Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chi 3: Mười Tưởng Bất tịnh. Mười Niệm.

02 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8274)
Chi 3: Mười Tưởng Bất tịnh. Mười Niệm.

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN
VIMUTTI MAGGA
Thiện Nhựt chuyển dịch sang tiếng Việt

Phần 2: PHẦN TÌM HIỂU

Phần Tìm hiểu Phẩm 8: Hành môn

Chi 3: Mười Tưởng Bất tịnh. Mười Niệm.


Chuyển tiếp: Hai Chi 1 và 2 vừa qua đã trình bày mười Nhứt thiết nhập, tức là 10 đề mục quán tưởng đầu tiên; và giảng rõ về bốn cấp Thiền cùng bốn cấp Định.

Trong Chi 3 nầy, Luận văn bàn đến mười Tưởng bất tịnh trước, sau đó cứu xét tới sáu niệm đầu trong mười Niệm. Chi 4 tiếp theo giảng nốt bốn niệm còn lại.

057. Phân biệt giữa Cảm giácTri giác, giữa Tưởng, Niệm và Ý.

Khi một vật tiếp xúc với một giác quan, như mũi ngữi bông hoa, thì cảm giác nổi lên thành mùi thơm. Khi hình vật xuyên qua giác quan nhập vào tâm, khiến biết được đó là vật gì, thì tri giác nổi lên. Sự khác biệt giữa cảm giáctri giác là nơi tri giác có sự tham dự của tâm. Tri giác còn gọi là Tưởng.

Tâm khởi động nghĩ về vật đối tượng bên ngoài, gây ra tưởng. Một tưởng đã qua rồi, về sau nhớ lại, đó là một niệm. Nhưng chữ niệm có nghiã tổng quát hơn, cứ mỗi lần tâm phát động là có một niệm. Niệm đi qua rất nhanh. Hai hay nhiều niệm liên hệ nhau lại thành một ý. Ý là sản phẩm của tâm, phần lớn là do những kiến (= thấy) bên ngoài gợi lên, mà thành ý kiến.Thường, chẳng có sự phân biệt rõ giữa ý kiến, tư tưởng, tưởng niệm, để chỉ các tâm hành (= hành động của tâm).

058. Dàn bài sơ lược của Chi 3, Phẩm 8.

Sự phân biệt vừa nêu trên giúp ta khỏi lẫn lộn giữa Mười Tưởng Mười Niệm được nói trong Chi 3 nầy.

I. Nhập đề: Luận văn chẳng có phần Nhập đề, cứ đi thẳng vào Tưởng sình chướng.

II. Thân bài:

A. Mười Tưởng Bất tịnh:

1. Tướng sình chướng:

11. Thế nào là tướng sình chướng?
12. Ích lợi của việc quán tướng nầy
13. Giữ tướng sình chướng cách nào?
14. Mười cách quán sátthực tập.
15. Tưởng nầy chỉ khởi lên
được Sơ Thiền.

2. Tướng bầm xanh
3. Tướng rỉ mủ
4. Tướng đâm chém nát
5. Tướng bị gặm nhấm
6. Tướng vứt bỏ rã rời
7. Tướng giết chết vứt bỏ
8. Tướng dính máu huyết
9. Tướng trùng hôi
10. Tướng xương.

Tưởng bất tịnh đối trị với lòng dục.

B. Mười Niệm:

1. Niệm Phật:

11.Tu hành niệm Phật như thế nào?
12. Những công
đức của việc niệm Phật
13. Niệm mười danh hiệu Phật
14. Niệm Phật bổn sanh
15. Niệm các công đức của Đức Phật: (a) 10 lực; (b) 14 loại trí huệ, (c) 18 pháp

2. Niệm Pháp

21. Pháp là gì? Pháp và Niết-bàn.
22. Tu niệm Pháp như thế nào?
23. Công
đức của việc niệm Pháp.

3. Niệm Tăng

31. Tăng = hoà hiệp
32. Cộng
đồng các Thánh chúng
33. Thế nào là Bốn đôi tám cặp?
34. Công
đức của việc niệm Tăng.

4. Niệm Giới:

41. Niệm về sự trì giới thanh tịnh
42. Tu hành niệm Giới như thế nào?
43. Công
đức của việc niệm Giới.

5. Niệm Thí:

51. Bố thí đối trị với sẻn tham.
52. Tu hành niệm Thí như thế nào?
53. Công
đức của việc niệm Thí.

6. Niệm Thiên:

61. Thế nào là niệm Thiên?
62. Tu hành niệm Thiên cách nào?
63. Công
đức của việc niệm Thiên.

III. Chưa có phần Kết Luận (Chi 4 giảng nốt 4 niệm).

059. Ý chánh của Chi 3, Phẩm 8.

Chi 3, Phẩm 8, có hai ý chánh:

(1) mười Tưởng bất tịnh, nghiã là ý tưởng gớm ghiếc khởi lên trong tâm khi thấy hay tiếp xúc với một đối tượng quá dơ dáy (= bất tịnh, chẳng sạch) ở bên ngoài;

(2) mười niệm, nghiã là mười loại ý nghĩ hằng tưởng nhớ luôn trong tâm.

- Ý chánh thứ nhứt nhằm đối trị lòng tham dục, vì khi thấy một sự vật còn ham muốntư tưởng nhờm gớm khởi lên trong tâm thì chẳng còn ham mê đến sự vật ấy nữa. Đấy là một cách thanh lọc tâm ý cho trong sạch; tuy nhiên khó tránh được sự khó chịu khi quan sát một đối tượng chẳng sạch.

- Ý chánh thứ hai là luôn luôn giữ trong tâm, sự hiện diện của một tư tưởng mà mình muốn niệm. Đây cũng là cách thanh lọc tâm ý cho trong sạch, vì các niệm hiện được niệm sẽ ngăn chặn các tư tưởng chẳng thích nghi khác xâm nhập vào tâm; đồng thời tạo niềm tin vững chắc vào điều đang niệm.

- Mười Tưởng bất tịnh dựa trên sự quan sát thây ma, điều mà ngày nay chẳng phải ai cũng có cơ hội để thực hiện. Ngày xưa bên Ấn độ, thây người chết đem vứt trong rừng, gọi là thi lâm. Ngày nay, luật lệ vệ sanh thành phố chẳng cho phép để thi thể bộc lộ.

Mặt khác, căn cứ theo thứ tự trước sau của mười tướng bất tịnh, ta thấy từ tướng sình chướng, qua tướng rỉ mủ, tướng bị gặm nhấm, đến tướng xương, thi thể từ từ tan rả, thối nát và sau cùng chỉ còn lại những khúc xương trắng hếu. Qua tiến trình quan sát các tướng đó, hành giả nhận định rõ đặc tướng vô thường của mọi sự vật, đồng thời làm khởi sanh lên được tử niệm (= ý nghĩ về sự chết có thể đến với ta bất cứ lúc nào và thúc dục ta nên mau nỗ lực tu hành kẻo chẳng kịp).

060. Tìm hiểu nghiã các chữ khó:

Tướng sình chướng: nguyên văn Tăng trưởng tướng. Đây là thây ma sưng phù bốc mùi hôi thúi.

Chánh trí: Chánh = đứng đắn, chơn chánh; Trí = trí huệ. Trái nghiã với tà trí, trí thông minh đi theo đường quấy.

Ô uế: dơ dáy, đen đúa, chẳng sạch.

Niệm về nội thân: Nội = bên trong; Thân = thân thể. Có được niệm về nội thân là tâm quay về quan sát chính bản thân mình, chẳng còn hướng ra ngoài nhiều như trước kia.

Tử niệm: Tử = chết, Niệm= ý tưởng thường có mặt trong tâm. Tử niệm ý tưởng phát sanh lên trong tâm, có liên quan đến sự chết. Bắt nguồn từ vô thường tưởng, tử niệm thúc dục hành giả phải mau nỗ lực tu hành tinh tấn, kẻo cơn vô thường (= sự chết) chợt đến với mình. (Xem lại trang 358.)

Kiêu mạn: Xem lại trang 340, Ph. 2. Sự kiêu mạn, tự coi mình hơn kẻ khác, ở đây là do có sắc đẹp, đầy đủ sức khoẻ. Chẳng biết rằng, sắc đẹp có thể tàn phai và sức khoẻ có thể mất đi lúc tuổi già.

Chánh quán: Chánh = chơn chánh, đứng đắn; Quán = quan sát kỹ và suy nghĩ. Chánh quán quán sáttư duy đúng theo Chánh pháp; trái nghiã với tà quán suy nghĩ việc bất lương.,mưu toan làm hại kẻ khác.

Tự an: Tự = chính mình; An = yên ổn. Được tự an là hết lo lắng, hết nghi ngờ, tâm được yên ổn.

Tư duy = suy nghĩ.

Tướng bầm xanh: Nguyên văn là Thanh ứ tướng

Tướng rỉ mủ: Nguyên văn là Hội lạn tướng.

Tướng đâm chém nát: Nguyên văn là Trảm chước ly tán tướng.

Tướng bị gặm nhấm: Nguyên văn là thực đạm tướng.

Tướng vứt bỏ rã rời: Nguyên văn là Khí trịch tướng.

Tướng giết chết vứt bỏ: Nguyên văn là Sát lục khí trịch tướng.

Tướng dính máu huyết: Nguyên văn là Huyết đồ nhiễm tướng.

Tướng trùng hôi: Nguyên văn là Trùng xú tướng.

Tướng xương: Nguyên văn là Cốt tướng.

Bơ trâu: Bên Ấn độ, dùng sữa trâu làm kem, bơ, nên gọi là bơ trâu.

Trái châu: Châu = châu ngọc, một thứ đá quí trong sáng, cỡ bằng một nắm tay.

Gia tài Phật: Ý muốn nói đến Chánh pháp của Đức Phật đã để lại, nhờ đó mà tu hành được giải thoát.

Mười danh hiệu Phật: Danh = tên; Hiệu = dấu hiệu đặc biệt. Mười danh hiệu Phật là mười công đức chỉ riêng Đức Phật mới có đầy đủ. Đó là: (1) Như Lai, (2) Ứng cúng, (3) Chánh biến tri, (4) Minh hạnh túc, (5) Thiện thệ, (6) Thế gian giải, (7) Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, (8) Thiên nhơn sư, (9) Phật, (10) Thế tôn. Luận văn giải thích rất kỹ và rất rõ.

A-la-hán: Xem lại trang 339, Ph.2

Bẻ gãy vòng sanh tử: Vòng Sanh tử vòng Luân hồi, tựa như bánh xe cứ quay đi quay lại mãi, sanh ra, lớn lên rồi chết đi, để phải tái sanh lại nữa. Người đã bẻ gãy vòng sanh tử là người đã ra khỏi vòng lẩn quẩn của Luân hồi, chứng được cõi vô sanh, chẳng phải tái sanh lại nữa.

Nhứt thiết trí: Nhứt thiết = tất cả; Trí = trí huệ. Đức Phật đạt đến nhứt thiết trí khi trí huệ của Ngài thông suốt tất cả mọi sự vật ở mọi cõi và vào mọi thời.

Tế độ = cứu giúp cho qua khỏi cơn khó khăn.

Thiện thệ: Thiện = khéo; Thệ = đi qua. Ở đây, có nghiã Ngài đã vượt qua khỏi cảnh khổ sở của Luân hồi, chẳng bao giờ phải trở lại vòng lẩn quẩn nữa.

Định tướng: Định = cố định, ít thay đổi; Tướng = hình tướng. Định tướng là hình dạng ít thay đổi, giữ lâu như cũ.

Tự tướng: Tự= chính mình, riêng của mình. Tướng = hình tướng. Tự tướng hình tướng riêng của một ai.

Vô ký: Vô = chẳng có; Ký = ghi. Chữ vô ký thường dùng để chỉ tính chất trung hoà, chẳng nghiêng về bên nào. Thí dụ chẳng vui chẳng buồn, thì gọi là vô ký; chẳng thiện chẳng ác, cũng gọi là vô ký.

Điều ngự trượng phu: Điều ngự= khéo chế phục được; Trượng phu = bực nam nhi đáng kính nễ.

Thuần hoá: Thuần = dễ khiến, biết tuân phục; Hoá = chuyển hoá, giáo hoá, làm thay đổi cho tốt hơn.

A-tăng-kỳ: phiên âm chữ Pàli Asankheyya, có nghiã là vô lượng, con số lớn nhứt chẳng thể tính toán được.

Sự tích bổn sanh = Sự tích về các đời sống ở các kiếp trước.

Thực ngữ: Thực = chơn thật, chẳng dối trá; Ngữ = lời nói. Thực ngữ là lời tôn trọng sự thật, nói đúng theo sự thật.

Mười bốn loại Trí huệ: Thật ra đó chỉ là một Trí Huệ thôi nhưng có đủ 14 khả năng, được liệt kê trong Luận văn; các khả năng đó sẽ được giải thích thêm ở hai Phẩm chót.

Tám điều giải thoát: xem lại Bát giải thoát, trang 370, Phẩm 4.

Chuyển Pháp luân: Chuyển = quay; Pháp = Chánh pháp; Giáo pháp của Đức Phật; Luân = bánh xe. Chuyển Pháp luân là quay bánh xe Pháp, tức là khai mở, giảng giải đường lối tu hành cho chúng sanh để được giác ngộgiải thoát. Bản Kinh đầu tiên của Đức Phật Thích-ca tại vườn Lộc Uyển, giảng cho năm anh em ông Kiều trần như nghe, được gọi là Kinh Chuyển Pháp luân.

Thân biến: sự biến hoá của thân.

Thuyết biến: sự biến hoá của lời nói.

Giáo biến: sự biến hoá do giáo dục gây ra.

Lợi dưỡng: Xem lại trang 340, Ph. 3

Thiền nội hành: trái với Thiền ngoại hành, còn ở bên ngoài chưa vào Định; nội hành là nhập vào trong Định, tức là vào bốn cấp Sơ thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền Tứ thiền.

Tịch diệt = Niết-bàn; Tịch = yên vắng; Diệt = chẳng còn gì nữa, tức là diệt hết các phiền não.

Nê-hoàn = Niết-bàn.

Sa-môn quả: quả vị Sa-môn, tức là đạo quả A-la-hán, diệt tận các phiền não, chứng được vô sanh. Xem lại trang 343, Ph. 2.

Giới bất tử: vào hàng chẳng chết. Giới = hàng, bực; Bất = chẳng; Tử = chết. Giới bất tử là các bực đã chứng được vô sanh, vì chẳng có sanh ra nên chẳng chết đi.

Diệt trí: Diệt = tạn diệt, làm cho tiêu mất; Trí = trí huệ. Đây là nói trí huệ hiểu biếtthực hành xong việc tiêu diệt tất cả phiền não, khổ đau, để chứng đắc Niết-bàn.

Vô vi: Vô = chẳng; Vi = làm. Pháp vô vi là pháp chẳng có tạo tác, gây thêm hay tạo dựng gì nữa. Trái với vô vi hữu vi, nghiã là do có sự tạo tác mà thành. Thí dụ: căn nhà là pháp hữu vi; còn Chơn lý là pháp vô vi.

Cộng đồng: Cộng = chung cùng với nhau, hợp lại; Đồng = bằng nhau, bình đẳng. Chữ cộng đồng đây có nghiã là từ ba vị tu sĩ trở lên sống chung với nhau trong tu viện.

Thánh chúng: các bực Thánh. Thánh = các bực tu hành đã chứng quả A-la-hán, diệt xong các phiền não và chứng được vô sanh, thoát khỏi Luân hồi. Ba quả vị trước, Tu-đà-hườn, Tư-đà-hàm và A-na-hàm, thuộc bực Hiền.

Phước điền: Phước = phước đức; Điền = ruộng. Xứng đáng làm phước điền cho thế gian có nghiã là người ấy xứng đáng để kẻ khác dâng cúng, hầu tạo phước cho họ về sau.

Trộm giới: Nguyên văn là "ly giới đạo" có nghiã là lìa xa sự trộm giới. Trộm giới là mình còn chưa được Thầy truyền cho mình một giới để giữ, mà đã tìm cách để biết coi người khác có giữ giới đó không và cố tình soi mói tội lỗi phạm giới của kẻ khác; thí dụ như Sa-di trộm giới của Tỳ-kheo.

061. Tìm hiểu nghiã vài ý tưởng trong Chi 3.

1) Mười Tưởng bất tịnh nhằm đối trị lòng Tham dục.

11) Vì sự vật đối tượng hợp với lòng mình, nên sanh ra ham thích rồi mê đắm, khiến cho thân tâm bị vướng mắc.

Mười Tưởng bất tịnh nhằm đối trị lại lòng ham muốn đó, để được giải thoát. Tuy gọi là mười Tưởng bất tịnh, nhưng thật ra đó chỉ là một ý niệm về sự dơ dáy, đáng gớm ghiếc, chẳng đáng cho mình ham thích, được thể hiện qua sự quán sát mười đối tượng bất tịnh. Mười đối tượng nầy lại cùng phát xuất từ một thây ma sình thúi, từ từ thối nát, rã rời, cho đến khi chỉ còn là một đống xương trắng hếu.

12) Luận văn viết nơi trang 140: "Người nhiều tham dục nên quán tưởng tướng sình chướng; người tham ái sắc dục nhiều, nên quán tưởng tướng bầm xanh; người muốn tịnh lòng dục nên quán tưởng tướng rỉ mủ,..." Còn ham chi nữa khi nhìn kỹ thấy nơi tướng sình chướng chẳng còn các đường cong tuyệt mỹ trên thân hình yểu điệu, thế vào đó là những chỗ sưng phù, những nét thô kệch! Làm sao mà còn có lòng ái mộ được nữa khi sắc diện hồng hào, tươi thắm ngày xưa nay đã trở nên tái nhợt, đầy tử khí, nơi tướng bầm xanh? Bụng dạ nào còn lưu luyến đôi môi mọng thắm, khi nhìn thấy máu mủ loang bê bết bên khoé miệng, nơi tướng rỉ mủ? Đối tượng bất tịnh dễ làm khởi lên trong tâm tưởng bất tịnh, hiệu quả dẹp qua, ít nhứt trong một thời gian, sự tham luyến sắc đẹp vật chất.

13) Nhưng ngày nay, việc quán tưởng thây ma khó thực hiện, vì lẽ luật lệ và phong tục chẳng chấp nhận việc phơi bày thi thể người chết để bộc lộ, trong chỗ hoang vắng nữa. Tuy nhiên, việc khởi lên trong tâm một tưởng bất tịnh chẳng phải tùy thuộc hoàn toàn vào một đối tượng bên ngoài thật gớm ghiếc. Luận văn nêu rõ, ở mỗi tướng bất tịnh, hành giả phải dùng chánh tríhiểu biết đến, đó gọi là tưởng sình chướng, tưởng bầm xanh, v.v. Điều nầy có nghiã là khi quan sát đối tượng, chánh trí phải khởi lên, thấy rõ chỗ đáng tởm, mà diệt lòng ham muốn. Chánh trí đó là gì? Nếu chẳng phải đó là sự vận dụng lý trí nhìn thấy Sự thật đang bị che dấu mà mình còn chưa thấu rõ. Đối tượng bất tịnh dễ cho ta khởi lên chán ghét. Đối tượng khả ái dễ cho ta luyến mến. Vấn đề vận dụng chánh trí chính là biết nhìn sâu, dưới lớp hào nhoáng, một sự thật ê chề đang bị che khuất. Trước một đối tượng hấp dẫn, quyến rũ, Chánh trí nhìn thấu qua hình tướng bề ngoài, thấy được bản chất bất tịnh bên trong, giúp ta chiến thắng được sự cám dỗ của hình tướng, và đưa đến kết quả cũng tương tự như trường hợp nhìn một đối tượng bất tịnh.

Như thế, để đối trịhiệu quả với lòng tham dục, chánh trí lúc nào cũng phải khởi lên trước mọi sự cám dỗ, thành công hay không, chính là do ý chí cương quyết.

2) Phương pháp Niệm trong Mười Niệm.

21) Mở đầu đoạn nói về Niệm Phật, Luận văn nêu ra phương pháp Niệm như sau: "Niệm Phật là niệm Đức Phật, Thế tôn, chánh biến tri, công đức đạo Bồ-đề. Niệm phải theo sát niệm, chẳng mất niệm cănniệm lực, luôn luôn giữ niệm trong chánh niệm, đó gọi là niệm Phật." Đối với chín niệm còn lại, phương pháp niệm cũng lại như thế.

22) Nội dung của Niệm là các công đức của Đức Phật, cũng như khi Niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Thí, v.v. là niệm về công đức của Pháp, của Tăng, của việc bố thí v.v.

23) Cách giữ gìn niệm:

- niệm phải theo sát niệm: có nghiã là chẳng được gián đoạn, và phải kế tiếp nhau theo thứ tự. Gián đoạn để cho niệm khác xen vào. Kế tiếp theo thứ tự mười danh hiệu từ Như lai, Ứng cúng... cho đến ... Phật, Thế tôn, phải được niệm đúng theo thứ lớp, chẳng lộn cái trước cái sau;

- chẳng mất niệm cănniệm lực: Niệm mà để mất niệm căn là bị vọng tưởng bên ngoài vào khuấy rối. Mất niệm lực là sức niệm lơi lỏng, lơ là, chẳng còn chú ý đến niệm như lúc ban đầu.

- luôn luôn giữ niệm trong chánh niệm: đang niệm một niệm biết niệm điều gì và hiểu ý nghiã của niệm ấy.

062. Suy gẫm về Chi 3, Phẩm 8:

1) Mười Tưởng bất tịnh và Mười Niệm thực hành khác nhau ra sao?

11) Khác mục tiêu:

111. Tưởng bất tịnh nhằm mục tiêu khởi lên trong tâm sự gớm ghiếc hay là, ở một trình độ thấp hơn, sự nhàm chán, sự chẳng còn thích nữa, khiến cho trong hành động hết đam mê, chẳng còn tham đắm như trước nữa.

112. Giữ một Niệm trong Mười Niệm luôn luôn có mặt trong tâm nhằm mục tiêu canh chừng các vọng tưởng chẳng được xâm nhập vào tâm. Tại sao? Vì niệm đang giữ cùng với chánh niệm đóng vai trò cảnh sát phát giác bất cứ niệm ngoại lai nào vừa đến, rồi nhờ sức chú ý của chánh trí mà gạt bỏ qua một bên, hay ít nhứt là chẳng chú tâm đến chúng, khiến rồi ra chúng phải tự lặn đi.

12) Khác trong cách quán tưởng:

121. Khi quán tưởng về mười Tưởng bất tịnh, hành giả đặt trọng tâm trong việc quán sát đối tượng. Càng thấy rõ những nét bất như ý trên đối tượng bao nhiêu thì hiệu quả đến việc chán ghét đối tượng càng tăng lên bấy nhiêu và do đó cảm tưởng chán chê giành được chỗ của sự tham đắm vốn tiềm phục sẵn trong tâm.

122. Khi tưởng niệm về mười Niệm, hành giả đặt trọng tâm trongviệc lần lượt theo thứ tự các công đức mà khởi niệm nhớ trong tâm, nhớ sao chẳng lộn cái trước cái sau, nhớ sao cho các niệm công đức choán hết chỗ trong tâm khiến cho các tư tưởng khác chẳng còn dịp nổi lên được.

123. Sự khác biệt rõ rệt giữa hai cách quán tưởngđối với tưởng bất tịnh, tâm dán chặt trên đối tượng bất tịnh; còn đối với tưởng niệm thì tâm quay vào bên trong, nhiệm vụ chánh của tâm lúc bấy giờ là canh chừng: (1) canh chừng chẳng cho vọng tưởng làm gián đoạn việc tưởng niệm; (2) nhớ theo đúng thứ tự các công đức đang niệm.

13) Khác nhau về hiệu quả:

131. Mười Tưởng bất tịnh khi thành tựu, hành giả sẽ dứt được sự tham ái, đây là nguyên nhân gây ra Khổ trong Chơn lý thứ hai của Tứ Diệu đế, tức là Tập đế. Nhưng con đường đó cũng khá chông gaihành giả phải bắt đầu quán sát với sự bất như ý trước một đối tượng vừa bất tịnh lại vừa hôi thúi. Vả lại, kết quả nhiều khi chẳng được như ý muốn vì rất có thể, hành giả sanh ra chán đời, chán luôn cả tấm thân nầy, điều đó đã xảy ra dưới thời Đức Phật, khi các Tỳ-kheo muốn tự sát, vì cảm thấy thân nầy quá dơ dáy, cần phải giải thoát ra khỏi. Lẽ dĩ nhiên, họ được Đức Phật chỉ cho thấy sự sai lầm trong tư tưởng trong khi quán bất tịnh mà sửa đổi lại.

132. Mười Niệm nếu được chuyên cần tu tập sẽ đưa đến kết quả gần là tăng thêm niềm tin nơi niệm đang niệm. Nếu niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng sẽ tăng thêm niềm tin về ba ngôi Tam Bảo. Từ niềm tin đó mà đi đến định lực trong Thiền quán cũng chẳng quá xa. Đấy là kết quả xa và là một ưu điểm của việc Niệm Phật.

2) Niệm mười danh hiệu Phật và Niệm hồng danh Đức Phật A di đà.

21) Hai lối niệm Phật khác nhau:

221. Luận văn trình bày sự niệm công đức, tức là nhớ nghĩ luôn đến các công đức của Đức Phật, của Pháp, của Tăng, của Bố thí, cuả Trì Giới v.v. Giữ sao cho các công đức thường hiện lên trong tâm, để tăng lòng tin tưởng nơi Tam Bảo, nơi Bố thí, nơi Trì giới v.v. Luận văn chẳng những liệt kê đầy đủ và tỉ mỉ mười danh hiệu của Đức Phật mà còn kể lại một cách vắn tắt sự tích bổn sanh của Đức Phật, các loại trí huệ của Phật, mười lực bất cộng của Phật, v.v. mục đíchđể cho hành giả gia tăng sự tin tưởng nơi sự toàn năng của Bực Đại Giác.

222. Niệm hồng danh Đức Phật A di đà, căn cứ trên bản Kinh Phật thuyết A di đà kinh, theo đó người nào niệm danh hiệu Đức Phật A di đà đến mức nhứt tâm bất loạn, thì khi mạng chung sẽ được Đức Phật A di đà và các Thánh chúng rước về cõi Cực lạc. Phương pháp thực hành là phải luôn niệm niệm, hoặc ra tiếng, hoặc niệm thầm danh hiệu Đức Phật A di đà. Dùng câu niệm danh hiệu làm đối tượng và đến khi nhứt tâm bất loạn, tâm và đối tượng trở thành một, khiến cho cảnh giới Cực lạc thế giới hiện rõ trong tâm.

22) Cùng đưa đến kết quả tương tự:

221. Căn cứ theo hai Chi 1 và 2 của Phẩm 8 nầy, thì thiền chi cuối cùng của Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam ThiềnTứ thiền đều là nhứt tâm. Như thế, so với mục tiêu của việc niệm danh hiệu Đức Phật A di đà, kết quả của việc niệm công đức của Đức Phật thấy chẳng khác nhau, vì cùng đi đến mức nhứt tâm bất loạn cả.

222. Nhận xét nầy cho thấy Thiền và Tịnh chẳng khác nhau trên căn bản, tuy cách hành trì có khác nhau. Vì lẽ ấy, tưởng chẳng cần phân biệttranh chấp hơn thua nhau nữa giữa hai môn phái lớn: Thiền tông và Tịnh độ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29898)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27180)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21770)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22234)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23605)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21949)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24757)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18990)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24768)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30978)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23992)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27765)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26517)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21322)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23231)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38138)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18805)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19978)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19050)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23173)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23887)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22816)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22917)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29583)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20646)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18712)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15848)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18864)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19685)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20159)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19957)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18128)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22945)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34169)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16425)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16921)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39258)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26081)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20099)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18859)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24066)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29148)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22904)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30967)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21012)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26857)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26268)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23330)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19823)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24685)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30047)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20227)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20408)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15840)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23903)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant