Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

6. Xuân Miên Viễn

29 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11328)
6. Xuân Miên Viễn

BƯỚC ĐẦU TRÊN CON ĐƯỜNG THIỀN
HT Thích Thanh Từ

XUÂN MIÊN VIỄN

Hôm nay là ngày đầu năm, tôi chúc tất cả Tăng NiPhật tử hưởng một mùa xuân miên viễn. Muốn hưởng một mùa xuân miên viễn, chúng ta phải làm sao, và tiếp nhận những gì? Sau đây là những yếu tố cần phải có để hưởng một mùa xuân miên viễn. Thông thường người đời đều thừa nhận một năm có bốn mùa là Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mùa xuân khí hậu ấm áp, cây cối đâm chồi nẩy lộc, và mọi người đều vui tươi, tất cả hạnh phúc, con người coi như có sẵn trong mùa xuân. Song, mùa xuân theo thời gian thì dài lắm là ba tháng; hết xuân tới hạ, tới thu, tới đông. Cho nên cái vui của con người chỉ ngắn ngủi trong một lúc rồi hết. Sang mùa hạ thì nóng bứt, mùa thu thì buồn tẻ, mùa đông thì rét mướt. Do đó, đối với người tu chúng ta không chấp nhận cái vui ngắn ngủi của mùa xuân năm tháng, mà cần có cái vui mãi mãi không lệ thuộc thời gian. Mùa xuân mà tôi muốn nói hôm nay là mùa xuân miên viễn, chứ không phải mùa xuân của thời tiết. Vậy, chúng ta tu thế nào để hưởng được một mùa xuân miên viễn; và mùa xuân miên viễn đó nó phát nguồn từ đâu?

Trở về nguồn, thì chính Đức Phật Thích Ca là người đã hưởng trọn vẹn mùa xuân miên viễn và cũng chỉ cho tất cả chúng sanh một mùa xuân miên viễn, và gần hơn là Tổ Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ sang Trung Hoa, gieo rắc mùa xuân ấy nơi lòng mọi người tu. Sau đây, tôi dẫn chuyện các Thiền sư cho quý vị nghe, để thấy mùa xuân miên viễn đó thể hiện trong tâm hồn những người đã sáng được lý đạo và sống được với đạo như thế nào?

Trước tiên tôi dẫn câu chuyện một vị tăng hỏi ngài Động Sơn Lương Giới:

- Thế nào là ý tổ sư từ Ấn Độ sang ?

Ngài Động Sơn đáp:

- Đợi dòng nước Động Sơn chảy ngược ta sẽ vì ông nói.

"Sơn" là núi, "động" là hang. Nước ở trong khe động trên núi chảy xuống có lúc nào chảy ngược trở lên không? Tại sao Ngài Động Sơn bảo: "Đợi dòng nước Động Sơn chảy ngược sẽ vì ông nói?" Câu đó đã nói gì về ý Tổ sư từ Ấn Độ sang? Tổ sư đây là Tổ sư nào? Những Thiền sinhThiền khách thường băn khoăn không biết Tổ Bồ Đề Đạt Ma Ngài có ý gì để truyền dạy? Ý đó như thế nào? Ai cũng thắc mắc muốn hiểu, muốn biết. Ngài Động Sơn trả lời như vậy, qúy vị hiểu ý Tổ sư từ Ấn Độ sang chưa? Ngài Nghĩa ThanhĐầu Tử, có làm kệ tụng như sau:

Cổ nguyên vô thủy nguyệt hà sanh

Mãn ngạn Tây lưu nhất phái phân

Thông Lãnh bãi tuần, Hùng Nhĩ mộng

Tuyết đình hưu thoại Thiếu Lâm xuân.

Dịch:

Nguồn xưa không nước nguyệt đâu sanh

Một mạch dòng Tây chảy ngập tràn

Thông Lãnh hỏi rồi Hùng Nhĩ mộng

Tuyết sân thôi nói Thiếu Lâm xuân.

Ngài Nghĩa Thanh đã nói gì về câu đáp của Ngài Động Sơn?

"Cổ nguyên vô thủy nguyệt hà sanh": dòng suối xưa nếu khô thì trăng không rọi bóng được. Nhìn xuống suối sở dĩ thấy được bóng trăng là vì suối có nước trong. Nếu suối đã khô cạn thì bóng trăng không hiện.

"Mãn ngạn Tây lưu nhất phái phân": Tuy vậy, giòng suối xưa nó đã tràn cả bờ từ phương Tây trôi sang phương Đông thành một mạch chia ra nhiều nhánh chảy mãi không dứt. Hai câu này dường như mâu thuẫn. Câu thứ nhất nói bóng trăng hiện là khi nào có nước. Vậy, có nước mới có bóng trăng, không nước thì không bóng trăng, câu này nói gì về câu đáp của Ngài Động Sơn: "Đợi dòng suối chảy ngược, tôi sẽ vì ông nói"? Câu thứ hai: giòng suối cạn không có bóng trăng, tuy nói cạn mà không cạn, cứ chảy tràn cả bờ và chảy mãi cho tới ngày nay. Như vậy để thấy giòng suối đó không phải là khô hẳn; không khô hẳn mà không bóng trăng.

"Thông Lãnh bãi tuần Hùng Nhĩ mộng": Ở núi Thông Lãnh không còn thưa hỏi nữa, và ở trên núi Hùng Nhĩ chỉ là mộng thôi. Tổ Bồ Đề Đạt Ma tịch tại Thiếu Lâm, nhục thân Ngài được nhập tháp trên núi Hùng Nhĩ, Tống Vân khi đó đi sứ Ấn Độ về ngang qua dãy núi Thông Lãnh, kể lại rằng gặp Tổ quảy một chiếc dép đi về Tây (Ấn Độ). "Thông Lãnh bãi tuần" là ở Thông Lãnh không còn thưa hỏi nữa, tức là hết duyên ở Trung Hoa nên Ngài mới về Ấn Độ. Như vậy, là nhục thân của Ngài nhập tháp ở núi Hùng Nhĩ chẳng qua là một giấc mộng. Tống Vân gặp Ngài ở núi Thông Lãnh chỉ là một giấc mơ.

"Tuyết đình hưu thoại Thiếu Lâm xuân". Nơi sân tuyết chùa Thiếu Lâm Thần Quang đến hỏi đạo, mà Tổ Bồ Đề Đạt Ma xoay mặt vô vách. Thần Quang đứng ở ngoài sân, mùa đông tuyết ngập đến đầu gối, mà Ngài vẫn đứng trơ, nhìn thẳng vào Tổ không đổi sắc mặt, nên Tổ mới xoay lại hỏi:

- Cầu cái gì mà chịu khổ hạnh vậy?

- Con xin Ngài dạy cho con pháp môn cam lồ.

Từ đó Tổ mới nhận Ngài làm đồ đệ. Lúc Ngài Huệ Khả còn thưa hỏi thì lúc đó còn duyên giáo hóa. Khi Ngài Huệ Khả không còn thưa hỏi nữa tức là Tổ Huệ Khả đã đạt được đạo, thấy được chân lý mà Tổ Bồ Đề Đạt Ma đã truyền dạy. Lúc đó, ở Thiếu Lâm có được một mùa xuân miên viễn, nên nói "tuyết đình hưu thoại Thiếu Lâm xuân". Mùa xuân ấy không còn bị thời gian chi phối, không còn vẻ ảm đạm của mùa thu, không còn cái lạnh lẽo của mùa đông. Muốn hưởng được mùa xuân miên viễn phải trải qua một cơn tuyết ngập tới gối, chớ không phải giản dị như người hiện nay được ấm no sung sướng mà muốn hưởng xuân Thiếu Lâm, chắc chắn là không được. Người tu thường đối diện với cái lạnh lẽo cô đơn, sự ấm áp của thế tình đã phai nhạt, chỉ có nguồn chánh pháp là sưởi ấm thôi. Nếu tu mà muốn tình đời sưởi ấm mãi, chắc chắn chúng ta phải chịu lạnh muôn kiếp. Hiện tại chúng ta phải cam chịu lạnh, tình đời phải buông, phải xả, để còn trơ trọi "một con người" chỉ là "một con người". Khi đó chúng ta mới được sưởi ấm bằng một nguồn vui miên viễn của xuân Thiếu Lâm, nếu không thì chẳng bao giờ chúng ta hưởng được mùa xuân ấy. Và, giòng suối từ Ấn Độ chảy sang Trung Hoa và chảy mãi đến Việt Nam, giòng suối đó đến bây giờ vẫn còn không cạn. Nhưng, chúng ta có hưởng được hay không là do sức chịu đựng, sức nỗ lực của chúng ta. Cũng như sau một trận tuyết lạnh rồi, Tổ Huệ Khả mới thấy mùa xuânThiếu Lâm. Đó là ý nghĩa bài kệ của Ngài Nghĩa Thanh.

Một vị tăng hỏi Ngài Cửu Phong (thị giả hỏi chết người ở Thạch Sương): "Tổ Tổ truyền nhau là truyền việc gì?" Đáp : "Truyền y bát". Nếu truyền y bát thì khô khan làm sao ! Y thì không biết nói, bát cũng là đồ vô tri, y bát là vật vô tình, truyền vật vô tình đó có lợi gì cho người? Nếu nói Tổ Tổ truyền nhau là truyền y bát, điều đó không phải là đạo lý, nên Ngài Cửu Phong đáp:

- Thích Ca nghèo, Ca Diếp giàu.

Tăng hỏi:

- Thế nào là Thích Ca nghèo?

Sư đáp :

- Không một pháp cho người.

Tại sao Đức Thích Ca nghèo lắm vậy? Ngài không có một vật để cho người thì không nghèo là gì? Sau này con cháu Ngài cũng nghèo, người nghèo nhất là Hương Nghiêm Trí Nhàn. Nghèo cho tới không có đất cắm dùi và cũng không có dùi để cắm nữa. Trình bày chỗ nghèo của mình Ngài nói:

Năm xưa nghèo còn có đất cắm dùi

Năm nay nghèo không có dùi để cắm.

Như vậy, sự truyền thừa của Phật Tổ, quí vị thấy truyền thừa cái gì? Đức Thích Ca không có một vật để cho người, thì có cái gì để mà truyền?

Vị tăng hỏi thêm:

- Thế nào là Ca Diếp giàu?

trả lời :

- Trong nước Mạnh Thường Quân.

Xưa ở Trung Hoa, Mạnh Thường Quân là người nuôi dũng sĩ, dũng sĩ nào mà thất thời lỡ vận, ông đem về nuôi hết, nên nói Mạnh thường Quân là người giàu. Vậy Tổ Ca Diếp giàu là giàu cái gì? Nếu Tổ Ca Diếp nghèo thì không truyền tới bây giờ. Bởi Ngài giàu nên Ngài truyền mãi cho tới ngày nay không dứt, con cháu đông vầy, đó là cái giàu của Ngài Ca Diếp. Như vậy, đức Thích Ca nghèo vì không có pháp cho người. Ngài Ca Diếp giàu nên truyền mãi không dứt. Nói như thế có mâu thuẫn không? Nếu chúng ta thấy được cái không mâu thuẫn thì chúng ta thấy được mùa xuân miên viễnchùa Thiếu Lâm. Còn chúng ta thấy có mâu thuẫn thì không thấy được mùa xuân miên viễnThiếu Lâm. Sau đây, Thiền sư Tử Thuần ở núi Đơn Hà làm bài kệ nói về sự đối đáp này:

Tịch quang ảnh lý hiện toàn thân

Quí dị thiên nhiên quýnh xuất luân

Gia phú nhi nô thiên đắc lực

Dạ phân đăng tỏa chiếu tây lân.

Dịch :

Tịch quang trong bóng hiện toàn thân

Sang khác thiên nhiên vượt hạng thường

Con khó nhà giàu riêng đắc lực

Đêm chia đèn lửa giọi xóm gần.

"Tịch quang ảnh lý hiện toàn thân". Trong cái sáng lặng lẽ bóng nó hiện toàn thân. "Quí dị thiên nhiên quýnh xuất luân": Cái giàu sẵn có đó nó khác hẳn, vượt xa cái giàu thông thường của thế gian. "Gia phú nhi nô thiên đắc lực": Nhà giàu mà con làm tôi tớ, riêng được chỗ đắc lực. Cha giàu chỉ cho ông trưởng giả, con làm tôi tớ chỉ cho gã cùng tử chịu là tôi tớ trong kinh Pháp Hoa. Nhưng nếu người con tôi tớ khi rõ biết việc nhà rồi, tức là quản lý được gia nghiệp thì "dạ phân đăng hỏa chiếu tây lân" ông cha ban đêm chia đèn lửa để giọi chiếu xóm giềng gần. Hai câu đầu nói lên ý đức Thích Ca ngài nghèo, bởi vì trong cái sáng lặng lẽ đó có cái bóng hiện ra toàn vẹn nhưng đó chỉ là cái bóng thôi. Đã là cái bóng có gì là thật, đã là không thật có gì để chia để trao? Nhưng trong đó có ngầm cái giàu, mà không phải là cái giàu thông thường của thế nhân, mà là cái giàu vượt hết tất cả của cải thường tình. Cái đó là cái giàu sẵn gọi là thiên nhiên sẵn có. Hai câu sau chỉ cái giàu của Ca Diếp. Ngài Ca Diếp rất là giàu, con cháu của Ngài nghèo nàn, một khi có sức kham nhẫn chịu đựng, có khả năng gánh vác được gia nghiệp, là Ngài giao chia cho đèn lửa để nối tiếp mãi mãi. Nên trong đạo thường nói kẻ sau nối tiếp người trước, dùng chữ "tục diệm truyền đăng" nghĩa là nối lửa trao đèn. Tại sao không trao ngọc trao vàng mà lại trao lửa trao đèn? và trao đèn trao lửa để làm gì? Chủ yếu của đạo Phậtgiác ngộ, mà giác ngộ là sống bằng trí tuệ, mà sống bằng trí tuệ thì sáng suốt. Bởi chúng sanh vô minh, mê mờ nên chìm mãi trong luân hồi sanh tử. Chỉ có ánh sáng của trí tuệ mới phá được vô minh, mê mờ. Nếu vô minh mê mờ hết thì chúng sanh ra khỏi vòng luân hồi sanh tử. Truyền bá chánh pháp là trao đèn tiếp lửa, để soi sáng cho chúng sanh. Cứu cánh mà Phật nhắm là tu phải có ánh sáng trí tuệ, để tự mình diệt khổ và giải khổ cho người, nên trong đạo nói truyền trao đèn chánh pháp là vậy. Một thiền sư Nhật Bản viết câu chuyện đề tựa là "Giáo lý thượng thừa" như sau: "Một chú mù đi thăm một người bạn, bởi bạn cố tri nên khi gặp lại, hai người ngồi nói chuyện mãi quên cả thì giờ. Khi chú từ giã ra về thì đêm đã khuya. Ngoài trời tối đen, anh bạn mới nói:

- Ngoài kia trời tối, để tôi thắp đèn cho anh cầm về.

Chú mù cười nói:

- Tôi thấy ngày như đêm, đêm như ngày, không cần đèn.

Anh bạn mới giải thích:

- Anh không cần đèn, nhưng anh nên cầm cây đèn đi, người ta thấy đèn họ tránh, không đụng vào anh.

Chú mù nghe có lý nói:

- Được !

Anh bạn thắp cho cây đèn, chú cầm đi, đi dọc đường đèn tắt, bất thần người ta đụng vào người chú, chú mù nói:

- Anh không thấy tôi sao ?

Người đi đường nói:

- Dạ, tôi không thấy.

Chú mù nói:

- Tôi cầm cây đèn đây mà anh không thấy à!

Người đi đường đáp:

- Thưa bạn, cây đèn bạn tắt tự bao giờ!

Đó là "Giáo lý thượng thừa".

Quý vị tìm xem giáo lý thượng thừa ở chỗ nào? Và bây giờ tôi kể chuyện được trao đèn của Ngài Đức Sơn. Ngài Đức Sơn khi đầu phục Thiền sư Long Đàm Sùng Tín và được nhận làm đệ tử. Một hôm, Ngài hầu thầy, từ tối mãi tới khuya ở trong thất. Thiền sư Sùng Tín bảo: Đêm đã khuya sao ông không xuống? Đức Sơn liền bước ra vén rèm lên, bèn trở lại thưa: Ngoài kia tối đen. Thiền sư Sùng Tín thắp đèn đưa, Đức Sơn vừa đưa tay nhận đèn, thì Thiền Sư Sùng Tín thổi tắt phụp. Ngay khi đó, Đức Sơn liền ngộ. Từ đó về sau, Ngài không cần đèn nữa. Trao đèn như vậy có trao hay không? Tại sao Đức Sơn cần đèn đưa tay nhận, mà Thiền sư Sùng Tín đưa cho lại thổi tắt mà gọi là trao đèn tiếp lửa? Câu chuyện trước, người bạn sáng mắt thương người bạn mù nên thắp đèn cho cầm để tránh tai nạn. Đã là mù thì đèn tắt hay cháy cũng không biết, nên có đèn cũng vô ích. Chỉ người sáng mắt cầm đèn mới hữu dụng. Hiểu câu chuyện này thì hiểu câu chuyện của Ngài Đức Sơn. Cũng vậy, nếu Ngài Huệ Khả không có đứng chịu lạnh ở ngoài sân tuyết trước chùa Thiếu Lâm thì Tổ Đạt Ma đâu có trao đèn cho ngài Huệ Khả. Ngài Huệ Khả đủ khả năng, đủ sức nhận mới được trao. Cũng vậy, nơi chúng ta nếu không phát sáng được vô sư trí, thì dù thầy dù bạn có muốn cho chúng ta sáng cũng không sáng được. Nên cái học lý thuyết của thầy của bạn không cứu được cái mê chìm trong luân hồi sanh tử của chúng ta. Muốn cứu được cái mê, chính chúng ta phải phát minh được vô sư trí và lúc đó mới được trao đèn.Trao mà không trao nên gọi là giáo lý thượng thừa. Hiểu như vậy qúy vị mới hiểu nghĩa trao đèn tiếp lửa trong bài tụng ở trước của ngài Tử Thuần.

Có vị tăng hỏi Ngài Cư Hối:

- Tổ Đạt Ma lại là Tổ chăng?

Cư Hối đáp:

- Chẳng phải Tổ.

Tăng hỏi:

- Đã chẳng phải Tổ lại đến làm gì?

Ngài Cư Hối đáp:

- Vì ông chẳng tiến.

Tăng hỏi:

- Sau khi tiến thì thế nào?

Cư Hối đáp:

- Mới biết chẳng phải Tổ.

Sau khi tiến được mới biết chẳng phải tổ. Đức Sơn vì tiến không được, thấy ngoài trời tối đen nên cần đèn, vì cần đèn nên thầy thắp đưa cho. Song, liền thổi tắt phụp. Khi đèn tắt Ngài mới tiến được, tiến được thấy thầy có trao đèn cho mình không? chưa tiến thấy cần đèn, mong thầy trao cho mình đèn, nên còn thấy có Tổ. Khi tiến được rồi thì có gì để trao? Mới biết không phải Tổ. Không phải Tổ mà là Tổ. Cái đó mới lạ lùng. Qua câu chuyện trên cùng Ngài Tử Thuần làm bài kệ:

Thiếu Lâm tục diệm sự kham kỳ

Lạp dạ phương khai tuyết hậu chi

Hoàng bá tích niên tằng hữu ngữ.

Đại Đường quốc lý một thiền sư.

Dịch:

Thiếu Lâm tiếp lửa việc lạ kỳ.

Tháng chạp tuyết rơi sao mới chia

Hoàng Bá năm xưa từng đã nói

Đại Đường cả nước không thiền sư.

Tại sao cả nước Đại Đường mà không có thiền sư? Theo thế gian nói đến Tổ thì người ta nghĩ những ông Tổ chỉ dạy cho người nghề nghiệp như tổ thợ mộc thì dạy cách làm mộc, phải đục phải đẽo thế nào, cần những đồ nghề gì? tổ thợ rèn cũng có một phương pháp để chỉ dạy thành thợ rèn. Tổ của Thiền tông dạy chúng ta cái gì?

"Không có một pháp cho người" mà dạy cái gì, truyền cái gì? Đã không có dạy, không có truyền thì có là Tổ không? tuy không dạy không truyền mà vẫn là Tổ. Thoáng qua coi như không có Tổ, vì mỗi người chúng ta đã sẵn có tánh giác không phải do Tổ cho, nên nói không phải Tổ ; nếu mỗi người không sẵn có tánh giác, dù cho Ngài có chỉ Đông vẽ Tây, chắc chắn cũng không nhận được. Cho nên không phải Tổ mà là Tổ. Ở đây cũng vậy, Ngài Hoàng Bá nói cả nước Đại Đường không có Thiền sư, tạm gọi tên là thiền sư. Câu đầu nói: "Thiếu Lâm tục diệm sự kham kỳ" nghĩa là sự trao đèn tiếp lửa ở Thiếu Lâm rất lạ lùng. "Lạp dạ phương khai tuyết hậu chi". Sau đêm tháng chạp tuyết lạnh mới nở được hoa, nên nói "Tháng chạp tuyết rơi sau mới chia". Như vậy, chúng ta thấy việc truyền thừa của chư Tổ là mồi đèn tiếp lửa để mãi mãi soi sáng cho nhân loạithế gian. Do đó nên ở đây tôi đặt tên Thiền viện Thường Chiếu là nhắm vào ý nghĩa này. Nếu nói Thường Chiếu không thì thấy có vẻ lơ lững quá! Để tránh tên một hai người nói là Huệ Nhật Thường Chiếu hay Tuệ Đăng Thường Chiếu, cùng nghĩa trao đèn tiếp lửa. Kinh Pháp Hoa phẩm Phổ Môn có câu: "Huệ Nhật phá chư ám" tức là mặt trời trí huệ phá mọi tối tăm, mà Thường Chiếu là phá ám chứ gì? Cho nên chúng ta phải hiểu cho thấu đáo cho tường tận cái đích của người trước nhắm, không nên hiểu lờ mờ. Thường Chiếu nói theo tinh thần Thiền là đèn trí huệ hay mặt trời trí huệ mãi mãi soi sáng không gián đọan. Tôi có tham vọng là muốn cho ngọn đèn chánh pháp của Phật mãi mãi soi sáng cho chúng sanh không gián đọan, không tắt dứt. Đó là điều mơ ước mong mỏi của chúng tôi. Hiện tại có chiếu soi chút chút, nếu mai kia tôi tịch rồi thì qúy vị phải soi sáng tiếp tục đừng để gián đoạn, nếu để gián đoạn thì mất nghĩa "Thường Chiếu" đó vậy. Chủ đích của người tu Phật là dùng ánh sáng trí huệ để soi sáng tự mình và giúp người phá tan màng u minh thoát khỏi vòng trầm luân sanh tử. Hôm nay tôi nói ra đây để quý vị có mặt ý thức bổn phận và trách nhiệm của mình, để nhắm thẳng vào mục tiêu mà tiến. Hòa Thượng viện trưởng V.H.Đ.G.H.P.G.V.N.T.N dạy chúng ta làm việc gì qua một thời gian, phải tự hỏi lại mình có thực hiện đúng mục đích hay không? Làm vì danh, vì lợi hay vì cái gì? Tự hỏi lại để nhắc mình hướng đúng mục tiêu mà mình đã nhắm. Ở đây tôi nhắm mục tiêu "Tổ Tổ tương truyền" vì chúng ta là những người đã thừa hưởng ánh sáng của Phật Pháp của Tổ Thầy, nên chúng ta phải đem ánh sáng đó soi lại cho người sau, cùng được sáng như chúng ta. Có những khi cần giảng hai chữ Thường Chiếu, tôi giảng có tính cách lịch sử. Thường Chiếu là tên của một Thiền sư Việt Namtư cách đặc biệt nên tôi thích lấy tên Ngài đặt tên Thiền viện. Hôm nay tôi nói rõ mục đích để quý vị nắm vững mà thực hành thì tôi nói là Huệ Nhật Thường Chiếu hay Tuệ Đăng Thường Chiếu, không phải là chuyện thường. Đó là chỗ mà hôm nay tôi muốn nêu lên cho quý vị có mặt thấy để thực hiện cho kỳ được. Vì Phật Tổ đều muốn cho chúng ta phải làm như vậy.

Tôi kết thúc lại bài nói chuyện hôm nay bằng hai câu thơ:

Bất đạp kim thời lộ

Thường du kiếp ngoại xuân.

"Bất đạp kim thời lộ" là không dẫm chân trên con đường hiện thời. Thường, người tu Thiền chỉ sống với hiện tại, mà tại sao nói không đạp trên con đường hiện thời? Con đường hiện thời ở đây chỉ cho con đường mà người đời đang đua nhau chen lấn đi, đó là con đường danh, lợi, tài, sắc v.v... Nếu chúng ta không đạp lên trên con đường đó thì chúng ta sẽ "thường du kiếp ngoại xuân". Kiếp ngoại xuân là mùa xuân vượt ngoài thời gian năm, tháng. Vì thông lệ nói tới xuân là người ta nghĩ tới bốn mùa xuân, hạ, thu, đông của thời tiết. Mùa xuân kiếp ngoại là mùa xuân không còn bị lệ thuộc thời tiết nóng lạnh, không lệ thuộc thời gian. Hai câu này tôi tạm dịch theo thể văn lục bát:

Chẳng đi theo bước đương thời

Mùa xuân kiếp ngoại thảnh thơi dạo hoài.

Vậy, tôi mong rằng tất cả Tăng Ni cùng Phật tử ai ai cũng được hưởng một mùa xuân kiếp ngoại hay một mùa xuân miên viễn.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19713)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23972)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41222)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19705)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24005)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21749)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23315)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27510)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26579)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29323)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33207)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20209)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25788)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20921)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31332)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38585)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21450)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44271)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29836)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42226)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22145)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45779)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32126)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23966)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24399)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29285)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33929)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27691)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32148)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21071)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28858)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21595)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28084)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22084)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21446)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19509)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19477)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19841)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19262)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29202)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20627)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28306)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23652)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33201)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31851)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21384)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39636)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21565)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19385)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26412)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24838)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21760)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22399)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29144)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22562)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20474)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23532)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21243)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35334)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24550)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant