Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần Tìm Hiểu Phẩm 4: Phân biệt về Định

02 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8039)
Phần Tìm Hiểu Phẩm 4: Phân biệt về Định

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN
VIMUTTI MAGGA
Thiện Nhựt chuyển dịch sang tiếng Việt

Phần 2: PHẦN TÌM HIỂU

Phần Tìm Hiểu Phẩm 4: Phân biệt về Định


Chuyển tiếp: Sau khi giảng rõ về Giới nơi Phẩm 2 và dạy Hạnh Đầu-đà, ở Phẩm 3, để chỉ cách giữ giới thanh tịnh, Luận văn bàn đến vấn đề quan trọng là Định, bước thứ nhì trong ba môn học Giới Định Huệ, tại Phẩm 4 nầy.

020. Vài lời về việc Tìm hiểu và Học tập bản văn "Giải Thoát Đạo Luận" nầy.

Bộ Giải Thoát Đạo Luận được phỏng dịch ra tiếng Việt khá dài; ý tưởng chỉ dạy cách tu tập trong Luận văn hết sức phong phú; cách trình bày và lời luận văn lại chẳng giống với đường lối thông thường ngày nay. Vì lẽ đó, xin có vài lời về việc Tìm hiểu và Học tập, với ước mong giúp người đọc nắm vững được hướng đi, kẻo vì quá nhiều chi tiết trong sách mà bị tràn ngập rồi sanh chán nản, chẳng muốn xem tiếp Luận văn.

Mục đích của bộ Luận là dạy cách tu tập thế nào để sớm được giải thoát; vì lẽ đó, Luận văn tuy có rất nhiều chi tiết về lý thuyết, nhưng vẫn luôn luôn chú trọng đến thực hành. Việc thực hành đó gồm có ba giai đoạn: giữ Giới, tập Định và phát triển Trí Huệ. Giới giúp tâm sớm đắc Định, nhờ đó mà Trí Huệ chiếu sáng lên, soi rõ con đường giải thoát. Đạo Phậtđạo giác ngộgiải thoát. Giác ngộ được là nhờ có tâm thanh tịnh, Giải thoát được là nhờ có Trí Huệ cởi bỏ mọi ràng buộc bên ngoài và nhứt là ràng buộc bên trong tâm.

Ba Phẩm vừa qua nói về Giới hạnh, có mục đích nêu ra kỷ luật tu hành để khép thân tâm người tu sĩ vào khuôn khổ, hòng việc tu tập được chuyên cầntinh tấn. Phẩm 4 nầy nói về Định, tức là liên quan đến Tâm, tâm có an trú thì việc học tập mới mong đạt đến mục tiêuthành quả. Do đó, chẳng cần nói dài dòng để nhấn mạnh tầm quan trọng của Phẩm 4 nầy trong toàn bộ Luận văn.

Đâu vì quá ngại mắc lỗi lập đi lập lại mà chẳng dám nhắc rằng: tu học theo đạo Phật, chính là tu tâm, khiến cho tâm được giải thoát khỏi hai loại ràng buộc: phiền não chướng sở tri chướng. Bước đầu quan trọng nhứt là làm sao cho sớm được tâm an trú, tâm biết dừng lại, trụ lại, chẳng còn chạy đi lông bông nữa, tức là định tâm. Bước đầu đó còn chưa vững, thì làm sao mà bước những bước kế tiếp cho khỏi vấp ngã. Vì lẽ đó, lại xin được nói sơ qua trong tiểu mục sau đây:

1) Tâm là gì? Ở đâu? Làm sao biết được có tâm?

2) Tâm thích bám níu, Tâm ưa chạy lông bông, vì thế cần phải tu tập Định, để tâm biết dừng lại, trụ lại.

Xét xong hai điều đó, thì việc Tìm hiểu Phẩm 4: Phân biệt về Định sẽ được dễ dàng hơn.

021. Trước khi Tìm hiểu Phẩm 4 về Định, xin được nói sơ qua về Tâm.

1) Quan niệm thân tâm năm uẩn trong Phật học. Khác với quan niệm thông thường cho rằng con người sống động là có thật; Phât học lại cho đó chỉ là một tiếng để gọi mà thôi, chẳng có thực thể, chẳng thể tự mình lấy được, chẳng thể tự mình mà tồn tại độc lập được. Đó là quan niệm vô ngã. Theo quan niệm nầy, năm uẩn họp lại thành thân tâm, sắc uẩn là phần vật chấthình tướng, trỏ vào thân, còn bốn uẩn kia: thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn, chỉ vào tâm, thuộc về phần tinh thần. Mắt thịt thấy được hình dáng của thân, còn mắt tâm mới nhận biết ra được tướng trạng của tâm.

Quan niệm thông thường (con người có thật) thì đúng về mặt thực tế; còn quan niệm vô ngã lại đúng về mặt Chơn lý.

2) Tâm là gì? Tâm ở đâu? Làm sao biết được có tâm?

Tâm chỉ là một tiếng để chỉ phần tinh thần nơi ta. Tâm chẳng có hình dạng, gồm có bốn uẩn: thọ uẩn là các tình cảm, tưởng uẩn là các tri giác và các tư tưởng, hành uẩn là các hành động do ý từ bên trong thúc đẩy và thức uẩn là các sự hiểu biết hiện có, hay đã qua. Bốn uẩn đó họp thành tâm.

Tâm đâu thì chẳng rõ được, chỉ biết tâm bàng bạc ở bên trong ta. Làm sao biết được rằng có tâm đây? Biết được là khi tướng của tâm khởi lên. Khởi lên khi nào? Khởi lên khi ta cảm thọ, khi ta tri giác, khi ta hành động, khi ta hiểu biết. Thử làm thí nghiệm nhỏ nầy để biết có tâm:

- Tôi nghi tất cả mọi sự vật đều chẳng thật có. Vậy, tâm cũng đâu có thật được.

- Ông đang nghi, có phải vậy không?

- Đúng, tôi đang nghi rằng tâm chẳng có thật.

- A! ông nghi mọi sự vật đều chẳng thật, nhưng có một điều hiện đang có thật mà ông chẳng thể chối cãi được, đó là ông đang nghi, phải như vậy không?

- Vâng, tôi đang nghi, chắc chắn là có thật, cái việc tôi đang nghi.

- Ông biết chắc ông đang nghi, chỗ nào ở bên trong ông làm cho ông biết chắc rằng ông đang nghi? Ông mà thành thật tìm kiếm thì ông sẽ thấy tâm ông đang nghi. Rõ ràngcó tâm, tâm ấy đang nghi. Phải vậy không?

- Tại sao tôi chẳng thấy được tâm tôi để nói lên cho mọi người biết đến cái tâm ấy đang nghi?

- Chỉ vì tâm thì vô hình, ông biết được đến nó là khi nó đang khởi lên sự nghi ngờ. Khi tâm khởi lên, ta biết có tâm; đúng ra thì chỉ có tâm mới biết được tâm ấy. Thành ra, đừng nhọc công tìm cách chứng minh sự hiện hữu của tâm, chỉ cần quay vào bên trong, rồi mỗi người tự tìm biết lấy cái tâm của chính mình, và chứng thật việc đó với mình.

(Thí nghiệm nầy bắt chước lập luận của triết gia Descartes: Je pense, donc je suis -- Tôi suy tư, vậy tôi hiện hữu).

3) Tâm thích bám níu và chạy lông bông, nên phải cần tu tập để định tậm lại.

Bài Kệ số 36 trong Kinh Pháp Cú mô tả tâm rất rõ ràng:

Tâm rất khó cho ta nhìn thấy,
Mong manh, tế nhị, chạy khắp nơi;
Rồi ngừng lại chẳng rời nơi thích.
Người hiền kềm thúc tâm mình,
Tâm khéo giữ gìn, được hạnh phước cao.

Bài Kệ nói rất rõ điều khó diễn tảtâm, nay đọc kỹ lại, và cố quay vào bên trong để chứng thấy các chi tiết về tâm của chính mình.

Tánh hay chạy lông bông khắp nơi của tâm thường được Kinh sách gọi là tâm viên ý mã:

Tâm như con vượn chuyền cành,
Ý như bầy ngựa chạy nhanh chẳng ngừng.

Tánh thích bám níu của tâm điều mà người biết tu tâm cần phải giữ gìn và kềm thúc lại, như đã xét qua ở đoạn nói về sự thủ hộ các căn trong Phẩm 3: Phân biệt về Giới. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý là sáu cửa của các giác quan, gọi là sáu căn môn, nên khép bớt phiá ngoài, còn cửa tâm thì bên trong nên khéo đóng lại, để cho cảnh vật và ý tưởng chẳng len vào tâm mà khởi lên khuấy động. Việc tu hành chỉ bấy nhiêu thôi, nhưng cần phải làm thường xuyên, chẳng ngừng nghỉ.

Tâm thích bám níu vào sự vật, chẳng những bám níu vào sự vật làm ta ưa thích mà thôi, lại còn bám níu vào các sự việc chẳng được vừa lòng nữa. Tại sao vậy? Giận ai, sao lại cứ giận dai? Dai, vì tâm chẳng chịu quên điều đã làm mình phật ý; có quên được trong chốc lát, rồi cũng lại nhớ lại để ... hờn!

Nói tóm lại, nơi thân tâm năm uẩn nầy vốn là vô ngã, chẳng có thực thể, tâm là phần vô hình, lại hay bám níu rong chạy lông bông, cần phải tu tập để kềm giữ cho an trú lại. Việc giữ gìn tâm sẽ được nói đến trong Phẩm 4: Phân biệt về Định, mà ta đang học tới.

022. Ý chánh của Phẩm 4: Phân biệt về Định.

Cũng như Phẩm 2 nói về Giới, Phẩm 4 nầy, khi nói về Định, đã nêu rõ trong phần đầu, dưới hình thức các câu hỏi, dàn bài sơ lược, nhờ đó ta rút ra được ý chánh của Phẩm.

Sau khi định nghiã thế nào là Định, Luận văn cho biết tướng, vị khởi của Định. Kế đến, chỉ dạy cách tu tập Định, các sự ích lợi của Định, các điều kiện cần hội đủ khi tu tập, các nguyên nhân gây trở ngại cho Định. Và sau cùng là đoạn khó nhứt cho việc tìm hiểucó mấy loại Định, khó vì chẳng thấy nêu ra tiêu chuẩn để phân loại.

023. Dàn bài của Phẩm 4: Phân biệt về Định.

I. Nhập đề: Giữ giới được thanh tịnh rồi, nên tập Định.

II. Thân bài:

21. Định nghiã thông thường của Định.
22. Hai
Định nghiã dài và ngắn trong A-tỳ-đàm.
23. Tướng, vị, khởi và xứ của
Định.
24. Tập Định như thế nào?
25. Khác biệt giữa
Định và Thiền, Giải thoátChánh thọ.
26. Các công
đức của Định.
27. Điều kiện để khởi Định
28. Các nguyên nhân gây trở ngại cho
Định.
29. Các loại Định: hai, ba, bốn, năm loại Định.

III. Kết luận: Tất cả các loại Định đều qui về bốn loại.

024. Tìm hiểu nghiã các chữ khó:

Định: Luận văn giải nghiã: Định có nghiã là tâm thanh tịnh gom về một hướng, tinh tấnvắng lặng an trú trong Chơn lý, chẳng hề bị loạn động.

Nghiã nầy gồm có năm việc: (1) tâm thanh tịnh, nghiã là tâm hết bị phiền não khuấy động; (2) gom về một hướng, nghiã là chỉ chú ý vào đối tượng đang quán tưởng; (3) tinh tấnvắng lặng, nghiã là đang cố gắng, nhưng sự cố gắng phải được kéo dài trong lặng lẽ; (4) an trú trong Chơn lý, nghiã là tâm trí thông đạt Chánh pháp; (5) chẳng bị loạn động, nghiã là tâm luôn luôn bình thản, an nhiên.

Tâm sở = Tâm trạng: các tình trạng của Tâm. Khi giận thì có tâm sở giận (= sân tâm); khi vui, có tâm trạng vui (lạc tâm). Các tâm sở xếp thành: thiện, bất thiện,bất định.

Cân đòn: Cây cân để đo lường sức nặng. Cân đòn còn gọi là cân xách, có diã cân, tay đòn khắc khiá và quả cân.

Hàm súc: Hàm = bao hàm, gồm vào trong; súc = chứa. Định nghiã hàm súc là một định nghiã thu gọn mà lại có đầy đủ ý nghiã chứa bên trong.

Sơ Thiền, Tứ Thiền: Thiền có bốn cấp, từ thấp lên cao: Sơ Thiền, Nhị thiền, Tam thiềnTứ Thiền.

Tám pháp giải thoát = Bát giải thoát: Tám pháp đó là bốn cấp Thiền và bốn cấp Định. Bốn cấp Thiền là từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền. Bốn cấp Định là Không định, Thức định, Vô sở hữu định và Phi tưởng định.

Trong Luận văn có nói: sắc tướng bên trong, quán sắc bên ngoài; đây là nói ở cấp Sơ Thiền, thiền giả tự mình có sắc tướngđang quán tưởng về cõi sắc ở bên ngoài.

Chánh thọ: tình trạng Định ở cấp Diệt thọ tưởng định, sau khi vượt qua cấp Phi tưởng Định. Thiền giả ngưng được thọ uẩntưởng uẩn, nhập vào cảnh giới Niết-bàn.

Đối tượng: Đối = trước mặt; Tượng = hình tượng, sự vật. Đối tượng của sự quan sát là sự vật đang ở trước mặt để quan sát.

Bình đẳng: Bình = bằng phẳng; Đẳng = hàng, lớp. Tâm bình đẳng là tâm đối xử với mọi sự vật chẳng nghiêng về sự vật nào, chẳng riêng coi trọng hoặc khinh chê sự vật nào cả.

Liễu nghiã và Bất liễu nghiã: Liễu = rốt ráo, đầy đủ, xong rồi. Đây là nói về Kinh, có Kinh bất liễu nghiã là Kinh mà nghiã còn chưa rốt ráo, còn Kinh liễu nghiã là Kinh mà nghiã đã rốt ráo. Thí dụ như các Kinh về Không và Hữu (= chẳng có và có) là Kinh bất liễu nghiã; còn các Kinh dạy về Trung Đạo là Kinh liễu nghiã, vì rốt ráo đã tránh xa được cả hai bên, bên Không và bên Hữu.

Ni-càn-tử = Ni-kiền-tử = phái loã thể: Tiếng Pàli là Nigantha, một phái ngoại đạo chủ trương loã thể. Loã = loã lồ, để lộ; Thể = thân thể. Phái loã thể cứ để thân thể chẳng che đậy, chỉ quấn khố quanh bộ phận sanh dục mà thôi.

Thế gian định và xuất thế định: Thế = đời; ở đây có nghiã là thế gian. Xuất thế là vượt khỏi mọi ràng buộcthế gian. Xuất thế định là các tình trạng Định của bực Thánh đã dứt trừ xong ràng buộc của phiền não. Các Định khác còn lại đều là thế gian định.

Hữu lậu: Hữu = có; lậu = rỉ chảy. Hữu lậu là còn mang những phiền não trong tâm, đang rỉ chảy ra ngoài. Trái nghiã với hữu lậu vô lậu = dứt hết phiền não, chẳng còn phiền não nào rỉ chảy ra nữa, tức là tu đến cấp A-la-hán.

Nhứt tâm: Nhứt = một. Giữ được nhứt tâm có nghiã là giữ tâm chuyên chú lâu vào một điểm; lại có nghiã là tâm chẳng suy nghĩ đến việc nào khác nữa, ngoài đối tượng đang được quán sát. Đây là thiền chi thứ năm; các thiền chi kia được kể theo thứ tự là: giác, quán, hỉ, lạc.

Sự định: Sự = sự việc, sự việc thực tế; sự trái nghiã với , tức là lý thuyết. Ở đây, sự định có nghiã là nhờ quan sát sự vật thực tế, lấy một sự vật duy nhứt làm đối tượng, mà tâm nhập vào tình trạng Định.

Dục định: Dục = ham muốn; ở đây chữ dục chỉ vào cõi dục giới (nơi chúng ta đang ở), vẫn còn nhiều ham muốn; dục định tình trạng Định ở cõi dục giới, vẫn còn phiền não.

Sắc định = Định ở cõi sắc giới.

Vô sắc định = Định ở cõi vô sắc giới.

Vô sở thọ định = tình trạng định tâm dứt cảm thọ.

Định song biến: Song = hai, đôi; biến = biến đổi. Vì đây là Định của Phật, tôi chẳng biết được.

Đại bi: Đại = lớn; Bi = cứu khổ. Đại bi = sự cứu khổ rộng rãi giúp đỡ cho tất cả mọi loài chúng sanh.

Cửu thứ đệ định: Cửu = chín; thứ đệ = theo thứ lớp. Cửu thứ đệ định là chín cấp thiền định, mà cấp cao nhứt là Diệt thọ tưởng định, hành giả nhập vào Niết-bàn. Còn gọi là Diệt tận định.

Duyên khởi, duyên diệt: Duyên = nhân duyên, điều kiện khiến cho sanh ra nguyên nhân; Khởi = khởi lên, phát sanh ra; Diệt = gây ra nguyên nhân khiến cho tiêu diệt. Luận văn chẳng thấy nói rõ cái gì sanh khởi cái gì diệt.

Tuần tự: theo thứ lớp, chẳng nhảy vọt lướt bỏ qua.

025. Tìm hiểu về nội dung của Phẩm 4 về Định.

1) Về ba định nghiã của chữ Định:

11. Luận văn có ghi đến ba định nghiã của chữ Định. Định nghiã thứ nhứt đã được xét qua ở trên, trong Phần Tìm hiểu các chữ khó (xem lại nghiã chữ Định, các trang 369 và 370). Còn hai định nghiã sau thì được ghi trong Luận tạng, một dài, một ngắn.

12. Định nghiã dài (cuối trang 40 của bản dịch) trong A-tỳ-đàm: "Nếu tâm an trú đúng đắn, chẳng bám vịn vào đâu, cũng chẳng loạn động, yên vắng, chẳng bị ràng buộc, khiến cho định cănđịnh lực được đúng đắn, đó gọi là Định". Định nghiã nầy chẳng khác với định nghiã thứ nhứt. Chỉ có hai chữ định căn định lực là cần tìm hiểu thêm:

Định căn là khả năng của tâm có thể đắc được định; chữ căn có nghiã là nguồn gốc, cũng như chữ lục căn là chỉ sáu giác quan làm nguồn gốc phát sanh ra cảm giác, tri giác, v.v.

Định lực sức mạnh khiến tâm có thể khởi lên và kéo dài tình trạng Định; chữ lực có nghiã là sức mạnh.

13. Định nghiã ngắn (giữa trang 41 của bản dịch) trong A-tỳ-đàm: "Ý nghiã của Định là sự liễm nhiếp." Như có nói trong Luận văn, định nghiã nầy rất hàm súc, nghiã là vừa ngắn gọn lại vừa đầy đủ ý. Quan trọng là chữ liễm nhiếp, nghiã là thu tóm hết tất cả các ý nghiã lại. Nói cách khác, khi vào Định, tâm đang chuyên chú đến một điểm duy nhứt trên đối tượng, còn gọi đó là nhứt tâm, một thiền chi. Chẳng nghĩ gì khác hơn là đối tượng, chỉ quán đối tượng ấy mà thôi, và phải quán trong thời gian khá dài, mới goi là nhứt tâm. Làm được như vậy gọi là liễm nhiếp hết các ý tưởng rời rạc lại.

2) Về bốn công đức của Định:

Luận văn nêu bốn công đức (= ích lợi) của Định:

(1) hưởng niềm vui Chánh pháp. Tại sao? Vì thiền giả đắc Định sanh ra vô lậu (= hết phiền não), nên hưởng được niềm vui giải thoát được nói trong Chánh pháp.

(2) biết thọ hưởng tất cả mọi sự vật. Tại sao? Vì thiền giả hết bị các triền cái che đậy, hết bị các kết sử sai khiến, nên nhận rõ được thân tâm (uẩn, căn, nhập, giới), nhờ đó biết quán tưởng hoàn cảnh xung quanh đúng như thật. Biết được như vậy, nên dứt hết lo ngại và thân tâm được sự an lạc.

(3) chứng được năm món thần thông.

(4) vươn lên tới cõi sắc giớivô sắc giới.

Hai công đức (3) và (4) thuộc loại xuất thế, nhờ tâm đã có định lực thâm hậu mới đắc thần thôngvượt qua các cõi. Phàm phu đắc định nầy sẽ tái sanh vào các cảnh giới cao.

3) Về các nguyên nhân trở ngại cho Định:

Luận văn nêu ra tám nguyên nhân gây trở ngại cho việc đắc Định, mà hầu hết đều nằm trong các triền cái hoặc trong các kết sử. Muốn tránh các nguyên nhân đó, phải diệt trừ các triền cái, kết sử, bằng cách giữ giới hạnh thật thanh tịnh.

Đoạn văn tiếp theo trong Luận kể tám điều kiện cần hội đủ để cho Định khởi phát lên. Hầu hết là để đối trị lại các nguyên nhân gây trở ngại cho việc đắc Định. Điều thứ tám là đáng chú ý nhứt: đầu hôm, nửa đêm và hừng sáng chẳng mê ngủ, có nghiã là phải tỉnh thức mà ngồi... Thiền, chớ có lười!

4) Về cách phân loại các thứ Định:

Trước hết, cần phân biệt năm thiền chi mà tâm thiền giả lần lượt đi qua: (1) giác, (2) quán, (3) hỉ, (4) lạc (5) nhứt tâm. Kế đến phân biệt chín cấp bực của Định: (1) Sơ Thiền, (2) Nhị Thiền, (3) Tam Thiền, (4) Tứ thiền, (5) Không định, (6) Thức định, (7) Vô sở hữu định, (8) Phi tưởng định và (9) Diệt thọ tưởng định, mà thiền giả lần lượt theo thứ tự chứng đắc được.

Bây giờ, mới xét đến các tiêu chuẩn để sắp xếp lại cách phân loại trong Luận văn.

41. Tiêu chuẩn các thiền chi:

411. Định có giác có quán, Định chẳng giác ít quán, Định chẳng giác chẳng quán.
412. Định có hỉ sanh, Định có lạc sanh, Định có xả sanh.
413. Các Định trong bốn cấp Thiền, từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền. (Phẩm 8 về Hành môn sẽ nói rõ thêm).
414. (1)
Định hỉ mãn (= mừng tràn đầy): Sơ ThiềnNhị Thiền, (2) Định lạc mãn: Tam Thiền; (3) Định tâm mãn: tha tâm thông; (4) Định quang mãn: có ánh sáng tràn đầy; (5) Định quán tưởng:quán sát trí khởi lên.

42. Tiêu chuẩn về người đắc Định:

421. (1) Định Phật đắc mà Thanh văn chẳng đắc được: Định đại bisong biến, (2) Định Thanh văn đắc mà chẳng phải chỗ Phật đắc: ba quả vị Thánh đầu tiên, (3) Định Phật đắc và Thanh văn cũng đắc được: chín cấp Định thứ đệ.
422.
Định thế gian Định xuất thế.

43. Tiêu chuẩn về cảnh giới:

431. Thiện định, báo định và sự định.
432. Dục định, sắc định, vô sắc định, vô sở thọ định.
433. Dục định, tinh tấn định, tâm định, huệ định.

44. Tiêu chuẩn về chánh tà: định và Chánh định

45. Tiêu chuẩn về định lực: ngoại định và an định.

5) Về bốn cách tu hành Định:

Ở giữa trang 45 bản dịch, Luận văn nói có bốn cách tu hành Định, nhưng thật ra chỉ thấy có hai cách được nêu ra thôi: (1) khổ tu và (2) vui tu. Luận văn phân biệt bốn hạng người, tùy theo căn cơ và phiền não, để tu hành Định:

51. Người căn cơ chậm lụt và phiền não sâu dầy: phải khổ tu lâu ngày mới chiết phục hết phiền não và khởi trí lên.

52. Người căn cơ chậm lụt nhưng phiền não thưa thớt: có thể vui tu, đủ khiến cho trí dầu chậm lụt rồi cũng đắc định.

53. Người căn cơ bén nhạy nhưng phiền não sâu dầy: phải khổ tu thì trí sắc bén mới diệt hết phiền nãođắc định.

54. Người căn cơ bén nhạy mà phiền não thưa thớt, có thể vui tu cũng dễ để cho lợi trí đắc định được.

6) Việc chuyển từ Sơ Thiền sang Nhị Thiền:

Trong câu hỏi ở cuối trang 47 bản dịch, Luận văn viết: "Bằng cách nào chuyển từ Sơ Thiền sang Nhị Thiền?", và lời giải đáp của Luận văn, ở đoạn nầy, rất vắn tắt: vì thấy hai thiền chi giác quán còn thô sơ và bất lợi, nên chấm dứt tư duy về chúng, để bước sang Nhị thiền... Rồi tuần tự như thế mà vượt qua đến Tam Thiền, Tứ Thiền, v.v. Chấm dứt cách nào, làm sao biết đã chấm dứt xong, đó là các câu hỏi mà Luận văn còn chưa trả lời trong đoạn nầy.

Đến Phẩm 8 về Hành môn, Luận văn sẽ chỉ rõ thêm cách chấm dứt tư duy đó với đầy đủ chi tiết hơn.

026. Suy gẫm về Phẩm 4: Phân biệt về Định.

1) Đừng quá mong cầu sớm đắc Định. Mục tiêu của việc tu hànhđạt được quả vị; còn việc ngồi Thiền, dĩ nhiênđể đắc được Định. Nhưng chẳng vì thế mà nóng lòng trông mong được đắc quả, đắc định. Nếu quá mong cầu như thế, rất khó mà đạt được mục tiêu. Tại sao vậy? Vì tâm còn chưa thanh tịnh, bởi bụng còn nôn nóng, còn ham muốn, đó là một trong các hình thức tế nhị cuả tâm tham.

Chẳng nên mong cầu, đó là điều kiện đầu tiên khi ngồi Thiền.

2) Cần dứt bỏ các dục lạc trước. Ngồi Thiền, tâm cố chú vào đối tượng, hoặc tâm gắng giữ sao cho tâm vắng lặng, nhưng cớ sao ngồi chẳng mấy chốc thì ý nầy khởi lên, ý nọ lại xảy đến, lôi cuốn tâm chạy đi lang bang? Thường gọi đó là bị vọng tưởng khuấy rối. Hãy nhìn tận mặt vào các vọng tưởng, thì sẽ thấy chúng là gì, phải chăng tâm đang nghĩ đến các thú vui đã qua, các tình cảm đã qua, các tư tưởng đã qua. Các thú vui mà mình đã hưởng, mà nay vẫn còn muốn được hưởng nữa. Các tình cảm đã qua, có thể vì nhớ nhung ai, thương tiếc điều chi, hoặc giận hờn kẻ nào. Các tư tưởng đã qua, có thể là các lý lẽ đã dùng để tranh cãi với đối phương, về một vấn đề nào mà lúc cãi mình cho là quan trọng lắm. Hoặc các lời bông đùa, khôi hài mình đã nói qua trong một dịp nào mới đây, mà mình còn "khoái chí" cho là có duyên, ý nhị! Các thú vui, tình cảm và tư tưởng đó, dưới hình thức vọng tưởng, đã khuấy động tâm, nên chẳng đắc được Định.

Vậy, muốn dễ ngồi Thiền cho yên và ít vọng tưởng, thì lúc bình thường, trong cuộc sống hằng ngày, phải bỏ bớt được càng nhiều càng tốt, các sự ham vui, lánh xa tranh cãi, tránh nói bỡn cợt. Thái độ thường xuyên đứng đắn, nghiêm trangđiều kiện tốt để các dục lạc chẳng trở thành vọng tưởng nổi lên trong lúc ngồi Thiền.

3) Còn có mục tiêu xa hơn nữa, chớ vội tham đắm vào hỉ, lạc. Buổi đầu ngồi Thiền, thường bị tê chơn, nhức lưng, đau bên hông, lâu lâu bị ngứa như kiến bò trên mặt, sau một thời gian dài rồi sẽ quen đi và quên được các cảm giác khó chịu đó. Bấy giờ thân tâm cảm thấy nhẹ nhàng, lâng lâng, đó là lúc hỉ đang khởi lên, và hành giả thấy thích thú lắm. Có chút tiến bộ rồi đấy. Thích thì cứ thích, nhưng chớ tham đắm vào, chớ có cố bám níu vào đó lâu. Tại sao? Vì hỉ, lạc, cũng chỉ là những thiền chihành giả sẽ lần lượt vượt qua, để đi đến các thiền chi khác, như nhứt tâm, như xả niệm. Đừng vì ham thích mà dừng lại lâu ở bước đầu, còn các mục tiêu tiếp theo sau, quan trọng hơn: đó là chỗ khác biệt nhau giữa ngoại định an định, mà Luận văn có nói qua, nhưng nói qua rất vắn tắt.

4) Chớ để óc tưởng tượng xen vào. Có người ngồi Thiền xong, bảo: "Tôi ngồi Thiền thấy có Ông (hay nào) về báo tin nầy..." hoặc "Tôi thấy một cảnh giới trang nghiêm, có vị Tổ sư phán hỏi tôi rằng, v.v." Phải cẩn thận, chớ để óc tưởng tượng của mình gạt mình, lôi kéo mình vào chỗ mê tín.

Nếu biết tự cảnh giác, các cảnh khác thường đó tự nhiên biến mất, trả lại sự thanh tịnh cho tâm được vắng lặng.

5) Thử nếm pháp vị của hai Phẩm 2, 4 về Giới Định. Hai Phẩm nói về Giới Định trong Luận văn rất khó đọc, khó hiểu, và vì thế việc nếm pháp vị của hai Phẩm nầy cũng chẳng dễ chi; nếm còn chưa thưởng thức được chút nào ngọt ngào, đã thấy một vị ... đăng đắng rồi. Sao vậy? Chỉ vì càng đọc càng thấy khó khăn, rắc rối, nhứt là ở các đoạn xếp các Giới, các Định thành ra hai loại, ba loại, bốn loại, năm loại.

Sao lại khó hiểu các loại Giới, cùng các loại Định? Chỉ vì các loại Giới Định đó quá cao, hiện vượt quá tầm hiểu biết của người đọc, vì lẽ tác giả đã viết cho bực tu hành xuất gia đã có sự chứng đắc cao rồi. Những người sơ cơ làm sao hiểu thấu? Làm sao phàm phu chúng ta biết được các giới của bực Thánh? Làm sao sơ cơ như chúng ta hiểu được các loại Định của bực A-la-hán, của Đức Phật? Hoá cho nên, ta chỉ nên học cho kỹ những loại Giới nào còn thấp, còn nhẹ, dành cho kẻ vừa bước chơn vào Đạo, để nếm được pháp vị của các loại Giới đó. Lại nữa, ta còn chưa đắc được ngoại định, sao lại đèo bòng đòi biết được Định Đại bi, Định song biến của Đức Phật. Ngay buổi ban đầu, sao chẳng cố nếm thử cái niềm hỉ lạc khiến thân tâm nhẹ nhàng, lâng lâng, một khi vượt qua khỏi được hai thiền chi giác quán?

Để kết thúc Phần Suy gẫm về Phẩm 4 nầy, xin hãy cứ yên tâm tạm gát qua các điều cao xa về Định, chờ đến khi đọc xong cả quyển Luận văn, hiểu được kỹ, và thực hành thật chăm, bấy giờ mở sách ra đọc lại, may ra sẽ thấy được chỗ nào là pháp vị để ... thưởng thức. Đừng vì hiện đang thấy quá khó, vội cho rằng quá sức học tập của mình mà gác hẳn cuốn sách lại, ... "uổng ơi là uổng!"

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12478)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10345)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12322)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11624)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28781)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12026)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12992)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11431)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12348)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17430)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52991)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35471)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21367)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10671)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19215)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12395)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26015)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13304)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14354)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16065)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13721)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16821)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17552)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13110)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12511)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11600)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11588)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14489)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20440)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18965)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19531)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18620)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12172)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12288)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13833)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14998)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15024)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13975)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15505)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11386)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17160)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14959)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20174)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14602)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13824)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11692)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15041)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12977)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22845)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14541)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11641)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13147)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16853)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18321)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11928)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11487)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15829)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12863)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18887)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18409)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant