Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

24-2. Phẩm Cao tràng (2)

01 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10614)
24-2. Phẩm Cao tràng (2)

KINH TĂNG NHẤT A HÀM
Việt dịch: Hòa thượng Thích Thanh Từ - Hiệu đính: Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam - PL 2541 - TL 1997

TẬP 1

XXIV.2. Phẩm Cao Tràng (2)

Bấy giờ rồng dữ kia thè lưỡi liếm tay Như Lai, trìu mến nhìn mặt Như Lai.

Sáng sớm hôm sau, Thế Tôn tay cầm rồng dữ này đến Cù-đàm và bảo Cù-đàm:

- Ðây là rồng dữ hết sức hung bạo, nay đã bị hàng phục.

Lúc ấy Cù-đàm trông thấy rồng dữ liền khiếp sợ, bạch Thế Tôn:

- Thôi, thôi, Sa-môn! Chớ có đến trước, rồng sẽ làm hại.

Thế Tôn bảo:

- Cù-đàm chớ sợ! Nay Ta đã hàng phục nó rồi, trọn chẳng làm hại. Vì sao thế? Rồng này đã được Ta giáo hóa.

Bấy giờ Cù-đàm và năm trăm đệ tử đều khen là chưa từng có, hết sức kỳ lạ:

- Sa-môn Cù-đàm này oai thần rất lớn, có thể hàng phục rồng dữ này khiến nó không làm ác. Tuy vậy, Ông cũng không bằng ta, đã được đạo chân thật.

Cù-đàm bạch Thế Tôn:

- Ðại Sa-môn, hãy nhận lời tôi thỉnh trong chín mươi ngày. Chỗ cần y phục, thức ăn uống, giường chõng, thuốc men trị bịnh, tôi đều sẽ cung cấp.

Thế Tôn im lặng nhận lời Cù-đàm và đem rồng dữ thả vào biển lớn. Rồng thần kia theo thọ mạng ngắn, dài, lúc mạng chung sanh lên Trời Tứ thiên vương. Như Lai trở lại ở động đá. Cù-đàm bày các thức ăn uống cúng, rồi đến bạch Thế Tôn:

- Thức ăn đã dọn, xin mời Ngài đến dùng.

Cù-đàm đi rồi. Thế Tôn đến trên cõi Diêm-phù-đề, dưới cây diêm-phù hái trái diêm-phù rồi trở về ngồi trong động đá trước Cù-đàm.

Lúc đó, Cù-đàm thấy Thế Tôn trong động đá, bạch Thế Tôn:

- Sa-môn! Ngài theo đường nào mà đến động đá?

- Ông đi rồi, Ta đến trên cõi Diêm-phù-đề, hái trái diêm-phù rồi trở về đây. Cù-đàm nên biết, trái này rất thơm ngon, hãy lấy ăn đi.

- Tôi không cần, Sa-môn hãy lấy ăn.

Cù-đàm lại nghĩ: 'Sa-môn này thật có thần túc, có oai lực có thể lên cõi Diêm-phù hái trái ngon, tuy vậy chẳng bằng đạo chân thật của ta'.

Thế Tôn ăn xong, trở về chỗ kia nghỉ.

Sáng sớm, Cù-đàm đến chỗ Thế Tôn, đến rồi bạch Thế Tôn;

- Giờ ăn đã đến, Ngài có thể đến ăn.

- Ông về trước, Ta sẽ đến sau.

Cù-đàm đi rồi, Phật bèn đến cõi Diêm-phù lấy trái xoài rồi trở về đến trước Cù-đàm, ngồi trong động đá. Cù-đàm bạch Thế Tôn:

- Sa-môn, Ngài theo đường nào mà đến đây?

- Ông đi rồi, Ta lên cõi Diêm-phù lấy quả này đến, hết sức ngon lành, nếu Ông cần thì lấy ăn.

- Tôi không cần, Sa-môn cứ lấy ăn.

Bấy giờ Cù-đàm lại nghĩ: 'Sa-môn này thật có thần lực, có oai thần lớn, sau khi ta đi, Ông lại hái trái này đem đến, tuy vậy mà chẳng bằng ta, ta đã đắc đạo'.

Thế Tôn ăn xong, trở về chỗ kia nghỉ.

Sáng hôm sau, Cù-đàm đến chỗ Thế Tôn nói:

- Giờ ăn đã đến, Ngài có thể đến ăn.

- Ông đến trước, Ta sẽ đến sau.

Cù-đàm đi rồi, Thế Tôn đến Châu Bắc Uất-đan-việt lấy cơm gạo tự nhiên, trở về động đá của Cù-đàm. Cù-đàm hỏi Phật:

- Sa-môn, Ngài theo đường nào đến đây ngồi?

- Cù-đàm nên biết, Ông đi rồi, Ta đến Uất-đan-việt lấy cơm gạo tự nhiên rất là thơm ngon. Cù-đàm, Ông cần thì lấy ăn.

- Tôi không cần. Sa-môn cứ tự lấy ăn.

Cù-đàm lại nghĩ: 'Sa-môn này rất có thần túc, có đại thần lực, tuy vậy mà chẳng bằng ta đã được đạo chân thật'.

Thế Tôn ăn xong trở về kia nghỉ.

Sáng hôm sau, Cù-đàm đến chỗ Thế Tôn nói:

- Giờ ăn đã đến, Ngài có thể đến ăn.

Ông về trước, Ta sẽ đến sau.

Cù-đàm đi rồi, Thế Tôn đến Cù-da-ni lấy trái ha-lê-lặc, rồi đến Cù-đàm, ngồi trong động đá.

- Sa-môn, Ngài theo đường nào đến đây ngồi?

- Ông đi rồi, Ta đến Cù-da-ni lấy trái này về, hết sức thơm ngon. Cù-đàm, Ông cần thì có thể lấy ăn.

- Tôi không cần. Sa-môn cứ tự lấy ăn.

Cù-đàm lại nghĩ: 'Sa-môn này rất có thần lực, có đại oai thần, tuy vậy chẳng bằng ta đắc đạo chân thật'.

Thế Tôn ăn xong, trở về kia nghỉ.

Ngày mai, Cù-đàm đến chỗ Thế Tôn bạch:

- Tới giờ rồi, Ngài có thể đến ăn.

- Ông về trước, Ta sẽ đến sau.

Ông đi rồi, Thế Tôn đến Phất-vu-đệ, lấy trái tỳ-ê-lặc, đến trước Cù-đàm, ngồi trong động đá. Cù-đàm hỏi rằng:

- Sa-môn! Ngài theo đường nào đến đây ngồi?

- Ông đi rồi, Ta đến Phất-vu-đệ lấy trái này, rất là thơm ngon. Cù-đàm, Ông cần thì có thể lấy ăn.

- Tôi không cần, Sa-môn cứ tự lấy ăn.

Cù-đàm lại tự nghĩ: 'Sa-môn này rất có thần lực, có đại thần lực, tuy vậy chẳng bằng ta đắc đạo chân thật'.

Thế Tôn ăn rồi lại về kia nghỉ.

Khi ấy, Cù-đàm muốn cúng tế lớn. Năm trăm đệ tử cầm búa chặt củi, tay cầm búa mà búa chẳng hạ xuống. Cù-đàm liền nghĩ: 'Ðây chắc là do Sa-môn Cù-đàm làm'.

- Nay tôi muốn chặt củi mà tại sao không hạ búa xuống được?

- Muốn hạ được búa à?

- Muốn cho hạ xuống.

Búa liền hạ xuống. Bấy giờ búa kia đã hạ lại nhấc lên chẳng được. Cù-đàm lại bạch Phật:

- Cớ sao không nhấc được búa?

- Muốn nhấc búa lên à?

- Muốn cho nhấc lên.

Búa liền nhấc được. Bấy giờ đệ tử Cù-đàm có ý muốn đốt lửa, mà lửa chẳng chịu cháy. Cù-đàm liền nghĩ: 'Ðây chắc do Sa-môn Cù-đàm làm'. Cù-đàm bạch Phật:

- Cớ sao lửa không cháy?

- Muốn cho lửa cháy à?

- Muốn cho cháy.

Tức thời lửa cháy lên. Bấy giờ họ có ý muốn dập lửa mà lửa chẳng tắt. Cù-đàm bạch Phật:

- Cớ sao lửa không tắt.

- Muốn cho lửa tắt à?

- Muốn cho tắt.

Lửa liền tắt. Cù-đàm lại nghĩ: 'Sa-môn Cù-đàm này mặt mày đoan chánh, hiếm có ở đời. Ngày mai ta muốn cúng tế lớn. Quốc vương, nhân dân đều sẽ đến tụ tập. Nếu họ thấy Sa-môn này thì ta chẳng được cúng dường nữa. Ngày mai Sa-môn này không đến thì thật là may mắn lớn.

Lúc ấy Thế Tôn biết tâm niệm của Cù-đàm. Sáng sớm ngày mai, Ngài đến uất-đan-việt lấy cơm gạo tự nhiên, đến Cù-da-ni lấy sữa tươi rồi đến suối A-nậu-đạt mà ăn, ở đó suốt ngày, đến chiều lại trở về động đá nghỉ.

Hôm sau Cù-đàm đến chỗ Thế Tôn hỏi:

- Sa-môn! Hôm nay vì sao không đến?

- Hôm qua Ông nghĩ rằng: 'Cù-đàm này rất là đoan chính, hiếm có ở đời. Sáng mai ta tế lớn. Nếu Quốc vương, đại thần thấy được liền chấm dứt sự cúng dường ta. Nếu ông ta không đến thì may lắm.' Ta biết tâm Ông nghĩ thế, nên Ta đến Uất-đan-việt lấy cơm gạo tự nhiên, đến Cù-da-ni lấy sữa tươi, lên đến suối A-nậu-đạt-ăn, ở đó trọn ngày, đến chiều trở về động đá nghỉ.

Bấy giờ Cù-đàm lại nghĩ: 'Vị đại Sa-môn này rất có thần túc, thật có oai thần, tuy vậy chẳng bằng ta đắc đạo chân thật'.

Thế Tôn ăn xong trở về động đá nghỉ. Ðêm ấy Tứ thiên vương đến chỗ Thế Tôn để nghe kinh pháp. Tứ thiên vương cũng có hào quang sáng chói, Phật cũng phóng hào quang lớn chiếu núi rừng đó rỗng suốt một màu. Ðêm đó Cù-đàm thấy ánh sáng, sáng sớm hôm sau đến chỗ Thế Tôn, đến rồi bạch Thế Tôn:

- Ðêm qua có ánh sáng gì chiếu núi rừng này?

- Ðêm qua Tứ thiên vương đến chỗ Ta nghe pháp. Ðó là ánh sáng của Tứ thiên vương ấy.

Khi đó, Cù-đàm lại nghĩ: 'Sa-môn rất có thần lực, có thể khiến Tứ thiên vương đến nghe pháp, tuy có thần lực này vẫn chẳng bằng ta đắc đạo chân thật'.

Thế Tôn ăn xong lại về nghỉ. Nửa đêm Thích-đế-hoàn-nhân đến chỗ Thế Tôn nghe pháp. Ánh sáng của Thiên Ðế Thích lại chiếu núi kia. Ban đêm Cù-đàm thức dậy nhìn sao, thấy ánh sáng này. Sáng sớm hôm sau, Cù-đàm đến chỗ Thế Tôn hỏi:

- Cù-đàm! Ðêm qua ánh sáng rất lạ lùng. Có nhân duyên gì mà có ánh sáng này?

- Ðêm qua Thiên Ðế Thích đến đây nghe pháp nên có ánh sáng này.

Cù-đàm liền nghĩ: 'Sa-môn Cù-đàm này rất có thần lực, có đại oai thần, có thể khiến Thiên Ðế Thích đến nghe pháp, tuy vậy chẳng bằng ta đắc đạo chân thật'.

Thế Tôn ăn xong trở về kia nghỉ. Nửa đêm Phạm thiên vương phóng đại quang minh chiếu vào núi kia rồi đến chỗ Thế Tônnghe pháp. Bấy giờ Cù-đàm ban đêm thức dậy thấy ánh sáng. Hôm sau đến chỗ Thế Tôn hỏi:

- Ðêm qua ánh sáng chiếu hơn ánh sáng trơi, tăng gấp bội. Có nhân duyên gì mà có ánh sáng này?

- Cù-đàm nên biết, đêm qua Phạm thiên vương đến chỗ Ta nghe pháp.

Cù-đàm lại nghĩ: 'Sa-môn Cù-đàm này rất có thần lực, có thể khiến tổ phụ ta đến chỗ Sa-môn này nghe pháp, tuy vậy chẳng bằng ta đắc đạo chân thật'.

Bấy giờ Thế Tôn được y năm mảnh tệ nát, có ý muốn giặt giữ, liền nghĩ: 'Nay ta nên giặt y này ở đâu?'

Thích-đế-hoàn-nhân biết ý Thế Tôn, liền hóa ra ao tắm, rồi bạch Thế Tôn;

- Ngài có thể giặt y ở đây.

Khi ấy Thế Tôn nghĩ rằng: 'Ta sẽ vò giặt y này ở đâu?'

Tứ Thiên vương biết tâm niệm Thế Tôn, liền nhấc một tảng đá vuông lớn đặt ở mé nước, bạch Thế Tôn:

- Ngài nên vò giặt ở đây.

Thế Tôn lại nghĩ: 'Ta phơi y này ở đâu?'

Thọ thần biết tâm niệm Thế Tôn liền rũ cành cây xuống, bạch Thế Tôn:

- Xin Thế Tôn phơi y ở đây.

Sáng sớm hôm sau, Cù-đàm đến chỗ Thế Tôn hỏi Thế Tôn:

- Vốn không có ao này, nay có ao, vốn không có cây, nay có cây này, vốn không có đá, nay có đá này. Có nhân duyên gì mà có sự biến hóa này?

- Ở đây đêm qua, Thiên Ðế Thích biết Ta muốn giặt y nên làm ao tắm này. Ta lại nghĩ: 'Nên vò giặt y này ở đâu?', thời Tứ thiên vương biết tâm niệm của Ta liền đem đá này đến. Ta lại nghĩ: 'Nên phơi y ở đâu?' Thọ thần biết tâm niệm Ta liền thòng cành cây này.

Lúc ấy, Cù-đàm nghĩ: 'Sa-môn Cù-đàm này tuy có thần lực mà chẳng bằng ta đắc đạo chân thật'.

Thế Tôn ăn xong trở về kia nghỉ. Nửa đêm hôm đó có đám mây đen lớn nổi lên làm mưa to, sông lớn Ni-liên chảy cuồn cuộn. Khi ấy Cù-đàm lại nghĩ: 'Sông này chảy xiết, Sa-môn chắc sẽ bị nước cuốn, nay ta đến xem'.

Bấy giờ Cù-đàm và năm trăm đệ tử đến bờ sông. Lúc ấy Thế Tôn đang đi trên nước, chân chẳng thấm nước. Cù-đàm từ xa trông thấy Thế Tôn đi trên nước, liền nghĩ: 'Thật kỳ! Thật lạ! Sa-môn Cù-đàm có thể đi trên nước, ta cũng có thể đi trên nước, nhưng chẳng thể khiến chân không thấm. Sa-môn này tuy có oai thần nhưng chẳng bằng ta đắc đạo chân thật'.

Lúc ấy, Thế Tôn bảo Cù-đàm:

- Ông cũng chẳng phải A-la-hán, lại chẳng biết đạo A-la-hán, Ông còn chẳng biết tên A-la-hán huống là đắc đạo ư? Ông là người mù, mắt chẳng thấy gì. Như Lai hiện biến hóa như thế, Ông còn nói: 'Chẳng bằng ta đắc đạo chân thật'. Ông vừa nói: 'Ta có thể đi trên nước'. Nay chính đúng lúc, Ông có thể cùng Ta đi trên nước chăng? Nay Ông nên bỏ tâm tà kiến, chẳng để chịu khổ não này mãi mãi.

Bấy giờ Cù-đàm nghe Thế Tôn nói xong, liền đến trước cúi lạy chân Phật:

- Nay con hối lỗi, thầm biết phi phápxúc phạm Như Lai, cúi mong nhận lời con hối lỗi.

Như thế lập lại ba phen. Thế Tôn bảo:

- Nhận cho Ông sửa lỗi, đã tự biết xúc não Như Lai.

Bấy giờ Cù-đàm bảo năm trăm đệ tử:

- Các Ông mỗi người tùy ý, nay ta tự quy y Sa-môn Cù-đàm.

Năm trăm đệ tử bạch Cù-đàm:

- Chúng con trước cũng có lòng đối với Sa-môn Cù-đàm, ngay lúc Cù-đàm hàng phục rồng, chúng con đã muốn quy mạng. Nếu Thầy tự quy Cù-đàm, năm trăm đệ tử chúng con đều tự quy với Cù-đàm cả.

Cù-đàm đáp:

- Nay chính đúng lúc. Vì tâm ta lại chấp điều ngu si này, thấy bao nhiêu biến hóa mà ý còn chưa hiểu, nên tự xưng là đạo ta chân chánh.

Cù-đàm đem năm trăm đệ tử, trước sau vây quanh đến chỗ Thế Tôn cúi lạy dưới chân rồi đứng một bên, bạch Thế Tôn:

- Cúi mong Thế Tôn cho chúng con được làm Sa-môn, tu hạnh thanh tịnh.

Pháp thường của chư Phật nếu gọi: 'Khéo đến, Tỳ-kheo!' thì người kia liền thành Sa-môn. Bấy giờ Thế Tôn bảo Cù-đàm:

- Khéo đến, Tỳ-kheo! Pháp này vi diệu, khéo tu Phạm hạnh.

Cù-đàm y áo đang mặc đều biến thành cà-sa, đầu tóc tự nhiên rụng như được cạo đã bảy ngày. Lúc đó Cù-đàm đem dụng cụ học thuậtchú thuật ném xuống nước. Rồi năm trăm đệ tử bạch Thế Tôn:

- Cúi mong Thế Tôn cho chúng con được làm Sa-môn.

- Khéo đến, Tỳ-kheo!

Lúc ấy năm trăm đệ tử liền thành Sa-môn, cà-sa đắp thân, tóc trên đầu tự rụng.

Bấy giờ thuận dòng về phía hạ lưuPhạm chí tên Giang Cù-đàm ở bên bờ sông. Lúc ấy Giang Cù-đàm thấy đồ chú thuật bị nước cuốn trôi hết, liền nghĩ rằng: 'Chao ôi, sư huynh của ta bị nước dìm chết rồi!'.

Bấy giờ Giang Cù-đàm đem ba trăm đệ tử theo dòng lên phía thượng lưu tìm thây của anh, xa thấy Thế Tôn ngồi dưới gốc cây cùng Ðại Cù-đàm và năm trăm đệ tử đang vây quanh trước sau thuyết pháp. Thấy rồi, ông liền đến trước Cù-đàm, nói:

- Việc này hay nhỉ! Vốn là thầy người, nay làm đệ tử, đại huynh cớ sao lại làm đệ tử của Sa-môn?

Cù-đàm đáp:

- Ðiều này tốt nhất, không gì hơn điều này.

Bấy giờ Ưu-tỳ Cù-đàm hướng về Giang Cù-đàm mà đọc kệ này:

Thầy này Người Trời quý,
Nay ta thờ kính thầy.
Chư Phật hiện ra đời,
Rất là khó được gặp.

Giang Cù-đàm nghe danh hiệu Phật hết sức vui mừng hớn hở, không kềm được, đến trước bạch Thế Tôn:

- Xin cho con hành đạo.

- Khéo đến, Tỳ-kheo! Khéo tu Phạm hạnh, dứt hết mé khổ.

Bấy giờ Giang Cù-đàm và ba trăm đệ tử liền thành Sa-môn, cà-sa đắp thân, tóc trên đầu tự rụng. Lúc ấy, Giang Cù-đàm và ba trăm đệ tử đem đồ chú thuật liệng hết xuống nước.

Khi ấy cuối dòng sông có Phạm chí tên Già-di Cù-đàm ở bên bờ sông, xa thấy đồ chú thuật trôi trên nước, liền nghĩ: 'Ta có hai anh ở sông phía trên học đạo, nay đồ chú thuật đều bị nước trôi, hai anh Cù-đàm chắc bị nước hại'.

Ông liền đem hai trăm đệ tử theo dòng lên thượng lưu, đến chỗ học thuật, xa thấy hai anh làm Sa-môn, liền nói:

- Việc này hay nhỉ! Vốn được người tôn kính, nay làm đệ tử Sa-môn!

Cù-đàm đáp:

- Chỗ này tốt nhất, không đâu hơn đây.

Bấy giờ Già-di Cù-đàm liền nghĩ: 'Nay hai anh ta học rộng biết nhiều. Nơi đây ắt là chỗ tốt, khiến hai anh ta ở đó học đạo. Nay ta cũng nên ở đó học đạo'. Khi ấy Già-di Cù-đàm đến trước Thế Tôn bạch:

- Cúi mong Thế Tôn cho con làm Sa-môn.

Thế Tôn bảo:

- Khéo đến, Tỳ-kheo! Khéo tu Phạm hạnh, dứt hết mé khổ.

Bấy giờ Già-di Cù-đàm liền thành Sa-môn, cà-sa đắp thân, tóc trên đầu tự rụng, như cạo đầu đã bảy ngày. Lúc ấy, Thế Tôn ở bên bờ sông ấy, dưới gốc cây Ni-câu-luật thành Phật chưa bao lâu, có một ngàn đệ tử đều là bậc tôn túc kỳ cựu.

Thế Tôn dùng ba việc giáo hóa. Thế nào là ba? Ðó là thần túc giáo hóa, ngôn giáo giáo hóa và huấn hối giáo hóa.

Thế nào gọi là thần túc giáo hóa? Nghĩa là Thế Tôn hoặc biến bao nhiêu thân hình hợp lại làm một, hoặc biến mất, hoặc hiện đi qua vách đá không chướng ngại, hoặc từ đất chui lên, hoặc chui vào đất, giống như nước chảy không chạm ngại, hoặc ngồi kiết-già đầy khắp hư không, như chim trong không, chẳng bị chướng ngại; cũng như núi lửa lớn phun khói vô lượng, như mặt trời mặt trăngthần lực lớn không thể hạn lượng, dùng tay với đến cõi Phạm thiên. Thế Tôn hiện thần túc như thế.

Thế nào gọi là ngôn giáo giáo hóa? Nghĩa là Thế Tôn dạy các Tỳ-kheo nên bỏ điều này, nên giữ điều này, nên gần điều này, nên xa điều này, nên nhớ điều này, nên trừ điều này, nên quán điều này, không nên quán điều này.

Thế nào là nên tu hay không nên tu? Nghĩa là nên tu Thất giác chi, nên diệt ba kiết (sử).

Thế nào là nên quán, không nên quán? Nên quán nghĩa là nên khéo quán ba pháp kiết của Sa-môn, đó là vui xuất yếu, vui không sân, vui không nộ. Thế nào là không nên quán? Nghĩa là ba điều khổ của Sa-môn. Thế nào là ba? Ðó là quán dục, quán sân, quán nộ.

Thế nào là niệm? Thế nào là không nên niệm? Nghĩa là nên niệm Khổ đế, nên niệm Tập đế, nên niệm Tận đế, nên niệm Ðạo đế; chớ niệm tà đế, chấp kiến thường, kiến chấp vô thường, kiến chấp hữu biên, kiến chấp vô biên; kia là mạng, kia là thân, không phải mạng, không phải thân, Như Lai mạng chung, Như Lai chẳng mạng chung, có chấm dứt, có không chấm dứt, cũng chẳng có chấm dứt cũng chẳng không chấm dứt. Chớ có nghĩ thế.

Thế nào gọi là huấn hối giáo hóa? Lại nữa, nên đi thế này, không nên đi thế này, đến thế này, không nên đến thế này, nên làm thinh, nên nói năng thế này, nên giữ y thế này, chẳng nên giữ y như thế, nên vào làng như thế, không nên vào làng như thế. Ðó gọi là huấn hối giáo hóa.

Bấy giờ Thế Tôn dùng ba việc này giáo hóa ngàn Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo kia nhận lời Phật dạy rồi, ngàn Tỳ-kheo đều thành A-la-hán. Khi ấy, Thế Tôn đã thấy ngàn Tỳ-kheo đắc A-la-hán. Bấy giờ trong cõi Diêm-phù có ngàn La-hán và năm Tỳ-kheo với Phật là sáu. Khi ấy Ưu-tỳ Cù-đàm liền nghĩ: 'Thế Tôn vì sao ngồi hướng về Ca-tỳ-la-vệ?'

Ưu-tỳ Cù-đàm liền quỳ trước Thế Tôn bạch:

- Chẳng rõ Như Lai vì sao ngồi hướng về Ca-ty-la-vệ?

Thế Tôn bảo:

- Như Lai ở đời nên làm năm việc. Thế nào là năm? Nên chuyển Pháp luân, nên thuyết pháp cho cha, nên thuyết pháp cho mẹ, nên dắt dẫn phàm phu lập hạnh Bồ-tát, nên thọ ký Bồ-tát. Ðó là, này Cù-đàm, Như Lai ra đời nên hành năm pháp này.

Ưu-tỳ Cù-đàm lại nghĩ rằng: 'Như Lai nhớ thân tộc và nước của mình nên ngồi hướng về đó'.

Năm Tỳ-kheo dần đến sông Ni-liên, đến chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi ngồi một bên. Lúc ấy Tôn giả Ưu-đà-da-xa thấy Thế Tôn ngồi hướng về Ca-tỳ-la-vệ, thấy rồi bên nghĩ: 'Thế Tôn chắc đang muốn đến Ca-tỳ-la-vệ để gặp thân thích'. Ưu-đà-la đến quỳ trước Thế Tôn bạch:

- Nay con kham nhậm có chỗ muốn hỏi, cúi mong Ngài diễn bày.

Thế Tôn bảo:

- Thầy muốn hỏi gì cứ hỏi.

Ưu-đà-la bạch Thế Tôn:

- Con xem ý Như Lai muốn hướng đến Ca-tỳ-la-vệ.

Thế Tôn bảo:

- Ðúng vậy, như lời Thấy nói. Ưu-đà-la nên biết: Hãy đến chỗ vua Chân Tịnh (Bạch Tịnh) trước, Ta sẽ đến sau. Vì sao thế? Dòng Sát-đế-lợi trước sai sứ báo cho biết, sau đó Như Lai sẽ đến. Thầy đến bảo với vua: Sau bảy ngày, Như Lai sẽ đến gặp vua.

Ưu-đà-da đáp:

- Xin vâng, Thế Tôn.

Ưu-đà-da liền từ chỗ ngồi đứng lên, sửa sang y phục, cúi lạy Thế Tôn, ở trước Thế Tôn biến mất, đến chỗ vua Chân Tịnh, nơi Ca-tỳ-la-vệ, đến rồi, đứng trước vua. Bấy giờ vua Chân Tịnh đang ngồi trên đại điện với các thể nữ. Khi ấy, Ưu-đà-da bay trên không trung, vua Chân Tịnh thấy Ưu-đà-da tay ôm bát, cầm gậy đứng trước. Thấy rồi sợ hãi nói:

- Ðây là ai? Người, Phi nhân, Trời, Quỷ, Dạ xoa, La sát, Trời, Rồng, Quỷ thần chăng?

Vua Chân Tịnh hỏi Ưu-đà-da:

- Ông là ai?

Rồi vua dùng kệ này nói với Ưu-đà-da:

Là Trời hay là quỷ?
Là Càn-thát-bà chăng?
Nay Ông tên là gì?
Nay ta muốn biết vậy.
Ưu-đà-da lại dùng kệ đáp vua:
Tôi cũng chẳng phải Trời,
Chẳng phải Càn-thát-bà
Ở đây nước Ca-tỳ,
Người đất nước Ðại vương,
Xưa diệt mười tám ức
Chúng Tệ ma Ba-tuần,
Thầy tôi Thích-ca văn,
Tôi thật đệ tử Ngài.

Vua Chân Tịnh lại dùng kệ này bảo Ưu-đà-da:

Ai hoại mười tám ức
Chứng Tệ ma Ba-tuần,
Ai tên Thích-ca văn,
Mà nay Ông tán thán?
Ưu-đà-da nói kệ:
Như Lai lúc mới sanh,
Trời đất đều chấn động,
Thệ nguyện tất hoàn thành,
Hôm nay hiệu Tất-đạt.
Ngài hàng mười tám ức
Chúng Tệ ma Ba-tuần,
Ngài tên Thích-ca văn,
Hôm thành Phật đạo.
Người nay cho Thích Sư,
Ðệ tử của Cù-đàm,
Hôm nay làm Sa-môn,
Vốn tên Ưu-đà-da.

Vua Chân Tịnh nghe lời này rồi, vui mừng không kềm được, bảo Ưu-đà-da:

- Thế nào Ưu-đà-da, thái tử Tất-đạt nay có ở đây sao?

Ưu-đà-da đáp:

- Hôm nay Phật Thích-ca Văn hiện có mặt.

Vua hỏi:

- Nay đã thành Phật sao?

- Nay đã thành Phật.

Hôm nay Như Lai lại ở nơi nào?

- Nay Như Lai ở nơi cây Ni-câu-loại nước Ma-kiệt.

- Ðệ tử học theo Ngài là những ai?

- Hàng ức chư Thiên, ngàn Tỳ-kheo và Tứ thiên vương hằng ở bên cạnh.

- Mặc y phục như loại nào?

- Như Lai mặc y phục gọi là ca-sa.

- Ăn thức ăn gì?

- Thân Như Lai lấy Pháp làm thức ăn.

Vua lại hỏi:

- Thế nào Ưu-đà-da, ta có thể gặp được Như Lai chăng?

Ưu-đà-da đáp:

- Vua chớ buồn rầu, bảy ngày sau Như Lai sẽ vào thành.

Vua hết sức vui mừng, không kềm đưọc, tự tay san sớt thức ăn cúng dường Ưu-đà-da. Bấy giờ vua Chân Tịnh đánh trống vang lừng ra lịnh nhân dân trong nước san bằng đường sá, dọn dẹp rác rến, lấy nước thơm rảy trên đất, treo cờ phướn, lọng, xướng kỹ nhạc chẳng thể kể xiết, lại ra lệnh trong nước: 'Những người điếc, đui, câm, ngọng đều không được xuất hiện. Sau bảy ngày Tất-đạt sẽ vào thành'.

Vua Chân Tịnh nghe Phật sẽ vào thành, trong bảy ngày cũng không ngủ nghỉ. Lúc ấy, Thế Tôn đến ngày thứ bảy, liền nghĩ: 'Nay Ta nên dùng sức thần túc để đến nước Ca-tỳ-la-vệ'.

Thế Tôn cùng các Tỳ-kheo, trước sau vây quanh đến nước Ca-tỳ-la-vệ, đến rồi, liền vào trong vườn Tát-lô ở phía Bắc thành. Bấy giờ vua Chân Tịnh nghe Thế Tôn đã đến Ca-tỳ-la-vệ ở trong vườn Tát-lô phía Bắc thành. Lúc ấy vua Chân Tịnh đem dòng họ Thích đến Thế Tôn. Khi ấy, Thế Tôn lại nghĩ: 'Nếu đích thân vua Chân Tịnh đến, đây là điều chẳng nên. Nay Ta nên đến cùng vua gặp gỡ. Vì sao? Phụ mẫu ân nặng, dưỡng dục tình thâm'.

Bấy giờ Thế Tôn đem chúng Tỳ-kheo đến cửa thành, bay trên hư không cách đất bảy nhẫn. Khi ấy, vua Chân Tịnh thấy Thế Tôn đoan chánh vô cùng, thế gian hiếm có, các căn lặng lẽ, không có nhiều niệm. Thân có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, tự trang nghiêm thân, liền phát tâm hoan hỉ, cúi lạy rồi nói:

- Tôi là vua dòng Sát-lợi tên Chân Tịnh.

Thế Tôn bảo:

- Chúc Ðại vương hưởng thọ vô cùng. Thế nên, Ðại vương, hãy dùng Chánh pháp cai trị, chớ dùng tà pháp. Ðại vương nên biết, những người dùng Chánh pháp cai trị, thân hoại mạng chung sanh vào cõi lành, lên Trời.

Lúc ấy Thế Tôn đi trong không trung đến cung vua Chân Tịnh, đến rồi lại tòa ngồi. Vua thấy Thế Tôn ngồi yên, tự tay mình san sớt các thức ăn uống. Thấy Thế Tôn ăn xong thì đem nước sạch đến, rồi vua lấy một chiếc ghế nhỏ ngồi nghe pháp. Bấy giờ Thế Tôn dần dần thuyết diệu nghĩa cho vua Chân Tịnh. Chỗ nói luận là thí luận, giới luận, luận sanh cõi trời, dục là hạnh bất tịnh, xuất yếu là vui.

Bấy giờ Thế Tôn thấy vua tâm ý khai mở. Chư Phật Thế Tôn thuyết pháp Khổ, Tập, Diệt, Ðạo, Ngài đều nói hết cho vua. Lúc ấy vua Chân Tịnh ở trên tòa ngồi, dứt các trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Thế Tôn thuyết pháp cho vua xong, liền từ chỗ ngồi đứng lên đi. Vua Chân Tịnh mới tập họp hết chúng họ Thích mà nói:

- Các Ông Sa-môn mặt mày rất xấu. Dòng Sát-lợi mà cùng chúng Phạm chí, đây thật là chẳng nên. Dòng Thích Sát-lợi lại được chúng Sát-lợi, đây mới là hay.

Các người họ Thích đáp: - Ðúng vậy, Ðại vương! Như Ðại vương bảo, Sát-lợi lại được chúng Sát-lợi, đây thật là hay.

Bấy giờ vua bảo trong nước, những người có hai anh em, hãy để một người hành đạo. Ai không tuân theo sẽ bị phạt nặng. Lúc ấy, dòng họ Thích nghe lịnh vua ban: 'Những người có hai anh em, nên cho một người hành đạo, ai không tuân lời sẽ phạt nặng'. Bấy giờ Ðề-bà-đạt-đa họ Thích bảo Thích A-nan rằng:

- Hôm nay vua Chân Tịnh có dạy rằng mấy người có hai anh em, nên chia một người hành đạo. Nay em xuất gia học đạo, anh sẽ ở nhà sửa sang gia nghiệp.

Bấy giờ A-nan vui mừng hớn hở đáp:

- Em sẽ y theo lời anh bảo.

Khi ấy Nan-đà họ Thích bảo A-na-luật:

- Vua Chân Tịnh có bảo, ai có hai anh em hãy chia một người hành đạo, nếu không nghe sẽ phạt tội nặng. Nay em xuất gia, tôi sẽ ở nhà.

A-na-luật nghe xong, vui mừng hớn hở, không kềm được đáp:

- Vâng, như lời anh bảo.

Bấy giờ vua Chân Tịnh cùng Thích Hộc Tịnh, Thích Thúc Tịnh, Thích Cam Lồ đến chỗ Thế Tôn.

Khi ấy các vua cỡi xe tứ mã, xe trắng lọng trắng, ngựa trắng đóng vào xe. Họ Thích thứ nhì đi xe xanh, lọng xanh, đóng ngựa xanh. Họ Thích thứ ba đi xe vàng, lọng vàng, đóng ngựa vàng. Họ Thích thứ tư đi xe đỏ, lọng đỏ, đóng ngựa đỏ. Lúc ấy, họ Thích có người cỡi voi, có người cỡi ngựa, đều đến tụ tập.

Thế Tôn xa trông thấy vua Chân Tịnh đem các Thích chúng đến, liền bảo các Tỳ-kheo:

- Các Thầy hãy xem các Thích chúng này và xem chúng vua Chân Tịnh. Tỳ-kheo nên biết, Trời ba mươi ba lúc dạo vườn xem cũng như lối này không khác.

Bấy giờ A-nan cỡi voi trắng lớn, áo trắng, lọng trắng. Phật thấy rồi bảo các Tỳ-kheo:

- Các Thầy có thấy A-nan cỡi voi trắng mặc áo trắng không?

Các Tỳ-kheo đáp:

- Thưa vâng, Thế Tôn, chúng con có thấy.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Người này sẽ xuất gia học đạo, là người đa văn đệ nhất, kham hầu cận bên Ta. Các Thầy thấy A-na-luật này chăng?

Các Tỳ-kheo đáp:

- Thưa vâng, đã thấy.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Người này sẽ xuất gia học đạo, là thiên nhãn đệ nhất.

Bấy giờ vua Chân Tịnh và bốn anh em cùng với Nan-đà, A-nan đều bước đến trước, trừ bỏ năm món trang sức, đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên. Lúc ấy, vua Chân Tịnh bạch Phật:

- Ðêm qua tôi nghĩ: 'Chúng Sát-lợi chẳng nên cùng chúng Phạm chí, mà nên cùng chúng Sát-lợi. Ðây mới thích nghi'. Tôi liền ra lệnh trong nước, ai có hai anh em, liền chọn một người cho xuất gia học đạo. Cúi mong Thế Tôn cho họ xuất gia học đạo.

Thế Tôn bảo:

- Lành thay, Ðại vương! Việc này có nhiều lợi ích, Trời, Người được an. Vì sao như thế? Thiện tri thức này là ruộng phước tốt lành. Tôi cũng nhờ Thiện tri thức mà thoát được sanh, già, bệnh, chết này.

Bấy giờ các chúng họ Thích liền được hành đạo. Vua Chân Tịnh bạch Thế Tôn:

- Cúi mong Thế Tôn, dạy dỗ các tân Tỳ-kheo này sẽ như dạy dỗ Ưu-đà-da. Vì sao thế? Tỳ-kheo Ưu-đà-da này rất có thần lực, xin cho Tỳ-kheo Ưu-đà-da hằng ở trong cung giáo hóa, khiến chúng sanh được an ổn lâu dài. Vì sao thế? Tỳ-kheo này rất có thần lực, tôi vừa thấy Tỳ-kheo Ưu-đà-da liền phát tâm hoan hỉ, tôi liền nghĩ: 'Ðệ tử còn có thần lực, huống Như Lai kia lại không có thần lực này sao?'

Thế Tôn bảo:

- Ðúng thế, Ðại vương! Như Ðại vương nói, Tỳ-kheo Ưu-đà-da này rất có thần lực, có oai đức lớn.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Ðệ tử bậc nhất về biết rộng hiểu nhiều, được quốc vương nhớ đến là Tỳ-kheo A-nhã Câu-lân, khuyến hóa nhân dân là Tỳ-kheo Ưu-đà-da. Có trí mau lẹ là Tỳ-kheo Ma-ha-nam. Hằng ưa phi hành là Tỳ-kheo Tu-bà-hưu. Qua lại trên không là Tỳ-kheo Bà-phá. Có nhiều đệ tử là Tỳ-kheo Ưu-tỳ Cù-đàm. Ý được quán không là Tỳ-kheo Giang Cù-đàm. Ý được chỉ quán là Tỳ-kheo Tượng Cù-đàm.

Lúc ấy Thế Tôn rộng thuyết pháp vi diệu cho vua Chân Tịnh. Vua nghe pháp xong liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi lạy rồi lui đi.

Bấy giờ các Tỳ-kheo và vua Chân Tịnh nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29919)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27208)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21808)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22269)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23646)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20469)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20081)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21971)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24787)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19026)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24798)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 31014)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24024)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27797)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26565)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21385)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23251)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38190)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18821)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18455)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20014)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19075)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23212)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23919)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22849)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22962)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29622)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20659)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18746)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15873)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18881)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19710)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20196)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19980)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18151)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22984)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34218)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16451)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16952)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39303)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26128)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20136)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18885)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24104)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29182)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22931)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 31004)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21047)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26892)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20715)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26293)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23363)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19846)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24708)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30057)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20250)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20438)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15169)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15855)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23935)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant