Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm thứ tám: Ba đời bình đẳng

29 Tháng Tư 201100:00(Xem: 8997)
Phẩm thứ tám: Ba đời bình đẳng

KINH TRUNG ẤM
Hán dịch: Sa môn Trúc Phật Niệm 
Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Quang

KINH TRUNG ẤM: QUYỂN HẠ 

PHẨM THỨ TÁM 
BA ĐỜI BÌNH ĐẲNG 

 Bấy giờ trên tòa có Bồ Tát tên là Bất Yếm Hoạn Kiếp, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai hữu, gối hữu chấm đất, chắp tay quỳ trước Phật bạch rằng: Thần lực tối thắng của Như Lai vô cùng vi diệu không thể suy lường. Như Lai thần đức lưỡi rộng và dài, không phạm lỗi lầm như chúng sanh. Nay đây, ba loại chúng sanh quá khứ, tương lai và ngay bây giờ, Ngài vì chúng sanh quá khứ hay vì chúng sanh tương lai và hiện tại?

Bấy giờ ĐứcThếTôn bảo Bồ Tát Bất Yếm Hoạn Kiếp rằng: Lành thay, lành thay! Chỗ hỏi của ông đối với ba loại chúng sanh được nhiều lợi lạc, nhiều sự thấm nhuần và dứt được gốc vô minh, thân nghiệp được thanh tịnh, chẳng phải chỉ có Phật mới nói.

Lúc này Đức Thế Tôn bèn nói kệ rằng:

Người, lúc ở trong thai
Tự bìết túc mạng mình
Bỏ kia nay thọ đây
Ba đời rõ như thế
Thức trước khác thức này
Thân trước khác thân này
Chỉ vì ngu lầm mê
Chẳng biết vào cửa đạo
Ở bốn sử, niệm này
Phát khởi bao nhiêu vọng
Than ôi già-bệnh-chết
Chìm đắmba đời.

Thế rồi Đức Thế Tôn muốn giải thích nghĩa đó liền nói kệ tiếp:

Ta vốn không sắc này
Thọ- tưởng- thức cũng vậy 
Ta không, kia cũng không
Nào có thọ- tưởng-thức
Không sắcsắc pháp
Pháp loạn tưởng chúng sanh
Chín phẩm thì sai biệt
Phân biệt pháp ba đời:
Thượng thượng pháp tối diệu
Không quá khứ vị lai
Thượng trung rất tế vi
Thượng hạ vô giác quán
Trung thượng đoạn ba kiết
Trung trung diệt ba trần 
Trung hạ thoắt nhiên ngộ
Đây gọi là Phật Tử 
Hạ thượng tuy là nặng 
Song như bọt nước kia 
Thoạt nổi lại thoạt chìm 
Hạ trung các hữu tình 
Khổ vốn rất sâu nặng 
Ngoài ta ai thấu hiểu 
Hạ hạ hàng chúng sanh 
Đi qua nhiều kiếp khổ 
Ta hóa độ loài kia 
Chẳng còn Phiền não nữa 
Có bao nhiêu tâm người 
Ngồi trên tâm không ngộ 
Hoặc nguyện Phật tương lai 
Hay cầu Ngài hiện tại 
Các loại chúng sanh này 
Khó mà tế độ được 
Nhân sinh vốn không hình 
Nơi trở về hư không 
 Sống chết cùng vần xoay 
Niết Bàn, là gì nhỉ? 
Nếu cho có hữu tình 
Thân-miệng-ý làm lành
Tịch nhiên vào dìệt độ
Già-bệnh-chết nào còn 
Một lòng phát thệ rộng 
Cũng chẳng vì tự mình 
Hư không, không nắm được 
Hư-thực nào có tên 
Như Lai tiếng phạm thiên 
Phân biệt pháp thật tướng 
Thấu rõ tuệ không-vô 
Đấng độc hành ba cõi 
Hữu giác: pháp không ý 
Quán thân nào đắm luyến
Vô giác: ở ba thiền
Tiến vào đường bất thối 
Khi thành Phật đến nay 
Lấy đó làm bổn nghiệp 
Thành Phật cũng nhờ đây 
Niết Bàn nào khác đó 
Bởi siêng tạo công đức 
Chưa đạt vào tướng thật
Nghe tứ, không lìa tứ 
Các Phật ấn là đây.

Đương lúc Đức Thế tôn nói xong kệ này, tất cả chúng sanh nhiều không thể tính kể, và Ngũ Sắc Thức Trung Ấm, chúng sanh Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng muốn đắc pháp Lìa Bỏ Ba Đời Không Vui.

Lúc này Đức Thế Tôn nói lại kệ rằng:

Quá khứ chẳng có đây 
Hiện tại cũng vậy thôi 
Đức Di Lặc tương lai 
Giáo hóa nào sai khác
Ta chỉ nói mảy may 
Như bụi trên móng tay 
Muốn nói hết cõi giới 
Ai người thấu hết đây
Nay đang ở Trung Ắm
Dời đến Vô Tưởng Thiên 
Địa ngục người chịu khổ 
Nghe Pháp được ngộ liền.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bèn dung thần lực đưa chúng sanh Trung Ắm đến cõi trời Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng Xứ Thức. Lúc này Đức Thế Tôn cũng dung thần lực đến đó. Khi đến cõi Phi Tưởng,Phi Phi TưởngThức rồi, Ngài bèn dựng lên một tòa cao bằng bảy báu trang nghiêm đều có Hóa Phật. Mỗi mỗi Hóa Phật đều có bốn chúng, mỗi mỗi chúng thảy đều thành tựu phép tắc uy nghiêm. Trong chúng sanh này có người tụng kinh thuyết nghĩa, hiền thánh im lặng,hoặc có vị nhập định, xuất định.

Thế rồi Đức Diệu Giác Như Lai lại dung Thần Túc Thập Lực tiếp độ chúng sanh Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng Thức kia như Trung Ấm thân không sai khác.

Bấy giờ Đức Thế Tôn dùng oai nghi phép tắc như thông lệ của chư Phật, khiến cho vô lượng Hoá Phật hiệp làm một Phật, hoặc dùng một thân hóa ra vô lượng, hoặc ở dưới cây diễn nói giáo pháp, hoặc nhập sơ thiền, định ý bất loạn, hoặc ở núi cao một mình thiền định, hoặc ngồi nơi vắng vẻ xuất ra mười tám thân biến: dưới thân ra lửa, trên thân ra nước, trên thân ra lửa, dưới thân ra nước. Trời đất nếu không thì không có quái ngại. Hoặc hiện diệt độ mà không diệt độ. Hoặc hiện ra thân thể vô thường như thịt trương lên thối nát, như xác bồ câu trắng. Hoặc hiện ra tay chân đều ở chỗ khác.

Lúc này chúng sanh Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng Thức thấy sự thay đổi này trong lòng hoảng sợ tự mình sanh tâm bảo rằng, hẳn là Niết Bàn thì không bệnh, không già, không có các sự thống khổ. Nay xem ra pháp này có sinh, có già, có bệnh, chết khổ. Giờ gặp Như Lai giáng thần tại đây nếu không thuận theo các tướng trên thì không chọn địa ngục mà vào, tức là vào ngôi nhà của Ta, Ta vốn quá khứ cùng người kia đâu có khác. Đời trước thức kia là A Nan Đà Già Lan Đà, thấy Phật lễ bái: “Lành thay Thế Tôn! Không gì tôn quí hơn là giáng thần cõi này, như gặp hoa ưu đàm bát la, nếu Phật không giáng thần ở đây chúng con ở mãi nơi chốn biên địa, sát hại vô lượng thân Già Lan Đà”. Lại tự tuyên bạch: “Nay gặp Đại Thánh như mặt trời làm tan hết tuyết, nếu không gặp ngài, Kẻ đó sẽ đọa làm thân con chồn bay nhảy rất hại, nào có thoát nghiệp, dùng bổn nguyện này được thoát khỏi khổ. Cõi hư không vô lượng, đấng Uy Đức ba cõi. Hàng Bích Chi Thanh Văn chỉ thấy được bằng con mắt giới hạn”.

Lúc này thức Già Lan Đà bèn khởi niệm: chúng ta đồng sinh, sinh ở cõi thức này tội phước chưa phân, hoặc đọa tà kiến làm thân con phi li. Ta vốn thọ thân không chỉ ba cõi, khi ở thân Trung Ấm Ngũ SắcVô Sắc đã phát khởi ý nghĩ này: Các thức Phi Tưởng đều sống với tâm khổ não. Bọn chúng ta tuy sanh chỗ này nhưng chẳng được Niết Bàn, Chẳng phải là nơi an ổn.Nay gặp Như Lai nói pháp chân thật, chặt đứt nghìn vạn cửa, không đến cũng không đi, tham dục gốc sanh ngã, nay ta lại diệt nó là vượt qua vô minh kiết sử đời nay và đời sau, có sanh và có khổ, già, bệnh, như bóng lại có hình, như ánh trăng, cây lá…bóng rọi trên sông nước, như loài chó hoang ăn thức ăn hoàn toàn chẳng ra gì.

Ta nay là Phật ba đời pháp thì vừa có, vừa không, giáo hoá vốn không thay đổi, sanh vốn chẳng có sanh, hay thay phép mầu nhiệm khó độ mà độ được, kẻ ngu khờ thế gian cho Ta là chân thật, ngay khi bỏ mạng này còn đâu thân của Ta. Phân biệt trong thân kia đâu là mạng hay thọ, sống chết khổ lụy phiền, vứt đó rồi thọ đây, khổ nóng lạnh trong thai, chào đời lo sống chết, mẹ thì vui nuôi ta, không sanh ai có nạn, nổi chìm như bọt nước, thần thức luyến thân kia, xoay vần trong năm nẻo, đã đến chỗ buộc ràng, biển tử sanh năm đường, không đến cũng chẳng đi. Tâm là gốc hại thân, người hết “ngã” nạn đâu? Hư không nào gốc ngọn, sao biết thường, vô thường. Như thức Vô Tưởng kia, thấy thức Già Lan Đà, một làm vua Biên Địa, một làm loài Hóa Sanh, ba cõi rất là khổ, nơi đây không Niết Bàn, như đi giữa đồng trống, chỉ đông cho là tây, nơi tất cả các khổ, đều đạt được giải thoát.

Bấy giờ chúng sanh Phi Tưởng, Phi Vô Tưởng Thức bèn ở trước Phật tìm lời rồi nói kệ:

Xưa con thờ Ngũ Hỏa 
Nướng đốt thân thể đen 
Nằm ở trên gai góc 
Thân khoác áo sọ người 
Vắt chân lên Nhật Nguyệt 
Thờ cúng hết thảy thần 
Nay làm Phi Phi Tưởng 
Được thấy thân Như Lai 
Xấu hổ việc làm xưa 
Nơi đây nào thoát được 
chánh pháp giáo hóa 
 Như Lai tự giáng thần 
Được thoát chẳng vọng tâm 
Ở hẳn nơi an ổn 
Năm dục, sanh tử cấu 
Trói buộc ở bốn dòng 
Tâm luyến mê ba cõi 
Lửa trí huệ đốt trừ 
Bốn quả-chúng sanh tu 
Nào thấy sanh gốc ngọn 
Mê thức chúng con là 
Như con nay không khác.

Lúc này Đức Diệu Giác Như Lai lại dung kệ trả lời rằng:

Các người vốn là chơn 
Hơn tám vạn kiếp qua 
Bởi tử sinh vô thường 
Chết kia rồi sống đây 
Loài hữu tình các ông 
Chưa từng già bệnh chết

Chỉ mong cầu Niết Bàn 
Đâu phải chân thật pháp 
Trần dứt thức chưa diệt 
Trở lại cõi tam đồ 
Ngoài ta ngươi không ngộ 
Ai cứu được khổ đây 
Ta từ vô lượng kiếp 
Thề độ lão, tử, sanh 
Đâu phải nghiệp tiền thân 
Hay hậu thân phải chịu 
Vốn được kim cương định
Nay mới giáo hóa ngươi 
Đất chẳng thể làm trời 
Trời làm đất sao được 
Nước không thể ra lửa 
Lửa làm nước được đâu 
Hết thảy kẻ ngu mê 
Thì vạn loài có ngã 
Ngu si không rõ pháp 
Cho là đạo chánh chơn 
Như người kia mỏi mệt 
Trong chốc lát nghỉ ngơi 
Dầu sống tám vạn tư 
Như một ngày trước mắt 
hữu tình năm khổ 
Không có ngã, chỗ nào?

Phân biệt pháp-tướng thân 
Phân biệt không-vô pháp 
Sanh thì chẳng thấy sanh 
Chết nào đâu thấy 
Điều căn bổn tử sanh 
Do việc làm đã tạo 
Ba ác đạo luân hồi 
Bệnh si là nguồn cội 
Danh sắc, lục nhập pháp 
Đây là thói của đời 
Xúc nhập cùng sắc pháp 
Ái nhập thêm khoái cảm 
Mê hoặc của mọi loài 
Mười hai duyên chẳng hiểu 
Như thiêu thân vào lò 
Đức Diệu Giác nói rằng 
Nếu ngươi cấu trần nặng 
Thì ta cấu tâm nặng 
Thành thân Phật như ta 
Trãi qua không ngằn cõi 
Tâm cấu nặng phá tan 
Phân rành tưởng-chẳng tưởng 
Căn nguyên kiết sử là 
Không thường bảo là thường 
Chuốt khổ nói là vui 
Suy không cho là có 
Vô ngã lấy làm ngã 
Loài Tưởng-Phi Tưởng 
Tập điên đảo lâu ngày 
Như thiêu thân ham lửa 
Nạn thân, không tránh được 
Lầm mê rớt sáu đường 
Sanh Trời Phi Tưởng này 
Tựa như đốn phứt cây 
Gốc còn, cây sống lại 
Bốn đảo điên mê lầm 
Chứa mầm vô minh cả 
Cửa cam lồ nay mở 
Phật đạo vốn chơn như 
Căn bổn khổ dứt trừ 
Hết hẳn không còn dư 
Dòng biển dài bốn sử 
Sanh sanh, sanh không ngừng 
Ta nay tung ba cõi 
Và đến bên kia bờ 
Nơi bình yên-vô úy.

Bấy giờ khi đức Thế Tôn nói kệ này xong, chúng sanh Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng Thức đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ở Vô Dư Niết Bàn và không rời Niết Bàn. Hoặc có người muốn sanh Thiên thì Ngài nói pháp Thập Thiện. Nếu muốn sanh trong cõi Người, Ngài vì họ nói Ngũ Giới, hoặc người hướng đến Ba Ác Đạo thì Ngài nói về các loại sau đây: núi đao, cây kiếm, xe lửa, lò than…ba trăm ba mươi sáu ức vô số người chán sợ kiếp sống, nghe pháp Thanh Tịnh liền thành đạo quả.

Lúc này Đức Thế Tôn lại dung thần túc Thập Lực Vô Úy đưa chúng sanh Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng Thức kia cùng đến cõi chúng sanh Ngũ Sắc Thức. Ngài chỉnh đốn đạo thọ, trang nghiêm cõi nước, phóng ánh sáng lớn. Mỗi mỗi ánh sáng đều có Hóa Phật, mỗi mỗi Hóa Phật đều ngồi trên tòa cao bảy báu, đủ ba mươi hai tướng hảo, nói về lục độ không cùng.

Chúng sanh Ngũ Sắc kia thấy Như Lai biến hóa, tâm Phiền não trói buộc thoáng chốc trừ sạch, không còn thích muốn ràng rịt sanh tử,

Thế rồi Đức Thế Tôn dùng phạm âm thanh tịnh mà nói kệ rằng:

Khổ, từ sanh tử oán 
Dùng phương tiện trừ đi 
Tứ đẳng, đại bi tâm 
Vượt qua vô lượng cõi 
Nay kẻ lợi căn này 
Mới nghe không dám thọ 
Thấy Phật tướng, sắc thân 
Thảy nhập tịch, diệt độ 
Mới hay đạo thánh hiền 
Khó nghĩ bàn vô lượng 
Diệt cấu chẳng còn sanh 
Đạo thánh hiền nào khác

Ngay khi Đức Thế Tôn nói kệ này xong, vô hạn vô lượng chúng sanh Ngũ Sắc Thức thảy đồng một hiệu ở đời tương lai, hiệu Phổ Quảng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19863)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28976)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20694)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19446)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30506)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36432)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33238)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35577)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20993)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21926)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25263)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25801)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31270)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18566)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25147)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23777)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28947)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20873)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31448)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25553)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29725)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22530)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25725)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23289)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25754)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23729)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40617)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23356)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22455)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22104)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23515)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16972)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23290)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24319)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41112)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19001)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20495)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27731)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38131)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34082)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36794)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24007)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29201)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60167)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27627)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68753)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24542)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24504)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22721)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26376)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26552)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20827)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20069)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27557)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46449)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53589)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23618)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21100)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25590)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29274)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant