Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

23. Tắc 86 - Tắc 90

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12530)
23. Tắc 86 - Tắc 90

BÍCH NHAM LỤC
Tác giả: Thiền sư Viên Ngộ - Việt dịch: HT. Thích Thanh Từ
Tu viện Chân Không 1980

TẮC 86

VÂN MÔN KHO TRÙ BA CỬA

LỜI DẪN: Nắm đứng thế giới chẳng lọt mảy tơ, cắt đứt các dòng chẳng còn một giọt, mở miệng liền lầm, suy nghĩ thì sai. Hãy nói thế nào là con mắt thấu quan, thử cử xem?

CÔNG ÁN: Vân Môn dạy: Mỗi người trọn có ánh sáng hiện tại, khi xem thì chẳng thấy tối mù mù. Thế nào là ánh sáng của quí vị? Tự thay đáp: Kho trù ba cửa. Lại đáp: Việc tốt chẳng bằng không.

GIẢI THÍCH: Vân Môn ở trong thất để lời tiếp người: “Cả thảy các ông dưới gót chân mỗi người có một đoạn ánh sáng soi thấu cổ kim, vượt hẳn thấy biết. Tuy nhiên ánh sáng vừa hỏi đến lại chẳng hội, há chẳng phải tối mù mù.” Lời nói này đến hai mươi năm trọn không có người hiểu được ý Sư. Sau Hương Lâm cầu xin thay đáp. Vân Môn đáp: Kho trù ba cửa. Lại đáp: Việc tốt chẳng bằng không. Bình thường lời đáp thay chỉ là một câu, tại sao trong đây lại hai câu? Câu trước vì ông mở một con đường cho ông thấy. Nếu là kẻ kia, vừa nghe nói đến liền đứng dậy ra đi. Sư sợ người kẹt ở đây, lại nói “việc tốt chẳng bằng không”. Như trước vì ông quét sạch. Người nay vừa nghe nói ánh sáng liền trừng trợn mắt nói: Trong kia là kho trù, trong kia là ba cửa. Vẫn là không dính dáng. Vì thế nói: “Hiểu lấy ý đầu lưỡi câu, chớ nhận quả cân bàn.” Việc này không ở trên mắt, cũng chẳng ở trên cảnh, cần phải bặt tri kiến, quên được mất, sạch trọi trơn bày lồ lộ. Mỗi mỗi trên phần của người, hiện tại nghiên cứu lấy mới được. Vân Môn nói: “Trong ngày qua lại, trong ngày biện người, bỗng nhiên giữa đêm không ánh sáng mặt trời, mặt trăng, đèn, chỗ từng đến thì vẫn được, chỗ chưa từng đến lấy một vật, lại lấy được chăng?” Trong Tham Đồng Khế nói: “Chính trong sáng có tối, chớ lấy tối xem nhau, chính trong tối có sáng, chớ lấy sáng gặp nhau.” Nếu ngồi dứt sáng tối, hãy nói là cái gì? Do đó nói: “Tâm hoa phát minh soi sáng cõi nước ở mười phương.” Bàn Sơn nói: “Sáng chẳng soi cảnh, cảnh cũng chẳng còn, sáng cảnh đều quên, lại là vật gì?” Lại nói: “Chính nơi thấy nghe chẳng thấy nghe, không còn thanh sắc đáng trình anh, trong đây nếu liễu toàn vô sự, thể dụng ngại gì phân chẳng phân.” Chỉ hiểu câu rốt sau, đến câu trước dạo chơi, cứu kính chẳng ở trong ấy làm kế sống. Cổ nhân nói: “Lấy gốc không trụ lập tất cả pháp.” Chẳng được đến trong này đùa quang ảnh đùa tinh hồn, lại chẳng được hiểu là vô sự. Cổ nhân nói: “Thà khởi chấp Có bằng núi Tu-di, chẳng nên chấp Không bằng hạt cải.” Hàng Nhị thừa phần nhiều hay rơi vào cái chấp này.

Tuyết Đậu tụng:

TỤNG:

Tự chiếu liệt cô minh
Vị quân thông nhất tuyến
Hoa tạ thọ vô ảnh
Khán thời thùy bất kiến.
Kiến bất kiến
Đảo kỵ ngưu hề nhập Phật điện.

DỊCH:

Tự chiếu bày sáng côi
Vì anh thông một tuyến
Hoa tàn cây không bóng
Khi xem ai chẳng thấy.
Thấy chẳng thấy
Cỡi ngược trâu chừ vào điện Phật.

GIẢI TỤNG: Câu “tự chiếu bày sáng côi”, dưới gót chân mỗi người sẵn có một đoạn quang minh này, chỉ là bình thường dùng được cái tối. Vì thế, Đại sư Vân Môn vì ông bày la liệt quang minh này ở trước mắt ông. Thế nào là quang minh của các ông? Kho trù ba cửa. Đây là chỗ Vân Môn bày cái sáng côi. Bàn Sơn nói: “Trăng tâm riêng tròn, sáng nuốt vạn tượng.” Cái này là chân thường độc lộ. Về sau “vì anh thông một tuyến”, cũng sợ người chấp chỗ “kho trù ba cửa”. Kho trù ba cửa thì hãy theo. Buổi sáng hoa đã tàn, cây cũng không bóng, mặt trời lại lặn, mặt trăng lại tối, trọn cả càn khôn đại địa tối mù mịt, các ông lại thấy chăng? “Khi xem ai chẳng thấy”, hãy nói là ai chẳng thấy? Đến trong đây phải trong sáng có tối, trong tối có sáng, thảy như bước trước bước sau tự nên thấy. Tuyết Đậu nói: “thấy chẳng thấy” là tụng “việc tốt chẳng bằng không”. Nên thấy lại chẳng thấy, nên sáng lại chẳng sáng. Câu “cỡi ngược trâu chừ vào điện Phật”, vào trong thùng sơn vậy. Phải là ông tự cỡi trâu vào điện Phật. Xem nói thế ấy là đạo lý gì?

TẮC 87

VÂN MÔN THUỐC BỆNH TRỊ NHAU

LỜI DẪN: Người mắt sáng không hang ổ, có khi trên đảnh cô phong cỏ rậm rì, có khi ở đầu chợ bày lồ lộ. Bỗng khi phẫn nộ, Na-tra hiện ba đầu sáu tay. Bỗng khi ngày hướng Phật tháng hướng Phật, phóng từ quang phổ nhiếp, ở trên hạt bụi hiện tất cả thân, tùy loại người hòa bùn hiệp nước. Bỗng khi vạch ra lối hướng thượng, con mắt Phật cũng nhìn chẳng đến, dù cho ngàn vị Thánh ra đời cũng phải thối lui ba ngàn dặm. Lại có đồng đắc đồng chứng hay không, thử cử xem?

CÔNG ÁN: Vân Môn dạy chúng: Thuốc bệnh trị nhau, cả đại địa đều là thuốc, cái gì là chính mình?

GIẢI THÍCH: Vân Môn nói thuốc bệnh trị nhau, cả đại địa đều là thuốc, cái gì là chính mình, các ngươi lại có chỗ xuất thân chăng? Trong mười hai giờ xem xét lấy, vách đứng ngàn nhẫn. Đức Sơn gậy đánh như mưa rơi, Lâm Tế hét tợ sấm vang; tạm gác lại. Thích-ca tự Thích-ca, Di-lặc tự Di-lặc. Người chưa biết chỗ rơi, thường bảo thuốc bệnh hợp nhau hiểu lấy. Thế Tôn bốn mươi chín năm hơn ba trăm hội, ứng cơ nói giáo đều là hợp bệnh cho thuốc, giống như đem quả ngọt đổi trái đắng, gạn lọc nghiệp căn của các ông, khiến sạch trơn thong dong. Cả quả đất là thuốc, ông nhằm chỗ nào cắm mỏ? Nếu cắm được mỏ, cho ông có chỗ chuyển thân nhả hơi, liền diện kiến Vân Môn. Nếu ông ngó ngoái lại trù trừ, hẳn là cắm mỏ chẳng được, Vân Môn ở dưới gót chân của ông. Thuốc bệnh trị nhau, cũng chỉ là lời nói tầm thường. Nếu ông chấp có, vì ông nói không, nếu ông chấp không, vì ông nói có, nếu ông chấp chẳng có chẳng không vì ông quét bụi dẹp phân. Hiện kim thân trượng sáu, vừa hiện vừa mất. Hiện nay cả đại địa sum la vạn tượng cho đến chính mình đồng thời là thuốc, ngay khi đó gọi cái gì là chính mình? Ông một bề gọi là thuốc, đến đức Phật Di-lặc ra đời cũng chưa mộng thấy Vân Môn. Cứu kính thế nào? Biết lấy ý đầu lưỡi câu, chớ nhận trái cân bàn. Bồ-tát Văn-thù một hôm sai Thiện Tài đi hái thuốc, dặn: Chẳng phải thuốc hái đem về. Thiện Tài xem khắp đều là thuốc, trở lại bạch: Cả thảy đều là thuốc. Văn-thù bảo: Là thuốc hái đem về. Thiện Tài bèn cầm một cọng cỏ đưa Văn-thù. Văn-thù đưa lên bảo chúng: Thuốc này hay giết người cũng hay cứu người. Câu thuốc bệnh trị nhau này rất khó khán, Vân Môn ở trong thất, bình thường dùng để tiếp người. Trưởng lão Kim Nga một hôm đến phỏng vấn Tuyết Đậu, Sư là hàng tác gia, chính là bậc tôn túc trong tông Lâm Tế. Hai vị luận câu “thuốc bệnh trị nhau” suốt đêm, đến mặt trời lên mới tột lý. Đến trong đây học hiểu so sánh suy nghĩ thảy sử dụng không đến. Sau Tuyết Đậu có làm tụng tiễn Kim Nga rằng: “Thuốc bệnh trị nhau thấy gian nan, muôn trùng cửa khóa không mối mang, Kim Nga đạo giả sang thăm hỏi, biển học sóng đùa một đêm khan.” Phần sau Tuyết Đậu tụng rất công phu, ý của Sư cũng ở khách, cũng ở chủ, tự khá thấy vậy.

TỤNG:

Tận đại địa thị dược
Cổ kim hà thái thố
Bế môn bất tạo xa
Thông đồ tự liêu khoách
Thố! Thố!
Tỹ khổng liêu thiên diệc xuyên khước.

DỊCH:

Cả đại địa là thuốc
Xưa nay sao quá lầm
Đóng cửa xe chẳng tạo
Đường thông tự rộng thênh
Lầm! Lầm!
Lỗ mũi thấu trời cũng bị xỏ.

GIẢI TỤNG: Hai câu “cả đại địa là thuốc, xưa nay sao quá lầm”, nếu ông gọi là thuốc để hiểu thì tự xưa tự nay một lúc lầm rồi. Tuyết Đậu nói: Có một nhóm người chẳng biết cắt đứt gót chân Đại Mai, chỉ cần nói đường đi rất nhanh. Sư đã biết cắt đứt gót chân Vân Môn, vì một câu này của Vân Môn làm mê lầm người chẳng ít. Vân Môn nói: “Cây gậy là sóng, cho ông bảy dọc tám ngang, cả đại địa là sóng, xem ông vừa ra vừa vào.” Hai câu “đóng cửa xe chẳng tạo, đường thông tự rộng thênh”, Tuyết Đậu nói vì ông thông một con đường. Nếu ông đóng cửa tạo xe, mở cửa ráp bánh, giúp được việc gì? Ta trong đây đóng cửa cũng chẳng tạo xe, mở cửa tự nhiên rộng thênh. Sư ở trong đây lược bày chút ít kẽ hở khiến người thấy. Sư lại vội vàng nói “lầm! lầm!” liên tiếp, đầu trước lầm đầu sau cũng lầm. Ai biết Tuyết Đậu mở một con đường cũng lầm. Đã vậy, lỗ mũi thấu trời vì sao lại bị xỏ? Cần hiểu chăng? Hãy tham ba mươi năm ông có cây gậy ta cho ông cây gậy, nếu ông không có cây gậy, chẳng khỏi bị người xỏ lỗ mũi.

TẮC 88

HUYỀN SA BA LOẠI NGƯỜI BỆNH

LỜI DẪN: Môn đình lập bày nên thế ấy phá hai tạo ba, nhập lý thâm đàm cũng phải bảy xoi tám phủng, đương cơ gõ điểm đập nát khóa vàng cổng huyền, cứ lệnh mà hành hẳn được quét sạch dấu vết. Hãy nói lạ lùng ở tại chỗ nào? Người đủ con mắt trên đảnh mời cử xem?

CÔNG ÁN: Huyền Sa dạy chúng: “Những bậc lão túc ở các nơi trọn nói tiếp vật lợi sanh, chợt gặp ba loại người bệnh đến làm sao mà tiếp? Người bệnh mù thì đưa chùy, dựng phất tử, họ lại chẳng thấy. Người bệnh điếc thì ngữ ngôn tam-muội, họ lại chẳng nghe. Người bị bệnh câm dạy y nói, lại nói chẳng được. Phải làm sao mà tiếp? Nếu tiếp người này chẳng được thì Phật pháp không linh nghiệm.” Tăng đến hỏi Vân Môn. Vân Môn bảo: Ông lễ bái đi. Tăng lễ bái xong đứng dậy. Vân Môn lấy cây gậy chận. Tăng thối lui. Vân Môn nói: Ông không phải bệnh mù. Lại bảo: Đến gần đây. Tăng đến gần, Vân Môn nói: Ông không phải bệnh điếc. Vân Môn hỏi: Hội chăng? Tăng thưa: Chẳng hội. Vân Môn nói: Ông không phải bệnh câm. Tăng khi ấy có tỉnh.

GIẢI THÍCH: Huyền Sa tham đến chỗ bặt tình trần ý tưởng lột trần bày lồ lộ, mới biết nói thế ấy. Khi đó các nơi chùa chiền trông nhau, bình thường dạy chúng nói: “Những bậc lão túc ở các nơi trọn nói tiếp vật lợi sanh, chợt gặp ba loại người bệnh đến thì làm sao tiếp? Người bệnh mù thì dựng chùy, đưa phất tử, họ lại chẳng thấy. Người bệnh điếc thì ngữ ngôn tam-muội, họ lại chẳng nghe. Người bệnh câm dạy y nói, lại nói chẳng được. Phải làm sao mà tiếp? Nếu tiếp người này không được thì Phật pháp không linh nghiệm.” Người nay nếu khởi hiểu mù điếc ngọng câm thì dò tìm chẳng đến. Vì thế nói: Chớ nhằm trên câu chết, phải hiểu ý Huyền Sa mới được. Huyền Sa thường dùng câu này tiếp người. Có vị Tăng đã ở lâu trong hội Huyền Sa, một hôm Huyền Sa thượng đường, ông ra hỏi: Hòa thượng nói câu ba loại người bệnh, lại cho con nói đạo lý chăng? Huyền Sa nói: Cho! Tăng liền trân trọng đi ra. Huyền Sa nói: Chẳng phải chẳng phải. Vị Tăng này hiểu được ý Huyền Sa. Về sau Pháp Nhãn nói: “Tôi nghe Hòa thượng Địa Tạng thuật lại lời vị Tăng này, mới hiểu câu ba loại người bệnh.” Nếu nói vị Tăng này chẳng hội, vì sao Pháp Nhãn lại nói thế ấy? Nếu nói ông hội, tại sao Huyền Sa lại nói “chẳng phải chẳng phải”? Một hôm, Địa Tạng hỏi: Con nghe Hòa thượng có câu ba loại người bệnh phải chăng? Huyền Sa nói: Phải. Địa Tạng hỏi: Quế Sâm hiện nay có mắt tai mũi lưỡi, Hòa thượng làm sao tiếp? Huyền Sa liền thôi. Nếu hiểu được ý Huyền Sa, há ở trên ngôn cú, kia hiểu được tự nhiên thù biệt. Sau có vị Tăng thuật lại cho Vân Môn. Vân Môn liền hiểu được ý kia nói: Ông lễ bái đi. Tăng lễ bái đứng dậy. Vân Môn lấy cây gậy chận, Tăng thối lui. Vân Môn nói: Ông chẳng phải bệnh mù. Lại bảo: Đến gần đây. Tăng đến gần. Vân Môn nói: Ông không phải bệnh điếc. Bèn hỏi: Hiểu chăng? Tăng thưa: Chẳng hiểu. Vân Môn nói: Ông không phải bệnh câm. Vị Tăng ấy khi đó có tỉnh. Đương thời nếu là kẻ này, đợi Sư bảo lễ bái đi, liền lật ngược giường thiền, đâu còn thấy bao nhiêu thứ sắn bìm. Hãy nói chỗ hội của Vân Môn với Huyền Sa là đồng hay khác? Chỗ hội của hai vị đều chỉ là một loại. Xem cổ nhân ra đời tạo ngàn muôn thứ phương tiện, ý ở trên đầu lưỡi câu, cả thảy đắng miệng chỉ dạy khiến các ông mỗi người sáng một việc này. Ngũ Tổ lão sư nói: “Một người nói được lại chẳng hội, một người hội lại chẳng nói được, nếu hai người đến tham vấn làm sao biện được họ? Nếu biện hai người này chẳng được, quyết hẳn vì người gỡ niêm mở trói chẳng xong. Nếu biện được, vừa thấy vào cửa, ta liền mang giày cỏ nhằm trong bụng y chạy mấy phen rồi vậy. Vẫn tự chẳng tỉnh, còn tìm cái gì? Đi ra.” Chớ khởi hiểu mù điếc ngọng câm. Không nên so tính thế ấy, sở dĩ nói: mắt thấy sắc như mù, tai nghe tiếng như điếc… lại nói: đầy mắt chẳng xem sắc, đầy tai chẳng nghe tiếng. Văn-thù thường chạm mắt. Quan Âm bịt lỗ tai. Đến trong đây giống hệt mắt thấy như mù, tai nghe như điếc, mới hay cùng ý Huyền Sa không trái nhau. Các ông lại hiểu chỗ rơi của kẻ mù điếc câm chăng? Xem Tuyết Đậu tụng:

TỤNG:

Manh lung ám á
Yểu tuyệt cơ nghi
Thiên thượng thiên hạ
Kham tiếu kham bi.
Ly Lâu bất biện chánh sắc
Sư Khoáng khởi thức huyền ty
Tranh như độc tạo hư song hạ
Diệp lạc hoa khai, tự hữu thì.

DỊCH:

Mù điếc câm ngọng
Vắng bặt cơ nghi
Trên trời dưới trời
Đáng cười đáng thương.
Ly Lâu chẳng biện chánh sắc
Sư Khoáng đâu biết tơ huyền
Đâu bằng ngồi riêng dưới song vắng
Lá rụng hoa nở tự đúng kỳ.

Lại nói: Lại hiểu hay không? Chùy sắt không lỗ.

GIẢI TỤNG:  Hai câu “mù điếc câm ngọng, vắng bặt cơ nghi”, tột cái ông thấy cùng chẳng thấy, nghe cùng chẳng nghe, nói cùng chẳng nói. Tuyết Đậu một lúc vì ông quét sạch rồi. Cho đến kiến giải mù điếc câm ngọng, cơ nghi so tính đồng thời vắng bặt, thảy dùng chẳng được. Việc hướng thượng này nên nói thật mù, thật điếc, thật câm, không cơ, không nghi. Hai câu “trên trời dưới trời, đáng cười đáng thương”, là Tuyết Đậu một tay nâng lên một tay đè xuống. Hãy nói cười cái gì? Thương cái gì? Đáng cười là câm lại chẳng câm, điếc lại chẳng điếc. Đáng thương là rõ ràng chẳng mù lại mù, rõ ràng chẳng điếc lại điếc. Câu “Ly Lâu chẳng biện chánh sắc”, là không thể biện xanh vàng đỏ trắng, chính là mù. Ly Lâu là người ở thời Hoàng Đế, con mắt ông rất sáng, ngoài trăm bước hay thấy được vật rất nhỏ bằng sợi tóc. Hoàng Đế đi dạo trên sông Xích Thủy làm rơi một hạt châu, sai Ly Lâu tìm mà chẳng thấy, sai Khiết Cấu tìm cũng chẳng được, sau sai Tượng Võng tìm mới được. Cho nên nói: “Khi Tượng Võng đến quang xán lạn, chỗ Ly Lâu đi sóng ngập trời.” Cái này để trên cao, dù là con mắt Ly Lâu biện chánh sắc của nó cũng không thể được. Câu “Sư Khoáng đâu biết tơ huyền”, đời Châu ở Giáng Châu, con của Tấn Cảnh Công là Sư Khoáng tự là Tử Dã khéo phân biệt ngũ âm lục luật, cách núi mà nghe được bầy kiến cắn lộn. Khi ấy Tấn và Sở tranh nhau, Sư Khoáng chỉ khảy đàn cầm, vừa khảy dây đàn liền biết đánh Sở không thắng. Tuy nhiên như thế, Tuyết Đậu nói: “ông còn chưa biết tơ huyền”, người chẳng điếc lại là điếc. Cái này tiếng huyền phát từ trên cao, dù là Sư Khoáng cũng không biết được. Tuyết Đậu nói: Tôi chẳng làm Ly Lâu cũng chẳng làm Sư Khoáng, “đâu bằng ngồi riêng dưới song vắng, lá rụng hoa nở tự đúng kỳ”. Nếu đến cảnh giới này, tuy nhiên thấy dường chẳng thấy, nghe dường chẳng nghe, nói dường chẳng nói, đói thì ăn cơm, mệt thì ngủ khò, mặc tình lá rụng hoa nở. Khi lá rụng là mùa thu, khi hoa nở là mùa xuân, mỗi tự có thời tiết. Tuyết Đậu vì ông một lúc quét sạch rồi vậy. Lại phóng một tuyến nói: Lại hiểu hay không? Tuyết Đậu thần nhọc sức mệt, chỉ nói được cái chùy sắt không lỗ. Một câu này để mắt nhìn nhanh mới thấy, nếu suy nghĩ lại vượt qua rồi. Sư đưa cây phất tử nói: Lại thấy chăng? Gõ giường thiền một cái nói: Lại nghe chăng? Bước xuống giường thiền nói: Lại nói được chăng?

TẮC 89

VÂN NHAM ĐẠI BI TAY MẮT

LỜI DẪN: Khắp thân là mắt thấy chẳng đến, khắp thân là tai nghe chẳng kịp, khắp thân là miệng nói chẳng được, khắp thân là tâm soi chẳng ra. Khắp thân tạm gác lại, bỗng dưng không mắt làm sao thấy, không tai làm sao nghe, không miệng làm sao nói, không tâm làm sao soi? Nếu nhằm trong đây vạch ra được một lối đi, liền cùng cổ Phật đồng tham. Tham thì tạm dừng, hãy nói tham cái gì?

CÔNG ÁN: Vân Nham hỏi Đạo Ngô: Bồ-tát Đại Bi dùng tay mắt nhiều để làm gì? Đạo Ngô nói: Như người giữa đêm vói tay lại sau mò chiếc gối. Vân Nham nói: Tôi hiểu. Đạo Ngô hỏi: Ông hiểu thế nào? Vân Nham nói: Toàn thân là tay mắt. Đạo Ngô nói: Nói đến tột cùng chỉ nói được tám phần. Vân Nham hỏi: Sư huynh thế nào? Đạo Ngô nói: Khắp thân là tay mắt.

GIẢI THÍCH: Vân Nham, Đạo Ngô đồng tham Dược Sơn bốn mươi năm hông không dính chiếu. Dược Sơn xuất phát một tông Tào Động có ba người khiến pháp đạo thạnh hành. Dưới Vân Nham có Động Sơn, dưới Đạo NgôThạch Sương, dưới Thuyền Tử có Giáp Sơn. Bồ-tát Đại Bi có tám muôn bốn ngàn cánh tay Mẫu-đà-la. Đại Bi có lắm tay mắt, các ông lại có hay không? Bá Trượng nói: “Tất cả ngữ ngôn văn tự thảy đều xoay về chính mình.” Vân Nham thường theo Đạo Ngô thưa hỏi giải nghi, một hôm hỏi Đạo Ngô: Bồ-tát Đại Bi dùng lắm tay mắt để làm gì? Ngay ban đầu nên vì Sư nhằm xương sống mà đánh, về sau khỏi thấy có nhiều sắn bìm. Đạo Ngô từ bi không thể làm như thế, lại vì Sư nói đạo lý, cốt ý khiến Sư liền hiểu. Nói: Như người giữa đêm vói tay lại sau mò chiếc gối. Chính khi đêm khuya không có ánh sáng đèn, lấy tay mò chiếc gối. Hãy nói con mắt ở chỗ nào? Sư liền nói: Tôi hiểu. Đạo Ngô hỏi: Ông hiểu thế nào? Vân Nham nói: Toàn thân là tay mắt. Đạo Ngô bảo: Nói đến tột cùng chỉ nói được tám phần. Vân Nham hỏi: Sư huynh thế nào? Đạo Ngô nói: Khắp thân là tay mắt. Hãy nói khắp thân là phải hay toàn thân là phải? Tuy tợ bùn lầy mà lại thong thả. Người nay phần nhiều khởi tình giải nói: Khắp thân là chẳng phải, toàn thân là phải. Chỉ thiết nhai ngôn cú của cổ nhân, chết dưới lời nói của cổ nhân. Đâu chẳng biết ý của cổ nhân, ý chẳng ở trên ngôn cú, đây đều là việc bất đắc dĩ mà thôi. Như nay chú thích lập phương thức, nói: Nếu thấu được công án này liền hiểu bãi tham, rồi lấy tay mò khắp thân, mò ngọn đèn cây cột, trọn cho là hiểu được câu toàn thân. Nếu hiểu thế ấy, phá hoại cổ nhân chẳng ít. Vì thế nói: Kia tham câu sống không tham câu chết. Cần phải bặt tình trần ý tưởng, lột trần bày lồ lộ, mới có thể thấy được câu Đại Bi. Đâu chẳng thấy Tào Sơn hỏi Tăng: Khi ứng vật hiện hình như trăng trong nước thì thế nào? Tăng đáp: Như lừa nhìn giếng. Tào Sơn nói: Nói đến tột cùng chỉ nói được tám phần. Tăng hỏi: Hòa thượng lại thế nào? Tào Sơn đáp: Như giếng nhìn lừa. Thế là đồng với ý trên vậy. Nếu ông chạy trên lời nói mà thấy, hoàn toàn không thoát khỏi cái lồng bẫy của Đạo Ngô, Vân Nham. Tuyết Đậu là hàng tác gia chẳng nhằm dưới câu chết, mà nhằm trên đầu đi.

TỤNG:

Biến thân thị
Thông thân thị
Niêm lai du giảo thập vạn lý
Triển sí bằng đằng lục hợp vân
Bác phong cổ đảng tứ minh thủy.
Thị hà ai ải hề hốt sanh
Na cá hào ly hề vị chỉ.
Quân bất kiến
Võng châu thùy phạm ảnh trùng trùng
Bổng đầu thủ nhãn tùng hà khởi.
Đốt!

DỊCH:

Khắp thân phải
Toàn thân phải
Niêm ra vẫn cách mười muôn dặm
Giương cánh bằng bay lục hợp che
Cuộn gió dậy sóng nước bốn biển.
Bởi đâu bụi cuốn chừ chợt sanh
Cái gì mảy may chừ chưa dứt.
Anh chẳng thấy
Lưới châu rủ xuống bóng trùng trùng
Đầu gậy mắt tay từ đâu dấy.
Dốt!

GIẢI TỤNG: Hai câu “khắp thân phải, toàn thân phải”, nếu nói vói tay mò chiếc gối là phải, lấy tay mò thân cũng phải. Nếu khởi kiến giải thế ấy, trọn nhằm trong hang quỉ làm kế sống. Cứu kính khắp thân, toàn thân đều chẳng phải. Nếu cần lấy tình thức để thấy câu Đại Bi kia, hẳn là vẫn cách mười muôn dặm. Tuyết Đậu đùa được một câu sống, nói “niêm ra vẫn cách mười muôn dặm”. Hai câu tụng chỗ kỳ đặc của Vân Nham, Đạo Ngô nói: “Giương cánh bằng bay lục hợp che, cuộn gió dậy sóng nước bốn biển.” Chim đại bằng ăn rồng, lấy cánh cuộn gió sóng nước rẽ ra ba ngàn dặm, liền bắt rồng ăn. Tuyết Đậu nói: Nếu ông như chim đại bằng cuộn gió dậy sóng rất là hùng tráng. Nếu lấy Đại Bi ngàn tay mắt để quán, chỉ là chút ít bụi bặm chợt dấy, lại một mảy may gió chưa dừng. Tuyết Đậu nói: Nếu ông lấy tay mò thân dùng làm tay mắt, kham dùng vào việc gì? Khi ấy trên câu Đại Bi vẫn là chưa hiểu. Vì thế nói: “Bởi đâu bụi cuốn chừ chợt sanh, cái gì mảy may chừ chưa dứt.” Tuyết Đậu chính là tác gia một lúc quét sạch rồi. Đâu ngờ phần sau, như xưa ló đuôi, nói dẫn dụ, y nguyên vẫn ở trong lồng bẫy. “Anh chẳng thấy, lưới châu rủ xuống bóng trùng trùng”, Tuyết Đậu dẫn minh châu trong lưới trời Đế Thích để làm pháp tắc, hãy nói tay mắt rơi tại chỗ nào? Trong tông Hoa Nghiêm lập bốn pháp giới:

1) Lý pháp giới, để rõ một vị bình đẳng.

2) Sự pháp giới, để rõ toàn lý thành sự.

3) Lý sự vô ngại pháp giới, để rõ lý sự dung nhau lớn nhỏ không ngại.

4) Sự sự vô ngại pháp giới, để rõ một sự khắp nhập tất cả sự, tất cả sự khắp nhiếp tất cả sự, đồng thời xen lẫn không ngại.

Vì thế nói: “Một hạt bụi vừa dấy đại địa toàn thâu, mỗi mỗi hạt bụi gồm vô biên pháp giới, một hạt bụi đã vậy, các hạt bụi cũng vậy.” Lưới châu là trước Thiện Pháp Đường của trời Đế Thích dùng châu Ma-ni làm lưới, trong một hạt châu ảnh hiện trăm ngàn hạt châu, trăm ngàn hạt châu đều hiện trong một hạt châu, chiếu xen lớp lớp chủ bạn vô cùng, đây dùng để rõ về Sự sự vô ngại pháp giới. Xưa Quốc sư Hiền Thủ lập gương, đèn để dẫn dụ, treo mười tấm gương, ở giữa thắp một ngọn đèn. Nếu nhìn gương phía Đông, thì chín tấm gương, gương và đèn hiện rõ ràng. Nếu nhìn gương phía Nam, thì thấy gương gương đều như thế. Do đó, đức Thế Tôn mới thành Chánh giác chẳng rời Bồ-đề đạo tràng mà lên khắp các cõi trời, trời Đao-lợi v.v… cho đến ở tất cả chỗ, bảy chỗ chín hội nói kinh Hoa Nghiêm. Tuyết Đậu dùng lưới châu trời Đế Thích chỉ bày sự sự vô ngại pháp giới. Song nghĩa sáu tướng rất là rõ ràng: tức tổng tức biệt, tức đồng tức dị, tức thành tức hoại. Cử một tướng thì sáu tướng đều gồm, chỉ vì chúng sanh hằng dùng trong mỗi ngày mà không biết. Tuyết Đậu nêu minh châu lưới trời Đế Thích làm phương thức, để so sánh với câu Đại Bi này. Dù là như thế, nếu ông khéo nhằm trong lưới châu này, rõ được cây gậy thần thông diệu dụng ra vào không ngại, mới đáng thấy được tay mắt. Do đó, Tuyết Đậu nói: “Đầu gậy mắt tay từ đâu dấy?” Dạy ông đầu gậy chứng lấy, ngay tiếng hét thừa đương. Như Đức Sơn vào cửa liền đánh, hãy nói tay mắt ở chỗ nào? Lâm Tế vào cửa liền hét, hãy nói tay mắt ở chỗ nào? Rốt sau, tại sao Tuyết Đậu lại để một chữ “Dốt”? Tham!

TẮC 90

TRÍ MÔN BÁT-NHÃ THỂ

LỜI DẪN: Một câu trước tiếng ngàn Thánh chẳng truyền, một sợi tơ trước mặt hằng không gián cách. Lột trần bày lồ lộ, đầu tóc rối rũ, tai vảnh ngược. Hãy nói tại sao? Thử cử xem?

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Trí Môn: Thế nào là Bát-nhã thể? Trí Môn đáp: Con trai ngậm trăng sáng. Tăng hỏi: Thế nào là Bát-nhã dụng? Trí Môn đáp: Con thỏ mang thai.

GIẢI THÍCH: Trí Môn đáp: “con trai ngậm trăng sáng, con thỏ mang thai”, trọn dùng ý Trung thu. Tuy nhiên như thế, cổ nhân ý chẳng ở trên con trai, con thỏ. Sư là hàng tôn túc trong tông Vân Môn, một câu nói phải đủ ba câu: Hàm cái càn khôn, Tiệt đoạn chúng lưu, Tùy ba trục lãng, cũng chẳng cần an bài, tự nhiên vừa vặn, liền đến chỗ hiểm. Đáp lời cho vị Tăng này lược bày đôi phần mũi nhọn, hẳn là kỳ đặc. Tuy nhiên thế ấy, cổ nhân trọn chẳng chạy đùa quang ảnh, chỉ vì ông chỉ đầu đường khiến ông thấy. Vị Tăng hỏi: Thế nào là Bát-nhã thể? Trí Môn đáp: Con trai ngậm trăng sáng. Sông Hán sản xuất con trai, trong con trai có hạt châu sáng, đến Trung thu mặt trăng hiện, con trai nổi trên mặt nước hả miệng ra ngậm ánh sáng mặt trăng, cảm mà sanh ra châu, tức là châu Hiệp Phố. Nếu Trung thu trăng sáng thì châu nhiều, trăng tối thì châu ít. Tăng hỏi: Thế nào là Bát-nhã dụng? Trí Môn đáp: Con thỏ mang thai. Ý này cũng không khác, con thỏ thuộc âm, Trung thu mặt trăng mọc, nó hả miệng nuốt ánh sáng mặt trăng liền thọ thai, trong miệng sanh ra con, cũng trăng sáng thì sanh nhiều, trăng tối thì sanh ít. Chỗ đáp của cổ nhân không có nhiều việc, chỉ mượn ý kia để đáp ánh sáng của Bát-nhã. Tuy nhiên thế ấy, ý chẳng phải ở trên ngôn cú, tự là người sau chạy trên ngôn cú tìm kế sống. Bàn Sơn nói: “Tâm nguyệt riêng tròn, sáng trùm muôn tượng, sáng không chiếu cảnh, cảnh cũng chẳng còn, sáng cảnh đều quên, lại là vật gì?” Người nay chỉ trừng mắt gọi là sáng, đi trên tình giải, trong không mà đóng đinh. Cổ nhân nói: Cả thảy các ông ở cửa sáu căn ngày đêm phóng đại quang minh, chiếu phá núi sông đại địa. Không những chỉ nhãn căn phóng quang, tỹ thiệt thân ý đều phóng quang. Đến trong đây phải nhồi đập sáu căn không còn một việc, lột trần bày lồ lộ, mới thấy được chỗ rơi của câu này. Tuyết Đậu chính thế ấy tụng ra.

TỤNG:

Nhất phiến hư ngưng tuyệt vị tình
Nhân thiên tùng thử kiến Không Sanh
Bạng hàm huyền thố thâm thâm ý
Tằng dữ thiền gia tác chiến tranh.

DỊCH:

Một mảnh lặng thênh bặt nghĩ bàn
Người trời từ đó thấy Không Sanh
Trai ngậm thỏ huyền thâm ý tuyệt
Từng cùng thiền giả khởi chiến tranh.

GIẢI TỤNG: Câu “một mảnh lặng thênh bặt nghĩ bàn”, một câu này Tuyết Đậu tụng rất hay, tự nhiên thấy được ý cổ nhân. Sáu căn lặng lẽ ấy là gì? Chỉ một mảnh hư minh ngưng tịch chẳng cần chạy trên trời tìm, chẳng thiết đến người khác mà cầu, tự nhiên thường quang hiện tiền, chỗ ấy vách đứng ngàn nhẫn. Hai chữ “vị tình” ở Hán văn tức là tuyệt ngôn ngữ tình trần. Bài tụng tánh Viên Thành Thật của Pháp Nhãn nói: “Lý cực vong tình vị, như hà đắc dụ tề, đáo đầu sương dạ nguyệt, nhậm vận lạc tiền khê, quả thục kiêm viên trọng, sơn diêu tự lộ mê, cử đầu tàn chiếu tại, nguyên thị trụ cư tê (tây).” (Lý tột quên bàn nghĩ, làm sao có dụ bằng, rốt cùng trăng đêm sương, hồn nhiên rơi khe trước, trái chín vượn cùng quí, núi xa dường quên đường, ngưỡng đầu ánh sáng nhạt, vốn là ở phương Tây.) Vì thế nói: “Tâm là căn, pháp là trần, hai thứ ví như vết trên gương, nhơ nhớp hết rồi sáng mới hiện, tâm pháp đều quên tánh liền chân.” Lại nói: “Ba gian nhà cỏ từ xưa ở, một vạch thần quang muôn cảnh nhàn, chớ đem phải quấy đến ta biện, sống tạm bàn quanh chẳng dính gì.” Chỉ một bài tụng này cũng thấy “một mảnh lặng thênh bặt nghĩ bàn”. Câu “người trời từ đó thấy Không Sanh”, ngài Tu-bồ-đề ngồi yên lặng trong núi, chư thiên mưa hoa tán thán. Tôn giả hỏi: Trong không mưa hoa tán thán đó là ai? Chư thiên đáp: Tôi là Phạm thiên. Tôn giả hỏi: Tại sao ông tán thán? Chư thiên đáp: Tôi trọng Tôn giả khéo nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Tôn giả bảo: Tôi đối với Bát-nhã chưa từng nói một chữ, ông vì sao lại tán thán? Chư thiên đáp: Tôn giả không nói, tôi cũng không nghe, không nói không nghe là chân Bát-nhã. Lại rải hoa khắp nơi. Xem ngài Tu-bồ-đề khéo nói Bát-nhã, mà chẳng nói thể dụng. Nếu nơi đây thấy được, có thể thấy Trí Môn nói: “trai ngậm trăng sáng, thỏ mang thai”. Cổ nhân ý tuy chẳng ở trên ngôn cú, mà chỗ đáp vẫn có ý thâm sâu, gợi cho Tuyết Đậu nói: “trai ngậm thỏ huyền thâm ý tuyệt”. Đến trong đây “từng cùng thiền giả khởi chiến tranh”. Những kẻ học thiền thiển cận thương lượng lăng xăng, mà chưa có một người mộng thấy. Nếu muốn cùng Trí Môn, Tuyết Đậu đồng tham, phải chính mình để mắt mới được.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29905)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27184)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21776)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22239)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23618)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20433)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20058)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21951)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24761)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19004)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24775)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30991)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24001)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27772)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26531)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21341)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23236)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38154)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18809)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19997)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19057)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23184)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23894)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22824)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22935)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29598)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20650)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18719)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15852)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18868)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19695)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20170)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19963)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18130)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22964)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34192)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16432)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16930)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39274)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26091)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20111)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18865)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24077)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29156)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22909)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30974)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21020)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26870)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20680)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26272)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23347)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19832)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24693)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30052)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20240)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20416)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15152)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15845)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23917)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant