Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 10

11 Tháng Mười 201000:00(Xem: 10800)
Chương 10

CHƯƠNG 10
BỐN MƯƠI ĐIỀU LÀM TĂNG TRƯỞNG
BỒ ĐỀ TÂM CỦA MỘT BẬC BỒ TÁT 

 

10. Bốn mươi điều làm tăng trưởng Bồ Đề Tâm của một bậc Bồ Tát.

Bốn mươi điều này đều có thể khiến cho những sự tu hành thiện pháp của Bồ Tát được tăng trưởng không ngừng, chứng đạt tâm bình đẳng và chứng nhập Bồ Đề Tâm, đạt tới Bồ Đề vô thượng.

1. Bậc Bồ Tát lìa bỏ những tà thuyết tà đạo và cầu tìm những kinh điển Phật giáo chân chính, như những kinh điển về Sáu Ba la mật đa, tức là Pháp Tạng của Bồ Tát, và lúc cầu đạo tu hành như vậy, liền vứt bỏ tính kiêu mạn và giữ lòng khiêm tốn, khiêm hạ đối với tất cả chúng sinh;

2. Một bậc Bồ Tát chấp nhận những sự cúng dường quà tặng, thuận theo Phật Pháp, bằng lòng, biết vừa đủ với những gì mình nhận được, không sinh sống với những tà hạnh, tà mạng, và biết vui sống an lành trong bốn thánh hạnh. Tứ thánh hạnh là biết vừa lòng, vừa đủ với việc ăn mặc giản dị, ăn uống sơ sài, ngủ nghỉ không cần tiện nghi, tu hành thiện pháp vứt bỏ phiền não. Phấn tảo y làm lương dược để đối trị lòng ham muốn quần áo (y dục). Khất thực để đối trị với lòng ham ăn uống cao lương mỹ vị (thực dục). Thọ hạ (ngồi nghỉ dưới cây) để đối trị lòng thèm ngủ giường cao gối đẹp êm ấm (ngọa cụ dục). Và thân tâm tịch tĩnh đối trị với lòng ham muốn vật chất tài sản (hữu dục);

3. Bậc Bồ Tát không vạch trần những tội lỗi của những người khác, dù những điều ấy có đúng hay sai, có thực hay không. Bồ Tát không bới lông tìm vết, cố tìm cho ra những sơ hở khuyết điểm của người khác;

4. Mỗi khi bậc Bồ Tát cảm thấy rằng một số giáo lý Phật Pháp có vẻ khó hiểu thì bậc Bồ Tát phải nghĩ rằng Phật Pháp có những phẩm tính vô lượng, vô hạn định, vì giáo pháp được thuyết giảng tùy theo những khuynh hướng riêng biệt của chúng sinh. Chỉ có Đức Phậtthông đạt biết rõ những điều khó hiểu ấy, chứ riêng mình thì chưa đủ khả năng. Mình phải tùy thuận vào Đức Phật như là chứng tín, chứ không nên nuôi lòng trái nghịch, bất thuận và chống đối lại chánh pháp.

Còn những điều kế tiếp sau đây là những dấu hiệu nói lên tướng trạng của lòng ngay thẳng, trực tâm của Bồ Tát:

5. Bậc Bồ Tát không che giấu những điều phạm tội của mình, phải phơi bày thú nhận những điều phạm tội của mình cho kẻ khác biết để cho cõi lòng của mình được thoát khỏi những phiền muộn che đậy thắt buộc;

6. Bồ Tát chẳng bao giờ nói dối, chẳng bao giờ vọng ngữ, ngay đến phải chịu mất thân mệnh, sinh mệnh, quê hương hay quốc độ;

7. Lúc Bồ Tát gặp tai nạn nghịch cảnh bi đát, bị chửi rủa, mắng nhiếc, đánh đập, bêu xấu, trói buộc xiềng xích giam cầm hoặc bị tổn thương bằng mọi cách khác, Bồ Tát chỉ tự trách mình và khép mình chịu đựng tuân theo nghiệp báo, chớ không giận hờn thù ghét ai cả;

8. Bồ Tát giữ gìn sức mạnh của đức tin mình một cách vững chắc. Lúc nghe Phật Pháp, gặp điều gì sâu thẳm và khó tin, chính lòng trong sạch của Bồ Tát khiến cho mình có khả năng nhận lãnh thọ trì Phật Pháp, nhận lãnh thọ trì những điều thậm thâm khó tin của Phật Pháp một cách thuần thành trọn vẹn.

Kế đó là những điều, những dấu hiệu, tướng trạng chỉ tỏ lòng thiện thuận, điều thuận của Bồ Tát:

9. Bồ Tát lãnh nhận Kinh Phật với tất cả lòng tin sâu đậm ngay vào lần đầu tiên được nghe kinh và thực hành như đã được giảng dạy (tín thọ thực hành), nương tựa vào Phật Pháp, chứ không nương cậy vào những lời, những chữ (y chỉ nơi Phật Pháp, không y theo ngôn thuyết, vì ngôn thuyết chỉ là biểu tượng dụng cụ cho Phật Pháp);

10. Bồ Tát thuận theo những lời dạy đạo của Sư Trưởng, biết rõ những ý định, ý chỉ của Sư Trưởng và thưa hỏi học đạo với Thầy một cách cởi mở; bất cứ việc làm gì cũng đều thuận hợp với đức độ và thuận hợp với ý định của Thầy mình;

11. Bồ Tát không bao giờ thối chuyển trong giới luậtthiền định, chấp nhận những sự cúng dường với một tâm thức điều thuận;

12. Mỗi khi bậc Bồ Tát lại nhìn thấy một vị Bồ Tát đầy đủ đức hạnh thiện lành thì liền cung kính, ngưỡng mộ và gắng sức noi gương thực hành thiện hạnh.

Kế tiếp là những chánh đạo, những con đường chân chính cho một bậc Bồ Tát:

13. Đối xử tất cả chúng sinh một cách bình đẳng, với lòng không thiên vị và không phân biệt;

14. Giảng dạy, giáo hóa Phật Pháp cho tất cả chúng sinh với lòng bình đẳng như trên và đều đồng phát từ Trí Huệ của chư Phật;

15. Thuyết pháp cho tất cả chúng sinh mà không có tâm phân biệt kỳ thị, bình đẳng như trên;

16. Khiến cho tất cả chúng sinh đều được đồng đều an trụ trong hành động chân chính (chính hạnh).

Sau đây là những hạng người làm bạn tốt và kẻ đồng hành tốt cho một vị Bồ Tát:

17. Những kẻ nào kêu gọi một bậc Bồ Tát để cầu xin giúp đỡ, đó là những người bạn tốt (thiện tri thức) của Bồ Tát, vì họ khiến cho Bồ Tát được bước trên con đường của chư Phật;

18. Những kẻ nào có thể thuyết giảng Phật Pháp đều là thiện tri thức của Bồ Tát, vì họ trải rộng lan truyền Trí Huệ;

19. Những kẻ nào có thể làm cho kẻ khác lìa bỏ đời sống thế tục (để xuất gia) đều là thiện tri thức, vì họ làm tăng trưởng những thiện pháp;

20. Tất cả chư Phật, tất cả đấng Thế Tôn đều là những thiện tri thức của Bồ Tát, vì chư Phật khiến cho tất cả Phật Pháp được tăng trưởng phồn thịnh.

Kế tiếp theo là hạng Bồ Tát chơn thực, Bồ Tát thực sự là Bồ Tát:

21. Những hạng Bồ Tát chân thực là hạng người chẳng những hiểu tin Không Tính thôi mà cũng tin cả thuyết nghiệp báo nữa;

22. Hạng Bồ Tát chân thực biết rằng tất cả pháp đều không có tự tính mà vẫn giữ trọn lòng Đại Bi cho chúng sinh;

23. Hạng Bồ Tát chân chính yêu thích Niết Bàn một cách thâm thiết mà vẫn thong dong tiếp tục lang thang trong cõi luân hồi;

24. Hạng Bồ Tát chân chính thực hành bố thí xả thân vì lợi ích chúng sinh mà vẫn không cần báo đáp trả ơn.

Kế đó là những kho tàng quí báu vĩ đại của một Bồ Tát, những “đại tạng” của Bồ Tát:

25. Đại tạng của Bồ Tát là gặp được chư Phật;

26. Đại tạng của Bồ Tátnghe được sáu Ba la mật (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, Bát Nhã) và được nghe giảng giải về ý nghĩa siêu việt của sáu Ba la mật;

27. Đại tạng của Bồ Táttôn trọng ngó nhìn một bậc Pháp Sư với tâm vô ngại (lòng không bị chướng ngại ngăn trở);

28. Đại tạng của Bồ Tát là thích tu hành viễn ly, xa lìa thế tục với lòng không giải đãi (lười biếng, trễ biếng).

Tiếp theo là những điều khiến cho một bậc Bồ Tát vượt thắng những chướng ngại ma quái, vượt thắng những ma sự;

29. Không bao giờ lìa xa ly cách với Lòng Bồ Đề (Bodhicitta: Bồ Đề Tâm);

30. Không bao giờ mảy may giận hờn, không bao giờ có một mảy may ác cảm muốn làm hại chúng sinh;

31. Biết rõ ràng đủ loại tri và kiến (ngộ nhập Tri Kiến);

32. Không bao giờ có lòng khinh bỉ, coi nhẹ xem thường bất cứ chúng sinh nào.

Đây là những điều khiến cho Bồ Tát nhiếp được các thiện căn:

33. Tránh lìa tâm địa siểm khúc lúc sống trong sự cô độc;

34. Thực hành bốn nhiếp pháp giữa lòng chúng sinh mà không cần mong đợi bất cứ sự đền đáp ban thưởng nào (tứ nhiếp phápbố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự);

35. Tìm cầu học Phật Pháp một cách dũng mãnh tinh tiến, dù phải tan thân nát mạng;

36. Tu hành rất nhiều thiện căn mà không bao giờ biết chán.

Sau đây là những sự trang nghiêm tạo ra những phước đức vô lượng:

37. Giảng dạy Phật Pháp (Pháp thí) với lòng trong trắng thanh tịnh;

38. Có lòng Đại Bi đối với những kẻ phá giới;

39. Tuyên dương ca tụng Lòng Bồ Đề (Bồ Đề Tâm) giữa lòng chúng sinh;

40. Thực hành tu tập lòng Nhẫn Nhục mỗi khi bị hạng người thấp hèn lăng mạ mình, sỉ nhục mình tồi tệ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14849)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11909)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12827)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10414)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12136)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15355)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11167)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10607)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12531)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16512)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14386)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11861)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14875)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12109)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16943)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11637)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12794)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11411)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12133)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52340)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15552)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 14047)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11492)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13244)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12863)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13304)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17994)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12524)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12727)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54300)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14480)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9996)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13881)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 58148)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14571)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20237)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13867)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15481)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17583)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13369)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11960)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13549)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14722)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12550)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12195)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12120)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13342)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12606)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13716)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13387)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25704)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12232)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14620)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11914)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42141)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28426)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38899)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14785)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12772)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16316)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant