Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần Tìm Hiểu về Phẩm 1: Nhân Duyên

02 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8463)
Phần Tìm Hiểu về Phẩm 1: Nhân Duyên

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN
VIMUTTI MAGGA
Thiện Nhựt chuyển dịch sang tiếng Việt

Phần 2: PHẦN TÌM HIỂU

Phần Tìm Hiểu về Phẩm 1: Nhân Duyên


001. Ý chánh của Phẩm 1: Nhân duyên.

Muốn cởi bỏ mọi khổ đau ràng buộc, dứt sự sợ hãi về sống chết, và đến được cõi Niết-bàn an lạc, thì phải thấu hiểu Tam tạng Kinh điển dạy rõ con đường giải thoát. Con đường ấy trải qua ba chặng: Giới, Định, Huệ.

002. Tóm tắt Phẩm 1: Nhân duyên.

Phẩm Nhân duyên mở đầu bằng bài Kệ khen ngợi công đức của Đức Phật đã giác ngộ được pháp Giải Thoát cao cả nên xứng danh là đấng Thế tôn (= được cả thế gian tôn trọng).

Sau khi cắt nghiã bài Kệ, vạch rõ thế nào là Giới, Định, Huệ, Phẩm (1) nầy gồm có các đoạn chánh sau đây:

1. Giải thoát đạo gồm có năm phần:

11. Phục giải thoát,
12. Bỉ phần giải thoát,
13.
Đoạn giải thoát,
14. Khinh an giải thoát,
15. Xuất ly giải thoát.

2. Mục đích việc giảng Giải thoát đạo là chỉ rõ con đường giải thoát cho ai còn chưa hiểu hay đã hiểu lầm, tựa như chỉ đường đi nước bước cho người đi xa chưa rành xứ lạ.

3. Theo Phục giải thoát, thì cần phải học ba môn học:

31. Giới họcTăng thượng Giới học,
32. Tâm họcTăng thượng Tâm học,
33. Huệ họcTăng thượng Huệ học.

4. Ích lợi thứ nhứt của việc tuân theo Phục giải thoát thành tựu được ba ấm: Giới, Định, Huệ.

41. Giới ấm gồm có: chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng;
42. Định ấm gồm có:chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định;
43. Huệ ấm gồm có: chánh kiến, chánh tư duy.

5. Ích lợi thứ nhì là thành tựu được ba sự thanh tịnh: (1) giới thanh tịnh, (2) tâm thanh tịnh, (3) tri kiến thanh tịnh.

6. Ích lợi thứ ba là được ba điều thiện (= ba điều lành):

61. sơ thiện là Giới, điều lành ở bước đầu,
62. trung thiện là Định, điều lành ở giai đoạn giữa
63. hậu thiện là Huệ, điều lành ở giai đoạn cuối.

7. Ích lợi thứ tư là được ba niềm vui:

71. vô quá lạc, vui vì chẳng hề phạm tội lỗi,
72. tịch diệt lạc, vui vì được yên tịnh, an ổn,
73. chánh giác lạc, vui vì hiểu rõ Chánh pháp.

8. Ích lợi thứ năm là theo đúng con đường Trung đạo, xa lìa được nhị biên (= hai bên, tức là một bên theo sự ham muốn vui sướng [tham lợi dưỡng], còn một bên là ép xác cực khổ [ tu khổ hạnh quá mức ]).

9. Theo Phục giải thoát, tu học Giới Định Huệ, sẽ đắc được các quả:

91. Tu-đà-huờn và Tư-đà-hàm, nếu tu nhiều Giới mà ít Định và Huệ,
92. A-na-hàm, nếu tu nhiều Giới và Định, mà Huệ ít hơn,
93. A-la-hán, nếu tu cả ba đồng đều và đầy đủ.

003. Giải nghiã các chữ khó trong Phẩm 1:

Giải thoát đạo Luận: Giải = cởi mở; thoát = tránh khỏi; đạo = con đường, đường lối, cách thức; Luận = bộ Luận, tức là quyển sách do bực A-la-hán, Bồ-tát, viết để giảng rõ thêm về Chánh pháp nói trong Kinh. Bộ Luận nầy do Ngài A-la-hán Ưu ba đế sa (Upatissa, trùng tên với Ngài Xá-lợi-phất, Sariputta), viết có lẽ vào đầu thế kỷ thứ nhứt bằng tiếng Pàli, được dịch sang chữ Hán có lẽ vào thế kỷ thứ sáu, do Tam tạng pháp sư Tăng già bà la (Tipitaka Sanghapàla), ở đất Phù Nam, nước Lương [xin dè dặt về thời điểm và điạ danh]. Nguyên tác bằng tiếng Pàli đã bị mất hẳn, nên các tu sĩ Phật giáoTích lan đem bản chữ Hán trong Đại tạng, dịch ngược trở lại tiếng Pàli, nhan đề Vimutti Magga. Bản dịch Anh văn được Buddhist Publication Society ở Sri Lanka ấn hành năm 1961 dưới nhan đề là The Path of Freedom. Bản dịch của Thiện Nhựt căn cứ trên bản Hán văn trong bộ Càn Long Đại Tạng Kinh, quyển số 103, từ trang 620 đến trang 755 và quyển số 104, tiếp theo, từ trang 001 đến hết trang 048.

Nhân duyên: Nhân = nguyên nhân chánh, cớ chánh; duyên = nguyên nhân phụ, cớ phụ, còn gọi là điều kiện, nếu chẳng có đủ thì chẳng có kết quả sanh ra. Ở Phẩm nầy, chữ Nhân duyên có nghiã là các lý do vì đâu mà tác giả đã viết ra bộ Luận nầy.

Thế tôn: Thế = thế gian; tôn = trọng; đấng được cả thế gian tôn kính. Ở đây, chữ Thế tôn dành cho Đức Phật Thích-ca. Lúc Đức Phật còn sống, Ngài tự xưng là Như Lai, còn các đệ tử gọi Ngài là Thế tôn.

Ứng cúng: Ứng = xứng đáng, đáng nhận; cúng = đem lễ vật dâng hiến, cúng. Các bực Thánh xứng đáng nhận sự cúng dường của người khác, nên gọi là bực ứng cúng.

Chánh biến tri: Chánh = chơn chánh, đứng đắn; biến = cùng khắp, chẳng sót; tri = biết. Chánh biến tri là sự hiểu biết chơn chánh tất cả mọi sự vật, chẳng sót sự vật nào. Cùng với Ứng cúng, chữ Chánh biến tri là một danh hiệu của Đức Phật. (Phẩm 8: Hành môn, Chi 3 về Niệm Phật sẽ giải thích rõ về Mười Danh hiệu của Phật).

Vô thượng: Vô = chẳng có; thượng = ở trên; Vô thượng là cao hết sức cao, chẳng còn gì cao hơn nữa.

Hữu xứng: Hữu = có; xứng = hay là xưng, xưng tán, khen ngợi. Ở đây có nghiã là xứng đáng được tôn xưng.

Tâm trí ưu thắng: ưu thắng = tốt hơn, cao hơn; có tâm trí vượt lên trên hạng người thường.

Niết-bàn: phiên âm chữ Pàli Nibbàna, nghiã gốc là ra khỏi rừng u tối, nghiã giáo lý là đã trừ diệt xong các phiền não, chứng được vô sanh (= chẳng còn phải tái sanh lại nữa). Tiếng Phạn là Nirvana. Có hai cõi Niết-bàn; khi còn sống gọi là Hữu dư Niết-bàn; đến khi lià đời thì vào cõi tịch diệt của Vô dư Niết-bàn.

Tam tạng Kinh điển: Luật tạng, Kinh tạngLuận tạng: Tam = ba; tạng = cái giỏ đựng sách; còn có nghiã là kho tàng (chứa Kinh sách); Kinh = nói gọn là, lời Đức Phật giảng về Chánh pháp; điển = sách làm chuẩn, ghi phép tắc. Tam tạng Kinh điển là kho tàng sách vở giáo lý, gồm có ba tạng là Luật tạng, nói về Giới luật; Kinh tạng, gồm các bộ Kinh dài ngắn; và Luận tạng, các bộ Luận giải thêm ý nghiã trong Kinh.

Uy nghi: oai nghi: Chữ nầy được dùng theo như một danh từ, hoặc theo như một tĩnh từ. Danh từ uy nghi chỉ cho bốn tư thế đi, đứng, nằm, ngồi; còn gọi là bốn oai nghi. Tĩnh từ uy nghi có nghiã là đàng hoàng trong tư cách, trang nghiêm. Ở đây, chữ uy nghi được dùng theo cả hai nghiã.

Loạn động: xao động, chẳng yên. Nói về tâm lăng xăng, chạy tới chạy lui. Trái nghiã với nhứt tâm bất loạn.

Vô lậu: Vô = không; lậu = rỉ chảy. Chữ nầy được dùng theo nghiã bóng, chỉ các phiền não bên trong bộc lộ ra, như chất máu mủ rỉ chảy ngoài da. Vô lậu có nghiã là dứt sạch các phiền não. Trái nghiã với chữ hữu lậu, còn phiền não.

Thử pháp: Thử = đó, kia; Pháp = pháp tu. Chữ Pháp có ba nghiã: (1) nghiã thường, pháp pháp luật, luật lệmọi người phải tuân theo; (2) nghiã thứ nhứt trong Phật học là những pháp tu, lời dạy để tu hành. Thí dụ: Chánh pháp, Đạo pháp. (3) Nghiã thứ hai trong Phật học là tất cả sự vật mà ta có thể đặt tên để gọi. Thí dụ như căn nhà, ngọn núi, con người, thú vật, đều được Phật học gọi là những pháp. Ở đây, hai chữ thử pháp, nghiã là, pháp đó, tức là cái pháp tu được nói đến.

Trong bài Kệ, chữ Thử pháp, pháp đó, nói đến Tứ Thánh pháp, tức là bốn Chơn lý Nhiệm mầu, là Tứ Diệu Đế.

Tứ Thánh pháp: Tứ = bốn; Thánh = bực Thánh, bực tu hành đã đắc Đạo; pháp = pháp tu. Bốn pháp đó còn gọi là Tứ Diệu Đế, gồm có: (1) Khổ đế = Chơn lý về sự khổ; (2) Tập đế = Chơn lý về nguồn gốc gây ra sự khổ; (3) Diệt đế = Chơn lý về sự tận diệt được sự khổ; (4) Đạo đế = Chơn lý về con đường tu tập để tiêu diệt hết sự khổ. Tứ Diệu Đế được Đức Phật Thích-ca giảng rõ trong bản Kinh đầu tiên của Ngài là Kinh Chuyển Pháp luân (= Kinh chuyển bánh xe Pháp).

Cồ-đàm: phiên âm chữ Gotama, họ của Đức Phật Thích-ca.

Công đức thù thắng: được sự ích lợi to lớn nhứt.

Phiền não: các điều làm cho mình phải lo lắng, đau khổ. Có ba phiền não chánh: tham, sân (giận) và si (ngu tối), thường được gọi là tam độc, tức là ba món độc hại cần trừ bỏ.

Phục giải thoát: Phục = điều phục, bắt phải theo lịnh mình, tức là dẹp cho yên ổn. Giải thoát = cởi mở ra cho được tự do. Phục giải thoát là giai đoạn đầu của Giải thoát đạo, con đường đưa đến tự tại, tự mình làm chủ lấy mình, chẳng bị ràng buộc gì nữa. Phục, đây là điều phục các triền cái.

Triền cái: Triền = vây quấn xung quanh; cái = che úp lại. Triền cái, theo nghiã Phật học, là năm món che úp: (1) tham dục (= ham muốn), (2) sân khuể (= giận hờn), (3) giải đãi (= lười nhác), (4) trạo (hay điệu, vụt chạc, xao động) và hối (= hối tiếc), (5) nghi. Năm món nầy (thật ra có tới bảy món) làm chướng ngại cho việc tu đắc Sơ thiền (= thiền thứ nhứt).

Bỉ phần giải thoát: Bỉ = kia, đó; phần = một phần trong toàn thể; Bỉ phần giải thoát là đắc được một phần giải thoát, phần đó là Định, tâm bớt xao động, biết dừng lại.

Khinh an giải thoát: Khinh = nhẹ nhàng; An = yên ổn; Khinh an tình trạng của thân và tâm cảm thấy nhẹ nhàng và an ổn. (Trong bản dịch chữ Hán, ghi là giải thoát.)

Tri kiến: Tri = biết; kiến = thấy; Tri kiến là các điều mình thấy và biết rõ.

Đoạn giải thoát: Đoạn = cắt đứt thành từng đoạn; đoạn trừ. Đây là giai đoạn dẹp bỏ các kết sử, để được tự do.

Kết sử: còn gọi là kiết sử. Kết = tụ tập, kết hợp lại; Sử = sai khiến, sai sử. Kết sử là mười phiền não có khả năng sai khiến mình phải hành động hay nói năng theo hướng các phiền não đó; thí dụ kết sử giận sai khiến mình phải to tiếng, quát tháo, đánh đập, phá hủy. Có mười kết sử: (1) tham (2) sân (= giận), (3) si (= si mê), (4) mạn (= kiêu căng, phách lối), (5) nghi, (6) tà kiến (= ý nghĩ sái quấy), (7) giới cấm thủ (= các giới cấmnghi thức cúng tế của ngoại đạo, đầy vẻ mê tín), (8) tật (= ganh ghét, đố kỵ), (9) khan (= keo kiệt) và (10) hữu kết (= tham muốn được sống mãi; hữu = cuộc sống hiện nay).

Xuất thế gian: Xuất = ra khỏi; Thế gian = cõi sống ở trần gian nầy. Xuất thế có nghiã là tu hành để vượt qua được cuộc sống ở thế gian. Trái nghiã với chữ tại thế, thế tục.

Quả vị: Tu hành theo pháp thành công là chứng được Đạo (tiếng Pàli là Magga). Tu hành được viên mãn chứng đắc được bực Thánh, gọi là đắc quả vị (tiếng Pàli là Phala). Hai chữ Đạo quả có nghiã là, Đạo nguyên nhân khởi việc tu, Quả là kết quả việc tu đã xong. Vị là ngôi vị, cấp bực.

Trần lao: Trần = bụi bặm; lao = khổ nhọc; Trần lao chỉ các chỗ khổ sở, nhọc nhằn, dơ bẩn trong cuộc đờithế gian.

Thoái chuyển: Thoái = thối = lùi trở lại; chuyển = di động, chuyển động. Thoái chuyển là lùi sụt.

Bất chánh: Bất = chẳng; Chánh = đứng đắn, chơn chánh, ngay thẳng. Trái nghiã với chơn chánh.

Thiền: (tiếng Pàli là Jhàna) phương pháp tu hành để tâm được Định. Có bốn cấp Thiền: (1) Sơ thiền, (2) Nhị thiền, (3) Tam thiền, và (4) Tứ thiền. Có nơi còn thêm Ngũ thiền nữa.

Ấm = Uẩn = sự nhóm họp, kết tụ lại nhiều thứ. Vì tụ lại lắm thứ nên có sự lẫn lộn che mờ. Thường nói Năm Ấm hay Ngũ uẩn, để chỉ thân tâm nầy gồm có năm phần: (1) sắc ấm (phần vật chất), (2) thọ ấm (các cảm giác), (3) tưởng ấm (các tri giáctư tưởng, (4) hành ấm (các hành động của thân và của tâm) và (5) thức ấm (các sự hiểu biết).

Ở đây, nói ba ấm: giới ấm, định ấm và huệ ấm, chữ ấm được dùng với nghiã là tụ lại, nhóm họp.

Thành tựu: thành công, làm thành được.

Chánh ngữ: lời nói chơn chánh.

Chánh nghiệp: Nghiệp = chữ Pàli là Kamma, chữ Phạn là Karma, chỉ tất cả các hành động và lời nói đã làm hay nói, trong thời gian đã qua, tạo thành nghiệp, khiến cho mình nay được sung sướng hay khổ cực. Nghiệp sức mạnh dẫn dắt chúng sanh đi tái sanh trong vòng Luân hồi, sanh ra lớn lên rồi chết và phải sanh trở lại nữa, lẩn quẩn mãi chẳng dứt. Ở đây, chữ Chánh nghiệp có nghiã là nghiệp chơn chánh, sẽ dắt ta sanh theo đường lành.

Chánh mạng: có nghề nghiệp chơn chánh để nuôi mạng sống.

Chánh tinh tấn: sự cố gắng đúng đắn, chơn chánh.

Chánh niệm: Chánh = chơn chánh, đúng đắn; Niệm = một ý tưởng khởi lên ngay lúc nầy trong tâm; Chánh niệm ý tưởng khởi lên trong tâm, ngay trong lúc mình đang làm gì thì biết mình đang làm việc ấy. Người chánh niệm đang tụng Kinh, biết mình đang đọc tới câu nào, chữ nào; trái với người thất niệm, miệng đọc Kinh mà tâm đang nghĩ đến việc khác.

Chánh định: Định = dừng lại, trụ lại, chuyên vào một việc đang suy nghĩ. Chánh định tình trạng tâm an ổn của người đang dừng lại sự suy nghĩ.

Chánh kiến: ý kiến chơn chánh, tri kiến(= hiểu biết) chơn chánh. Trái nghiã với tà kiến (= ý tưởng sái quấy), với vọng tưởng (= ý nghĩ mơ vọng, chẳng đúng đắn, chẳng hợp với lúc đang suy nghĩ, lạc ra ngoài đề).

Chánh tư duy: Tư duy = suy nghĩ; Chánh tư duy là có sự suy nghĩ đứng đắn, chơn chánh, nghiã là theo đúng Chánh pháp.

Giới học: học về Giới luật tu hành theo đạo Phật. Có 10 giới của Sa-di (= người mới vào chùa tu), 250 giới của Tỳ-kheo (nam tu sĩ thọ Cụ túc giới [ = Giới đầy đủ ], chánh thức gia nhập Tăng đoàn), và 348 giới của Tỳ-kheo ni (nữ tu sĩ thọ Cụ túc giới). Cư sĩ tu tại nhà có 5 giới; Cư sĩ thọ Bồ-tát giới có 40 giới.

Tăng thượng: Tăng = tăng thêm; thượng = cao hơn. Tăng thượng giới là các giới luật cao hơn dành cho bực Thánh.

Giới tướng: Giới = điều răn cấm trong Đạo Phật; Tướng = hình tướng, hình thức. Thí dụ: giới sát sanh giới tướng là chẳng cầm dao giết hại chúng sanh.

Dục giới: Chữ Giới nầy khác nghiã với chữ Giới là điều răn cấm. Giới trong chữ Dục giới, có nghiã là cõi, lãnh vực; Dục ham muốn. Cõi dục giới là cõi chúng ta đang sống, còn nhiều ham muốn. Có ba cõi, hay là tam giới: dục giới, sắc giới (= cõi còn hình sắc, nhưng hình sắc tế nhị hơn ở cõi dục giới), và vô sắc giới (= cõi chẳng còn hình sắc, chỉ còn tư tưởng mà thôi)

Sắc giới: Cõi cao hơn cõi Dục giới, chẳng còn ham muốn, có hình sắc nhưng tế nhị hơn cõi Dục giới.

Vô sắc giới: Cõi cao nhứt trong ba cõi, chẳng có hình sắc, chỉ còn tư tưởng.

Tương tự trí: Tương tự = giống y với, chẳng khác. Tương tự trí là trí đã thông hiểuba mươi bảy phẩm trợ đạo Bồ-đề (Các Phẩm sau của bộ Luận sẽ chỉ rõ 37 phẩm trợ đạo).

Đạo trí: Đạo = ở đây chữ Đạo có nghiã là con đường tu hành để đắc được bốn quả hàng Thanh văn (tức là Tu-đà-huờn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán). Chữ Đạo nầy được dùng trong chữ đạo quả (đạo = magga, quả = phala). Như thế, Đạo trí là trí biết rõ và thực hành theo đúng đường lối tu hành hàng Thanh văn (Pàli: Sàvaka, tu sĩ nghe Kinh Phật dạy để tu.)

Độn căn: Độn = trì độn, chậm lụt; Căn = gốc, tức là vốn liếng hiểu biết. Người độn căn là người có căn cơ chậm lụt, thông minh kém cỏi.

Lợi căn: Lợi = sắc bén. Lợi căn nói đến người thông minh nhiều, hiểu nhanh các điều được chỉ dạy.

Khả học: Khả = có thể, nên phải. Điều khả học là điều phải nên học hỏi thêm.

Như thị học: Như thị = như thế, nghiã là, như thế nào thì thấy và hiểu đúng như thế ấy, theo đúng Chơn lý. Như thị học là cái học về Chơn lý.

Hữu họcVô học: Đây là nói về hai hạng người. Người hữu học là người còn nhiều điều phải học thêm; ý muốn nói chưa biết cách diệt trừ các phiền não. Còn người vô học, chẳng phải là người chẳng học gì ráo, vì đó là người thất học, chớ chẳng phải là người vô học. Vô học là học xong và thực hành đầy đủ việc diệt trừ các phiền não, nên chẳng điều gì phải học thêm nữa. Như thế, hữu học còn thấp hơn vô học.

Thanh tịnh:Thanh = trong, chẳng đục; Tịnh = sạch sẽ. Giới thanh tịnh giữ gìn giới luật chặt chẽ chẳng sơ hở, chẳng hề phạm giới. Tâm thanh tịnh là lòng trong sạch, chẳng vướng bận ý nghĩ xấu ác, chẳng có vọng tưởng. Huệ thanh tịnh là trí sáng suốt chẳng bị các tà kiến che mờ, khiến cho Trí huệ Bát-nhã chiếu sáng lên, vẹt được sự vô minh (= sự ngu tối).

Tẩy trừ: gột rửa cho sạch, dẹp bỏ chỗ dơ xấu.

Cấu nhiễm: Cấu = cặn cáu dơ bẩn; Nhiễm = dính dơ

Triền cấu: Xin xem lại chữ Triền cái.

Vô tri cấu: Vô tri = chẳng biết; Cấu cặn bã dơ dáy. Vô tri cấu tức là sự ngu dốt, thiếu sự hiểu biết.

Ác nghiệp: Nghiệp ác là vì các hành động xấu ác đã qua khiến phải sanh vào ba đường dữ (= tam ác đạo: điạ ngục, ngạ qủi [ = qủi đói] và súc sanh [ = thú vật].)

Ba điều lành: Nguyên văn chữ Hán là tam chủng Thiện, ba loại thiện. Ở đây có nghiã là việc tu tập theo Giải thoát đạo qua ba giai đoạn tạo thành ba điều lành; đúng ra đó là một điều lành trải qua ba giai đoạn. Giai đoạn đầu được gọi là Sơ thiện, khi giữ Giới được thanh tịnh; giai đoạn giữa được gọi là Trung thiện, khi tâm đắc được Định, ý nghĩ dừng lại, chẳng còn lăng xăng nữa và nhờ đó đến giai đoạn chót, gọi là Hậu thiện, Trí Huệ chiếu sáng lên dẹp xong các tà kiến, khiến cho tri kiến được thanh tịnh, lià xa các ham muốnđược giải thoát. Chữ Thiện, trong Hán văn, còn có nghiã là khéo léo, cho nên Kinh sách thường nói, lời giảng pháp của Đức Phật đều được sơ thiện, trung thiện và hậu thiện, có nghiã là Ngài khéo nói ở đoạn đầu, khéo nói ở đoạn giữa, và cũng khéo nói ở đoạn cuối.

Vô quá lạc: Vô = chẳng có; Quá = lỗi lầm, quá thất; Lạc = vui. Vô quá lạc là niềm vui trong lòng khi nhận thấybiết mình chẳng có lỗi lầm chi cả.

Tịch diệt lạc:Tịch = yên lặng, lặng lẽ; Diệt = tiêu mất. Tịch diệt lạc là niềm vui thấy thân tâm được an ổn, nhẹ nhàng, như đang trong cõi tịch diệt (= yên lặng) của Niết-bàn.

Chánh giác lạc: Chánh giác = sự giác ngộ chơn chánh, tức là hiểu và áp dụng đúng theo Chánh phápchứng đắc được. Chánh giác lạc là niệm vui được giác ngộ, hiểu theo nghiã biết rõ cả Chơn lý.

Trung Đạo: Trung = ở giữa. Đạo = con đường, đường lối. Trung Đạo con đường tu tậpĐức Phật đã vạch ra trong Bát Chánh Đạo, theo đó người tu hành tránh xa hai cực đoan: (1) tham lợi dưỡng, ham hưởng thú vui vật chất, và (2) khổ hạnh, tu hành ép xác cực khổ, tưởng rằng nhờ đó mà mau đắc quả. Hai cực đoan, lợi dưỡngkhổ hạnh, còn được gọi là nhị biên. [ Đừng lầm với Đạo Trung dung của Nho giáo].

Nhị biên: Nhị = hai; Biên = biên giới; Nhị biên thường được dịch là hai bên; còn ở giữa chính là con đường Trung Đạo, tránh được hai bên. Nhưng chữ nhị biên, hai bên còn có nghiã khác, chỉ cho hai tà kiến trái ngược hẳn nhau: thường kiến đoạn kiến. Chống lại vô thường kiến (tư tưởng Phật học cho rằng muôn sự đều biến đổi để đi đến hoại vong), thường kiếný kiến tin rằng chẳng có sự thay đổi, hễ đã là người rồi thì chết đi, lại sanh ra làm người nữa. Còn đoạn kiến thì cho rằng chết đi là hết, chẳng có Luân hồi sanh tử chi cả. Cả hai tà kiến đoạn kiếnthường kiến khi tu theo đạo Tu-đà-huờn thì dẹp được hết, cùng với thân kiến (= chấp thân nầy là Ta).

004. Suy gẫm về Phẩm 1: Nhân duyên của bộ Luận Giải thoát đạo nầy.

Sau khi đọc kỹ bản dịch Việt văn về Phẩm 1, tìm hiểu nghiã chữ khó và sắp xếp ý tưởng trình bày trong Phẩm thành một dàn bài chi tiết, ta bắt đầu suy gẫm về Phẩm 1 nầy.

Suy gẫm về ý nghiã của một bài văn là tìm hiểu hứng thú của bài văn đó. Suy gẫm về ý nghiã của một bản Kinh, hay một bản Luận, là tìm thấy, qua sự suy nghĩ của chính mình, nghiã lý đã được bản Kinh, Luận nói đến và rút ra bài học cho chính bản thân mình, để ứng dụng tu tập. Như thế, việc đọc Kinh, Luận chẳng giống với việc đọc các bài văn thơ, là ở chỗ tìm thấy ra ích lợi thiết thực trong việc tu tập. Biết rút ra được một vài điều có ích cho việc tu tập, đó là đang nếm pháp vị của bản Kinh hay bản Luận. Nhắc lại lời Đức Phật có nói, như nước biển chỉ có một mùi vị là mặn, Chánh pháp cũng chỉ có một vị, đó là vị giải thoát. Như thế, việc đọc tụng một bản Kinh chưa đủ, việc học thuộc lòng một bản Kinh vẫn chưa đủ, việc tìm hiểu ý nghiã của bản Kinh cũng vẫn chưa đủ, còn phải biết cách tự mình suy gẫm để nếm pháp vị của bản Kinh, Luận đó nữa.

Suy gẫm về "Phẩm 1: Nhân duyên" nầy, xin nêu ra các ý nghĩ cá nhơn thô thiển sau đây:

1) Toàn thể bộ Luận đều nói đến sự giải thoát; Phẩm 1 đưa ra các lý do tại sao phải tìm đường giải thoát giải thoát bằng cách nào. Luận văn ghi rõ: "... muốn cởi được mọi ràng buộc, muốn thành tựu tâm trí ưu thắng dứt sợ hãi về sanh, già, chết, muốn vui giải thoát đạt tới Niết-bàn ..." ba điểm giải thoát, một gần và hai xa. Gần là cởi mọi ràng buộc; xa là có được tâm trí ưu thắng dứt sợ hãi về sống chết, đạt tới Niết-bàn. Ngay trong lúc nầy, tưởng chỉ nên chú trọng đến một điểm gần mà thôi, để chấm dứt mọi ràng buộc. Đến khi tu tậptiến bộ, tự nhiên sẽ thấy hai điểm xa tuy khó mà cũng có thể hi vọng thành tựu được ít nhiều.

2) Thắc mắc thứ nhứt: nào ai trói buộc tôi mà gọi là tôi bị ràng buộc?

Đáp: Sự ràng buộc nằm bên trong mỗi người. Khi giận, thì có hành động, lời nói như thế nào? Phải chăng giận run lên, đỏ mặt tiá tai, miệng quát tháo, tay đập phá. Đó là tâm giận đã sai khiến mình có thái độ, lời nói và hành động thiếu mất bình tỉnh như vậy. Tâm giận đó nằm bên trong lòng mình, được Kinh sách gọi là một kết sử, cái sự ràng buộc sai khiến mình có tư cách thiếu đúng đắn. Thử nhìn vào trong lòng mình, thật thà mà xét đến thái độ của chính mình, thì thấy ra chính mình đang bị ràng buộc bởi mười kết sử. Việc gần cần làm ngay là phải tìm cách, và áp dụng cách đó, để ngăn chặn các mối ràng buộc ấy. Đấy là đang tu tập theo Phục giải thoát được nói trong Luận văn. Phục, có nghiã là điều phục, là chính mình làm chủ lấy tâm mình, khiến cho cơn giận chóng qua đi mà chẳng gây ra tai hại cho kẻ khác và cho cả chính mình nữa (Khi giận, thân tâm chẳng vui sướng gì đâu!).

3) Thắc mắc thứ hai: Có người sanh ra trên nhung lụa, sống sung sướng cả đời, bị khổ gì đâu mà cần giải thoát?

Đáp: Bất luận là ai, giàu sang, quyền thế mấy đi nữa, cũng có lúc đau ốm, và chắc chắn rồi sẽ lo sợ khi phải chết. Đã có thân tâm nầy, tất chẳng ai tránh được sự lo lắng về bịnh tật, già yếu chết chóc. Phương tiện y khoa có thể trị lành bịnh, kéo dài cuộc sống được, nhưng sự lo lắng khi bịnh, lúc già, cảnh chết, chẳng có cách nào làm cho dứt hẳn được. Nhưng Kinh Luận Phật học dạy cách làm cho tâm chẳng quá lo lắng về ba cái khổ đó. Dạy cách nào? Bộ Luận Giải thoát đạo nầy sẽ lần lượt chỉ rõ cách khiến cho tâm trí sẵn sàng đối phó với cái khổ tinh thần đó: trên cái đau về thân xác, chẳng chồng thêm lên cái khổ tâm linh. Khi đã học đến làm thế nào để có được tâm trí ưu thắng dứt sợ hãi, sẽ thấy bộ Luận nầy dạy ta cách thực tế nhứt để vượt qua được việc "đau và khổ" đó.

4) Thắc mắc thứ ba: đọc qua Phẩm 1, thấy nói đến năm phần giải thoát, sao chỉ thấy giảng rộng về Phục giải thoát thôi, còn các thứ giải thoát khác chẳng thấy nói đến?

Đáp: Dụng ý của tác giả là nói đến việc gần trước, rồi các Phẩm sau sẽ khai triển thêm về các giai đoạn giải thoát khác. Vả lại, khi đã điều phục được thân tâm nầy, diệt xong các kết sử, các phiền não khác, tự nhiên tâm trí sáng suốt hơn mà nhìn thấy rõ con đường giải thoát ở mức trọn vẹn như thế nào, và cần còn phải làm những gì thêm nữa, sau khi đã tu tập kỹ về Phục giải thoát.

5) Thắc mắc thứ tư: Vừa đọc qua mấy trang đầu trong Phẩm 1, tôi bị tràn ngập bởi các danh từ chuyên môn về Phật học, làm sao mà nhớ được chừng ấy chữ, chừng ấy ý, để ứng dụng tu hành?

Đáp: Các danh từ Phật học đã được giải thích một cách rất tóm tắt trong Phần Tìm hiểu. Nếu đi sâu vào chi tiết các danh từ nầy, chắc sự tràn ngập còn lên cao hơn nữa. Trong buổi đầu, xin tạm nhớ chừng ấy, hay ít hơn cũng được; miễn là mỗi khi thấy còn thắc mắc thì giở ra xem lại. Nhờ xem lại thường mà chẳng cần học thuộc lòng, cũng nhớ đúng được.

Một điều quan trọng xin nêu lên: trong khi học Kinh sách Phật, xin đừng để các danh từ làm mình rối trí thêm, vấn đề chánh là tìm hiểu được ý chánh nói trong đoạn đang đọc. Ý nghiã mới quan trọng, giúp mình biết cách ứng dụng, xin đừng bắt chước những người thường hay dùng các tiếng dao to búa lớn, nói nhiều tiếng Hán Việt cho ra vẻ ... tu hành! Ngâm nga một bài Kệ mà chẳng hiểu ý nghiã, phải chăng đó là một hình thức để ... khoe khoang mình biết nhiều về Kinh kệ, rằng mình đã tu ... cao! Nếu muốn học thuộc các bài Kệ, xin cứ học thuộc, sẽ được nhiều phước lạc, nhưng xin nhớ giữ lấy ý nghiã để mà tu cho có công đức: tu cho chính mình!

005. Thử tóm tắt những điều cần nên hiểu rõ biết chắc về Phẩm 1: Nhân duyên.

1. Giải thoát là gì? Giải thoát là cởi mở các ràng buộc từ bên trong.

2. Phục giải thoát điều phục thân tâm nầy, từ từ dẹp bớt các phiền não, các kết sử.

3. Con đường giải thoát tu hành theo ba môn học: Giới, Định Huệ. Nhờ giữ kỹ Giới thành kỷ luật nghiêm khắc để tuân theo khiến cho thân tâm được an lạc, rồi nhờ siêng tập Định bằng cách ngồi Thiền, tâm trí mới trở nên sáng suốt hơn trước, đó là Huệ.

Trí huệ sáng suốt giúp ta giác ngộ được Chánh pháp, để ứng dụng tu hành sớm đạt đến giải thoát.

Và xin nói thêm một điều thật quan trọng. Đó là Đạo Phật được tóm gọn trong mấy chữ nầy: Giác ngộGiải thoát.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12516)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10415)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12369)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11673)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28840)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12071)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13027)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11474)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12393)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17474)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53112)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35519)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21431)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10705)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19278)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12445)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26074)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13338)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14410)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16105)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13743)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16873)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17614)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13157)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12553)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11640)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11644)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14525)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20505)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19027)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19631)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18700)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12217)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12344)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13892)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15063)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15058)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14014)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15546)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11421)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17214)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15001)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20252)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14637)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13885)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11749)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15087)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13020)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22915)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14579)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11696)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13187)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16913)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18369)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11958)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11517)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15875)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12901)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18938)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18449)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant