Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm thứ nhất: Như Lai Năm Hoằng Thệ Nguyện vào Trung Ấm Giáo Hóa

29 Tháng Tư 201100:00(Xem: 9079)
Phẩm thứ nhất: Như Lai Năm Hoằng Thệ Nguyện vào Trung Ấm Giáo Hóa

KINH TRUNG ẤM
Hán dịch: Sa môn Trúc Phật Niệm 
Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Quang

KINH TRUNG ẤM: QUYỂN THƯỢNG
Đời Hậu Tần, Đất Lương Châu, 

Sa môn Trúc Phật Niệm dịch từ Phạn sang Hán 

PHẨM THỨ NHẤT 
NHƯ LAI NĂM HOẰNG THỆ NGUYỆN VÀO TRUNG ẤM GIÁO HÓA

Tôi nghe như vầy

Một thời Đức Phật ở phía Bắc cách thành Ca Tỳ La Bà Đâu Song Thọ bốn mươi chín bộ. Vào ngày thứ tám lúc nửa đêm khi sao mai vừa mọc, Đức Như Lai thoáng chốc rời khỏi toái thân xá lợi, như năm pháp Hoằng Thệ của Chư Phật.

Khi Đức Phật giáng sinh thì sáu phương trời đất đều chấn động, Chư Phật mười phương đều đến phù trợ. Đây là pháp Hoằng thệ thứ nhứt.

Thế nào là sáu phương chấn động? Phương đông nhô lên thì phương tây lặn xuống; phương tây nhô lên thì phương đông lặn xuống. Phương bắc nhô lên thì phương nam lặn xuống; phương nam nhô lên thì phương bắc lặn xuống. Rồi bốn phương đồng cùng nhô lên thì hướng giữa lặn xuống; và hướng giữa nhô lên thì bốn phương đều lặn xuống.

Đương lúc Đức Như Lai vừa cất bước chân đi bảy bước thì thiên hạ rung chuyển, chư Phật mười phương đều đến phù trợ. Đây là pháp Hoằng thệ thứ hai.

Đức Như Lai đến dưới cội cây bồ đề, ngồi thế kiết già. Ngài nguyện rằng: Nếu ta không thành Phật thì sẽ không rời khỏi nơi này; lúc đó trời đất rung chuyển, chư Phật mười phương đều đến phù trợ. Đây là pháp Hoằng thệ thứ ba. 

Tên của Như Lai, Ma Ba Tuần tuy nghe mà tâm không hoảng sợ. Với thệ nguyện lực này nên trời đất rúng động, chư Phật mười phương đều đến phù trợ. Đây là pháp Hoằng thệ thứ tư.

Đức Như Lai xả thân thọ mạng, thị hiện diệt độ, vào Trung Ấm thân giáo hóa chúng sanh, lúc này trời đất rung động, chư Phật mười phương đều đến ca ngợi. Đây là pháp Hoằng thệ thứ năm.

Bây giờ Đức Thế Tôn nhập Hỏa Diệm Tam Muội, khiến cho tất cả chúng sanh trong ba cõi như Trời, Rồng, Quỷ Thần, A Tu La, Chân Đà La, Càn Thát Bà, Ca Lưu La, Cưu Bàn Trà, Phú Đơn Na, Nhơn và Phi Nhơn đều thấy đức Như Lai ngồi trên hoa sen báu.

Lúc đó đức Thế Tôn hướng về xá lợi mà nói kệ rằng: 

Ở trong vô số kiếp 
Địa chủng này nuôi ngươi 
Nay ta từ giã ngươi 
Mừng như rắn lột da 
Trong năm đường sinh tử 
Nơi nào cũng có ngươi 
Tạm thời được bỏ thân 
Tịch diệt nào tham trước 
Uy thần vào địa giới 
Ngươi không được độ sao! 
Chao ơi khổ biệt ly 
Sống chết mãi quay quần 
Oai Thần chư Phật đến 
Vô số nơi để độ. 

Khi Đức Thế Tôn nói kệ này xong, từ giữa lòng bàn chân lên đến nhục kế của Ngài phóng ra tám mươi bốn nghìn ức hào quang, soi khắp ba nghìn đại thiên thế giới, cho đến Hư Không Giới, chúng sanh trong cõi nầy đều thấy được ánh sáng, hoặc có vị tìm ánh sáng mà đến, hoặc có Chư Phật sai các Bồ Tát đến cõi Ta Bà.

Bấy giờ Đức Thế Tôn quán chiếu ở bên trong, thân Trung Ấm này rất là vi tế, chỉ riêng Phật Thế Tôn mới có thể thấy được. Cho dù chúng sanh ở bực Hữu HọcVô Học, Nhất Trụ, Nhị Trụ cho đến Cửu Trụ cũng không thể thấy được cảnh giới kia.

Ta nay dùng oai thần của Phật nhập Chiếu Minh Tam Muội, khiến cho bốn bộ chúng: Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắt và Ưu Bà Di thấy được hình thái vi tế nầy. Lúc này Đức Thế Tôn lại nhập Vô Ngại Định.

Ngài quán chúng sanh ở trong Không Giới khi sanh khi diệt, như chỗ hành cấm giới của các Như Lai, hư vô vắng lặng thì quán Bất tịnh tưởng, một trăm bảy mươi hành khổ gốc từ nhân duyên, cho đến thập nhị sanh tử trói buộc chúng sanh. Ngay đây Đức Thế Tôn bèn nói kệ rằng: 

Nay đang nhập vi diệu 
Trung Ấm hình cực vi 
Hóa độ chúng sanh kia 
Hơn ở Diêm Phù Đề 
Thường tướng – Vô Sở trước 
Lạc tướng – không vô định 
Kiến lập nền đạo đức 
Lìa trần không tham đắm 
Vốn từ vô số kiếp 
Cứu người khó độ kia 
Hà huống Trung Ấm thân 
Không gì khó hơn cả 
Nay ta tâm nguyện lớn 
Chẳng loạn, chẳng nhiễm ô 
Gốc bồ đề đạo đức 
Pháp phạm hạnh viên toàn. 

Bây giờ Đức Thế Tôn nói kệ này xong, lại phóng ánh quang từ tướng lông trắng giữa chặn mày, chiếu khắp vô lượng vô hạn ức thế giới của Đông phương, Nam phương, Tây phương và Bắc phương, và rồi Ngài hoàn nhiếp lại ánh sáng, ánh sáng ấy xoay quanh Phật bảy vòng rồi nhập vào nhục kế.

Thế rồi Đức Bồ Tát Di Lặc từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu và quỳ xuống, chắp tay trước ngực bạch Phật rằng: Hay thay, Đức Thế Tôn. Đây là điều chưa ai từng nghe, chưa ai từng thấy. Chúng sanh Trung Ấm thể chất rất vi tế, thọ mạng dài ngắn ăn uống tốt xấu … các loại ấy ra sao, chúng con xin muốn được nghe. Đức Thế Tôn bèn bảo rằng: Lắng nghe cho kỹ và khéo suy nghĩ, ta nay phân biệt rõ ràng cho Ông. 

Thế nào Di Lặc? Ở cõi Diêm Phù Đề đứa trẻ khi mới lọt lòng, người mẹ bồng ẵm cho bú sữa mình đến khi ba tuổi, hết bao nhiêu sữa? Di Lặc đáp rằng: Uống đến một trăm tám mươi hộc sữa. Ngoài ra, khi còn trong bụng mẹ đã được nuôi dưỡng bằng huyết phần của mẹ rồi.

Cõi Đông Phất Vu Đãn đứa bé khi vừa ra đời cho đến lên ba, uống đến một nghìn tám trăm hộc sữa.

Cõi Tây Câu Da Ni đứa trẻ khi vừa mới ra đời cho đến lên ba, uống đến tám trăm tám mươi hộc.

Cõi Bắc Uất Đan Viết đứa trẻ khi vừa mới lọt lòng thì ngồi được, nhiều người đi đường đưa đầu ngón tay vào miệng đứa bé cho nó bú; bảy ngày sau đứa bé trưởng thành, cõi này không có sữa, chúng sanh Trung Ấm nương làn gió để uống ăn.

Thọ mạng của chúng sanh ở cõi Diêm Phù Đề là một trăm tuổi. Cõi Đông Phất Vu Đãi là năm trăm tuổi. Cõi Tây Câu Da Ni hai trăm năm mươi tuổi cõi Uất Đan Viết là một nghìn tuổi. Thọ mạng của thân Trung Ấm chỉ có bảy ngày. Nhân diện (khuôn mặt) của châu Diêm Phù Đề là trên rộng dưới hẹp (hình trái lê). Châu Phất Vu Đãi thì mặt tròn. Châu Câu Da Ni trên hẹp dưới rộng, và châu Uất Đan Viết thì mặt chữ điền. Diện mạo của chúng sanh Trung Ấm như Hóa Tự Tại Thiên. Ở cõi nầy danh hiệu của Phật Thích Ca Mâu Ni đã hoàn toàn diệt mất.

Đức Diệu Giác Như Lai xuất hiện ở đời, đầy đủ mười danh hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Ở giữa hư không Ngài ngồi trên hoa sen báu, phóng ánh sáng của tướng lưỡi soi thấu tám mươi bảy ức hằng hà sa số cõi Đông phương. Nước này có tên là Hóa, Phật hiệuKiên Cố, Ngài dùng Nhứt Thừa giáo hóa chúng sanh. Đức Phật nhìn thấy ánh sáng mới bảo các Bồ Tát cùng các quyến thuộc rằng: Các ông có thấy ánh sáng này không? Các vị Bồ Tát trả lời: Chúng con đã thấy. Bạch Thế Tôn chúng con không rõ ánh sáng này là quang minh của đức Phật nào chiếu đến thế giới này. Đức Phật lại bảo rằng: Cách cõi Tây Phương tám mươi bảy ức hằng hà sa sốthế giới tên là Bà Ha, Phật hiệuThích Ca Mâu Ni, nay tạm diệt độ xả thân xá lợi, muốn vào Trung Ấm giáo hóa. Đây là ánh sáng của đức Phật Diệu Giác. Các ông muốn đến cõi đó chính là đúng lúc.

Bấy giờ một trăm ba mươi ức các vị Bồ Tát ở cõi nước kia nghe theo lời dạy của đức Phật đi đến cõi Bà Ha. Đức Phật lại căn dặn: Các ông đến nước kia rồi nên làm lễ, cúng dường chớ có biếng nhác kiêu ngạo. Cho ta gởi lời thăm sức khỏe và sự hoằng hóa của Ngài. Chư Bồ Tát thụ giáo rồi lễ dưới chân Phật, hữu nhiễu bảy vòng đột nhiên không thấy Phật nữa mà lại đã đến Thế giới Bà Ha.

Cách cõi Nam Phương tám mươi bảy ức hằng hà sa số, có thế giới tên là Giải Thoát. Đức Phật hiệu là Chơn Tịnh Như Lai, đầy đủ mười hiệu. Ngài bảo các Bồ Tát: Các ông có thấy ánh sáng này không? Các Bồ Tát đáp rằng: Chúng con đã thấy. Thưa không biết ánh sáng này là quang minh của đức Phật nào chiếu đến thế giới chúng ta? Đức Phật kia bảo: Cách cõi Bắc Phương tám mươi bảy ức hằng hà sa sốthế giới Bà Ha, đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Nay đang dùng diệt độ bỏ thân xá lợi, muốn vào Trung Ấm giáo hóa. Đó là ánh sáng của đức Diệu Giác Như Lai, nay chính là lúc các ông muốn đến cõi đó. Bấy giờ một trăm ba mươi ức Bồ Tát ở cõi Giải Thoát vâng lời dạy đến cõi Bà Ha. Đức Phật căn dặn rằng: Ông đến cõi đó thân cận cúng dường đừng nên biếng nhác, kiêu ngạo. Cho ta gởi lời thăm hỏi sức khỏe và công việc hoằng hóa của đức Diệu Giác Như Lai. Bồ Tát vâng lời rồi lễ quanh hướng hữu bảy vòng dưới chân đức Như Lai, bổng nhiên không thấy Đức Phật, mà đã đến được Thế Giới Bà Ha.

Cách cõi Bắc Phương tám mươi bảy ức hằng hà sa số, có thế giới tên là Lưu Ly. Đức Phật hiệu là Lôi Âm Như Lai, đầy đủ mười hiệu. Ngài bảo các Bồ Tát: Các ông có thấy ánh sáng này không? Chư Bồ Tát trả lời: Chúng con đã thấy, không biết ánh sáng này là quang minh của đức Phật nào chiếu đến thế giới nầy? Đức Phật kia bảo: Cách cõi Nam Phương này tám mươi bảy ức hằng hà sa số, có thế giới tên là Bà Ha, Phật hiệuThích Ca Mâu Ni, hiện Ngài đang dùng tướng diệt độ xả thân xá lợi, muốn vào Trung Ấm giáo hóa, đây là ánh sáng của đức Diệu Giác Như Lai, nay chính là đúng lúc các ông muốn đi. Bây giờ một trăm ba mươi ức Bồ Tát ở cõi Lưu Ly, vâng lời dạy của Phật đến cõi Bà Ha. Đức Phật căn dặn: Các ông đến cõi đó làm lễ cúng dường đừng nên biếng nhác, kiêu ngạo. Cho ta gởi lời thăm hỏi sức khỏe và công việc hoằng hóa của đức Diệu Giác Như Lai. Bồ Tát nghe xong lễ quanh hướng hữu bảy vòng dưới chân đức Phật, đột nhiên không thấy Ngài nữa, mà đã đến Thế Giới Bà Ha

Cách cõi Đông Bắc Phương tám mươi bảy ức hằng hà sa số, có thế giới tên là Không Tịnh, đức Phật hiệu là Hư Không Tạng, đầy đủ mười hiệu, có một trăm ba mươi ức Bồ Tát.

Cách cõi Đông Nam Phương tám mươi bảy ức hằng hà sa số, có thế giới tên là Sí Nhiên, đức Phật hiệu là Quảng Hiển Như Lai, đầy đủ mười hiệu, có một trăm ba mươi ức Bồ Tát.

Cách cõi Tây Nam Phương tám mươi bảy ức hằng hà sa số, có thế giới tên là Tinh Tú, đức Phật hiệu là Nguyệt Quang Như Lai, đầy đủ mười hiệu, có một trăm ba mươi ức Bồ Tát.

Cách cõi Tây Bắc Phương tám mươi bảy ức hằng hà sa số, có thế giới tên là Hoại Ma, đức Phật hiệu là Dũng Mãnh Phục Như Lai,đầy đủ mười hiệu, có một trăm ba mươi ức Bồ Tát.

Cách cõi Thượng Phương tám mươi bảy ức hằng hà sa số, có thế giới tên là Hải Tích, đức Phật hiệu là Thượng Diệu Như Lai, đầy đủ mười hiệu, có một trăm ba mươi ức Bồ Tát.

Cách cõi Hạ Phương tám mươi bảy ức hằng hà sa số, có thế giới tên là Thông Đạt, đức Phật hiệu Vô Uý Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Ngài bảo các Bồ Tát: Các ông có thấy ánh sáng này không? Chư Bồ Tát đáp: Chúng con đã thấy, không biết ánh sáng này là quang minh của đức Phật nào? Đức Phật kia bảo: Cách cõi Thượng Phương tám mươi bảy ức hằng hà sa sốthế giới tên là Bà Ha. Đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni nay đang dùng diệt độ xả thân xá lợi, muốn vào Trung Ấm giáo hóa, đây là ánh sáng của đức Diệu Giác Như Lai, đây là đúng lúc các ông muốn đi. Có một trăm ba mươi ức Bồ Tátcõi Phật kia, vâng lời của đức Phật mà đến thế giới Bà Ha. Đức Phật lại căn dặn rằng: Các ông đến cõi nước kia làm lễ cúng dường chớ nên biếng nhác, kiêu ngạo. Cho ta gởi lời thăm hỏi sức khỏe và công việc hoằng hóa đến đức Diệu Giác Như Lai. Chư Bồ Tát nghe xong lễ quanh hướng hữu bảy vòng dưới chân đức Phật, bỗng nhiên không thấy Ngài nữa, mà đã đến được Thế Giới Bà Ha. Thế rồi Chư Bồ Tát đảnh lễ cúng dường đức Diệu Giác Như Lai. Làm lễ xong mỗi vị đều ngồi về một hướng.

Bấy giờ Đức Diệu Giác Như Lai bèn phóng tướng lưỡi dài rộng đẹp như hoa sen - đỏ như hoa Ưu bát qua bên trái bên phải của lỗ tai ngài. Ngài thuyết: Ta đã từ vô số a tăng kỳ kiếp, thực hành hạnh thanh tịnh không có hư dối. Chúng sanh mà Ta đã độ nhân duyên đã xong, như bỏ thi hài giữa cánh đồng hoang. Nay lại gây duyên và lập hạnh đầu, hiện Bồ Tát ở đây có lập hạnh đắc lực, có vị sơ phát, lại có bốn chúng chưa từng lập hạnh, đang nhờ oai thần Phật lực tiếp dẫn, khiến cho đại chúng biết được quá khứ, tương lai cùng hiện tại. Pháp của Chư Phật hiếm có không thể luận bàn. Nói xong, Ngài liền thuyết kệ rằng: 

Người nhiều đời ngu muội 
Chẳng vào vô lậu pháp 
Quanh quẩn trong năm đường 
Nhiễm ô không tịnh hạnh 
Ta tuy ở cõi này 
Dứt sạch năm dục khổ 
Lành thay xưa chỗ nguyện 
Ngày nay đã hoàn thành 
Như người phun nước bọt 
Bậc trí uống được sao 
Ta từ vô số kiếp 
Tu hạnh thanh tịnh Phật 
Bỏ thân rồi thọ thân 
Nào một kiếp hoặc hai 
Nếu có người sáng trí 
Vẽ Xá lợi trên đất 
Thì còn thấy hình Ta 
Có người không giải thoát 
Đêm dài sanh tử mãi 
Sống ngu theo năm đường 
Đoạn diệt không còn đường 
Cầu Phật chứng Nê Hoàn 
Xưa hiệu Thích Ca Văn 
Xá lợi thân lưu hóa 
Nay ta vào không giới 
Trung Ấm độ mọi loài 

Khi Đức Thế Tôn nói kệ này, tám vạn bốn nghìn na do tha chúng sanh đều nhàm chán sanh tử, cùng phát tâm vô thượng bồ đề, và có bảy mươi ức chúng sanh, các trần cấu đã sạch và đắc pháp nhãn tinh. Bảy nghìn vạn chúng của Bồ Tát Ma Giới, bèn từ chỗ ngồi đứng dậy sửa sang y phục, chắp tay rồi lui ra.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19873)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28988)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20697)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19456)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30526)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36457)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33249)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35584)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21004)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21931)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25275)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25813)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31277)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18577)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25155)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23786)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28957)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20886)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31462)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25557)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29731)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22535)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25735)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23302)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25757)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23738)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40620)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23360)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22470)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22105)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23519)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16973)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23298)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24325)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41122)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19010)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20506)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27740)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38135)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34089)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36808)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24022)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29212)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60177)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27631)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68761)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24545)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24512)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22733)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26385)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26558)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20832)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20081)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27582)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46466)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53597)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23624)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21108)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25605)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29292)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant