Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Phật ngữ

29 Tháng Tư 201100:00(Xem: 22071)
Kinh Phật ngữ

KINH PHẬT NGỮ
 Hán dịch: Tam Tạng Bồ Đề Lưu Chi - Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Quang

Tôi nghe như vầy, một thời Đức Thế Tôn trú tại Tỳ Da Ly Đại Lâm Lầu Các Thượng, cùng chúng Đại Tỳ Kheo tám nghìn vị vân tập, chư Đại Bồ Tát tám mươi bốn nghìn, lại có vô lượng nhơn chúng Hữu học và Vô học, vây quanh Đức Phật để nghe pháp.
 
Bấy giờ trong hội có một vị Bồ tát tên là Uy Đức Thượng Vương, từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa sang y phục, trịch áo bày vai hữu, gối hữu chấm đất, chắp tay hướng Phật bạch rằng: Thế Tôn, Như Lai trước thuyết Phật Ngữ Tu Đa La Chư Kinh, lại có nói rằng không phải Phật ngữ. Thế Tôn, đó là nghĩa gì? Làm sao thọ trì? Bấy giờ Phật bảo Bồ tát Long Uy Đức Thượng Vương rằng: Thiện nam tử, như ông đã hỏi, ở trong các kinh có nói Phật ngữ chẳng phải Phật ngữ, này Thiện nam tử, đó có nghĩa là không phải ngữ tức là Phật ngữ. Thiện nam tử, nên khéo suy nghĩ, hôm nay ta muốn vì ông mà trình bày. Bấy giờ Bồ tát Long Uy Đức Thượng Vương lại bạch Phật rằng: Lành thay Thế Tôn, con xin muốn nghe. Phật bảo: Thiện nam tử, nói chẳng phải ngữ tức là Phật ngữ, này thiện nam, bởi Phật ngữ ấy gọi là Thân nghiệp tối trọng, điều mà ta nói không ngoài Thân nghiệp, khẩu nghiệpÝ nghiệp, nó cũng không phải là lời nên không thể nói, cũng gọi là Vô ngôn. Thiện nam tử, nếu có sắc ngữ đều chẳng phải Phật ngữ. Long Uy Đức Thượng Vương, sắc chẳng phải ngữ, chẳng phải Phật ngữ. Thọ, tưởng , hành , thức chẳng phải ngữ cũng chẳng phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu không có sắc ngữ, không có thọ, tưởng, hành, thức ngữ thì gọi là Phật ngữ.
 
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ. Này thiện nam, nếu có các ngữ như là Đất, Nước, Lửa, Gió và Không giới thì không phải là Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu không có ngữ của Đất, Nước,Gió, Lửa và Không giới thì gọi là Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu có tham, sân, si ngữ thì không gọi là Phật ngữ. Này thiện nam, nếu không có tham, sân, si ngữ thì gọi là Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu có Hữu lậu ngữ và Vô lậu ngữ thì không gọi là Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu chẳng phải Hữu lậu, chẳng phải Vô lậu ngữ thì gọi là Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu có lời sợ hãi, như thế không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu có sự và phi sự ngữ thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu có phi sự nhưng chẳng phải phi sự ngữ thì gọi là Phật ngữ. Này thiện nam, nếu nơi tự tánh thanh tịnh pháp thượng, nói rằng được chứng đắc, đây chẳng phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu chẳng phải tự tánh, chẳng phải tha tánh thì gọi là Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu có thật ngữ, phi thật ngữ thì không gọi là Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngthật ngữ, chẳng phải không thật ngữ thì gọi là Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu có Thử ngữ, là chỗ thuyết của Phàm phu ngữ, là chỗ nói của Thánh nhơn ngữ thì không gọi là Phật ngữ. Này thiện nam, nếu khôngPhàm phu ngữ hoặc Thánh nhơn ngữ thì gọi là Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu có nội ngữ, ngoại ngữ, nội-ngoại ngữ đó không gọi là Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu không có nội ngữ, ngoại ngữ, nội-ngoại ngữ đó thì gọi là Phật ngữ. Nếu ở nơi các pháp, lời nói có chỗ y cứ ở nơi sắc, chỗ y cứ nơi thọ, tưởng, hành và thức thì không gọi lá Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu ở nơi các pháp, không sắc để y cứ, cũng không thọ, tưởng, hành, thức để y cứ, các ngữ như thế thì gọi là Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu có căn -trần-thức ngữ, là ma vương ngữ, là ma dân ngữ, không phải là Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu không có tất cả xứ ngữ đó thì gọi là Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu có sắc giác phân biệt mà nói, thọ tưởng hành thức giác phân biệt mà nói không gọi là Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu không có sắc giác phân biệt mà nói, thọ tưởng hành thức giác phân biệt mà nói thì gọi là Phật ngữ, ở nơi nghĩa này, ma và dân ma không được như thế. Lại nữa Thiện nam tử, Bồ tát nghĩa là thấy sắc vô ngã, cũng không phân biệt chẳng phải ngã sở, như thế thọ, tưởng, hành, thức vô ngã, cũng không phân biệt chẳng phải ngã sở thì gọi là Bồ tát. Bấy giờ Bố tát Long Uy Đức Thượng Vương ở trước Phật bạch rằng: Thế Tôn, theo nghĩa nào mà có ngôn thuyết? Điều gì gọi là ngôn thuyết? Phật bảo, này Thiện nam, đó là nơi đắm chấp của ma Ba tuần. Lại nữa Thiện nam tử, nếu Bồ tát thấy sắc không khởi niệm: tôi đang như vậy, với thọ tưởng hành thức cũng không khởi niệm: tôi đang như vậy, như thế Bồ tát ở nơi tất cả xứ đều Vô hữu ngữ. Long Uy Đức Thượng Vương, các Thiện nam tử, việc tối thượng là đoạn tất cả ngữ, đoạn tất cả chướng, diệt các ngã mạn, đoạn tất cả giềng mối, lìa các nhị kiến, lìa tất cả tưởng bởi chúng vô ngữ. Tại sao có lời cũng không thể nói? Bởi vì phi ngữ gọi là Phật ngữ. Thiện nam tử, do vậy đối với nghĩa này, nên biết như thế chính là Phật ngữ.
 
Thiện nam tử, nếu không phải thân, không phải thân hành; không phải khẩu, không phải khẩu hành; không phải ý, không phải ý hành; chẳng phải hành, chẳng phải phi hành; chẳng phải phỉ báng, chẳng phải không phỉ báng; không sanh, không tưởng, không xứ, không trụ, không mất; chẳng phải vắng lặng, chẳng phải hiện hành; lời nói bất động lại cũng không phải bất động, mà cũng không trụ, tự nhiên bất sanh lại chẳng phải bất sanh, đây là Phật ngữ, bởi dùng ngôn ngữ không có khả năng kia vậy, đây gọi là Phật ngữ. Thiện nam tử, Bồ tát có thể khởi lên sự quán chiếu như thế rồi, thì gọi là Học Thượng Thượng Trí Quang Minh Phật Ngữ, Thanh Lương Phật Ngữ, tràn đầy hoan hỷ tất cả chúng sinh thân, khai ngộ tất cả chúng sinh ý, hướng đến Phật trí, thọ trì nghĩa lý, khắp vui tất cả các chúng Bồ tát, rõ các sự mê lầm hay nhập pháp giới, là khéo quyết định hướng về pháp luân, chuyển bánh xe pháp, đánh pháp cổ lớn, nhiếp phục ma giới quy phục dị oán, hàng phục tất cả các chúng sinh ngoại đạo, có thể cứu hộ người ở đường ác, và hay trang nghiêm các cõi nước Phật, ắt ngồi đạo tràng, đây là chỗ khen ngợi của tất cả Phật, như thế Bồ tát đã ngồi đạo tràng, như thế mà Bồ tát đã đắc Bồ tát Đà la ni. Lúc Đức Phật thuyết ra các pháp môn Phật ngữ nầy, hiền giả Bồ Tát Thánh Long Uy Đức Thượng Vương bồ đề phần pháp đều đã đầy đủ, ngay đây đạt được Vô Sanh Pháp Nhẫn, hai vạn sáu nghìn các Bồ tát đắc Đà la ni và các Tam muội, tám nghìn Tỳ kheo đắc pháp Vô lậu, lại có các chúng sinh đều phát tâm Vô thượng bồ đề, liền dùng thần lực làm mưa các loại hoa cúng dường Thế Tôn.
 
Khi Như Lai nói Pháp môn nầy, Hiền giả Bồ tát Long Uy Đức Thượng Vương và các Đại chúng trời, rồng, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu La già v.v.. tất cả đại chúng nghe Phật nói xong rất là hoan hỷ, tin nhận phụng hành.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49725)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34618)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33441)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43915)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57043)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47559)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39414)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38468)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52927)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36593)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32235)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40455)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43475)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31441)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46703)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36195)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28690)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29226)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31883)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28807)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33356)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29122)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60975)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39747)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26665)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29653)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37359)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40080)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26831)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42645)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37273)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28281)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28891)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26389)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27159)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26180)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34623)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27798)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30469)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33275)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28555)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30060)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25484)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21841)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51284)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26715)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28617)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27696)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24345)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27452)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31918)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30177)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27695)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35430)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27435)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30003)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31763)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23012)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24176)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23013)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant