảo: “Sau khi nhận được ý chỉ, phải miên mật tương tục giữ gìn khiến không cho gián đoạn để trưởng dưỡng thánh thai. Dẫu có gặp cảnh giới ác mà vẫn có khả năng dùng đựơc định lực chánh tri kiến dung nhiếp nó khiến thành một phiến thì cơn biến đổi lớn sanh tử chẳng đủ làm động lòng mình, hàm dưỡng được lâu năm sẽ thành con người vô vi, vô sự, đại giải thoát, đâu chẳng phải là chỗ làm đã xong, việc hành cước đã rồi ư! (Trích Kho Báu Nhà Thiền)

Tức một phen đã sáng phải sáng mãi không cùng tận, dù trong nghịch cảnh vẫn không mất, trong cơn sanh tử vẫn sáng tỏ, mới có sức sống chân thật. Chỗ này không thể nói suông, ngộ suông mà được. Trái lại công phu miên mật, liên tục giữ gìn không gián đoạn. Kinh nghiệm của người đi trước là như thế, chúng ta đâu dám tự hào với chỗ thấy hiểu riêng ư?

Hòa thượng Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:
- Này Huệ Tích! Tâm thức ông vi tế lưu chú không đến, nay đã được mấy năm rồi?
Ngưỡng Sơn chưa vội đáp, hỏi vặn lại:
- Hòa thượng không đến, đã được mấy năm rồi?
Lúc đó Quy Sơn đã bảy mươi tuổi, Sư đáp Ngưỡng Sơn:
- Lão tăng không đến đã bảy năm rồi.
Ngưõng Sơn thưa:
- Huệ Tịch con chính đang náo loạn!
Lời bình của ngài Đại Huệ: “Lấy đây mà xét, chỗ này lấy thô tâm nói không để mà dối nhau được chăng? Thật ra, phải là người có lực lượng lớn mới được!” (Trích Kho Báu Nhà Thiền)

Vi tế lưu chú tức dòng sanh diệt nhỏ nhiệm ngấm ngầm trong tâm. Ngưỡng Sơn như thế mà còn đáp: “Con chính đang náo loạn!”, thử hỏi ngày nay chúng ta công phu được tới đâu mà dám vỗ ngực nói mình tự tại? Hãy nghe kỹ lời bình của Thiền sư Đại Huệ: “Lấy đây mà xét, chỗ này lấy thô tâm nói không để mà dối nhau được chăng?” Chưa gì đã hấp tấp bảo tất cả đều không, nhưng thực sự đã không chưa? Dùng "lý hay" để dối người mê thì được nhưng đâu thể dối Phật, dối Tổ, dối Diêm Vương! Hành giả chân chính không thể không xét kỹ!

Cho nên, chính vô trụ là trả lại “tâm bình thường là đạo”, sạch hết mọi kiến giải sai biệt, chỉ một sức sống chân thật luôn hiện hữu.

Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:
- Chư Thánh từ trước hướng chỗ nào đi?
Ngưỡng Sơn đáp:
- Hoặc ở trên trời hoặc ở nhân gian.
Vậy, đâu là chỗ đi của chư Thánh? Có chỗ nào, là bị người khám phá ngay, là bị quỷ thần có cơ hội thuận tiện, thì cùng phàm phu khác gì? Ngưỡng Sơn trả lời: “Hoặc ở trên trời, hoặc ở nhân gian” ý chỉ không có chỗ cố định để tìm, để thấy, bặt dấu vết của tâm. Chỗ đi của chư Thánh là như thế như thế, người còn “có tâm” làm sao bắt theo kịp? Do đó không bao giờ có thể bắt chước.

Như vậy, chỉ môt TÂM VÔ TRỤ mà sống đúng nghĩa chân thật của nó, tức luôn luôn sáng tỏ không mê, không gián đoạn. Ở trong đó thì một hạt bụi nhỏ cũng không lầm qua được. Như Tổ Lâm tế bảo: “Giả sử có Văn Thù, Phổ Hiền, mỗi vị hiện mỗi thân đến hỏi pháp, vừa mở miệng ‘Thưa Hòa thượng…’, tôi sớm biết rồi. Huynh đệ vừa đến gặp nhau, tôi đã trọn khác. Bởi vì chỗ thấy của tôi riêng khác, ngoài chẳng trụ phàm Thánh, trong chẳng trụ căn bản, thấy suốt trọn không có nghi ngờ.”

Tại sao ngài biết tinh tế như vậy? Chính vì tâm vô trụ, không trụ trong tâm, không trụ ngoại cảnh, trong ngoài phàm thánh đều bặt, không chỗ bám dừng, nên hằng sáng ngời, không có chút gì có thể làm lầm được. Vừa mở miệng “Thưa Hòa thượng…” là biết ngay trong tâm ông có vấn đề gì rồi! Người vừa đến gặp nhau, cũng biết là có việc rồi! Đến đây mới thực là "trâu trắng sờ sờ". Chưa được vậy, đừng vội ăn to nói lớn, khó tránh khỏi nhân quả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33133)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6520)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11241)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30387)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30425)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7963)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12161)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12230)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11577)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12782)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34713)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9829)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52235)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10724)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10492)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10696)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10445)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13051)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16231)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21810)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9594)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7102)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10370)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12715)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12760)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16207)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16507)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13836)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16560)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12096)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13785)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14302)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9177)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11730)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11248)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16281)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14327)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16186)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12682)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12061)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11785)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15643)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11495)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14011)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11995)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12608)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14974)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11944)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13107)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14512)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20656)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13190)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10926)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20671)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14332)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20341)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17627)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14000)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31844)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12004)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant