Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần Tìm Hiểu Phẩm 10: Phân biệt Huệ

02 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8249)
Phần Tìm Hiểu Phẩm 10: Phân biệt Huệ

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN
VIMUTTI MAGGA
Thiện Nhựt chuyển dịch sang tiếng Việt

Phần 2: PHẦN TÌM HIỂU

Phần Tìm Hiểu Phẩm 10: Phân biệt Huệ


Chuyển tiếp: Con đường giải thoát theo trong Luận văn, gồm có việc tu tập Giới, Định Huệ. Trong chín Phẩm trước, Luận văn lần lượt trình bày đường lối tu tập để giữ Giới cho thanh tịnh, để tâm được an trú vào Định lực, nhằm đến mục tiêu cuối cùngphát triển được Trí Huệ.

Phẩm 10 nầy trình bày các hình thức của Trí Huệ Bát-nhã đưa hành giả đến nơi giác ngộgiải thoát.

080. Dàn bài của Phẩm 10: Phân biệt Huệ.

I. Nhập đề: Chẳng thấy có phần Nhập đề, Luận văn đi thẳng vào định nghiã Trí huệ là gì.

II. Thân bài: Thân bài chia ra hai phần rõ rệt: (1) thế nào là Trí huệcông đức của Trí Huệ; (2) các loại Trí huệ.

A. Thế nào là Trí huệ / Bát-nhã: phiên âm chữ Phạn Prajna, chữ Pàli Panna.

1. Hình tướng và chức năng của Trí Huệ:

11. Huệ là nhìn sự vật đúng như thật.
12. Định nghiã trong A-tỳ-
đàm: phân biệt việc lợi ích và chẳng lợi ích.
13. Trí Huệ và Bát-nhã.
14. Các chức n
ăng của Trí Huệ / Bát-nhã: chọn lựa đúng; đưa đến Chánh trí; sức mạnh phá tan ngu si; ánh sáng như ngọn đèn; qúi như bảo vật.

15. Phạm vi của Trí Huệ: bốn Chơn lý Nhiệm mầu;

16. Các công đức của Trí Huệ: bài Kệ trong Luận văn

17. Nghiã của Trí Huệ: đoạn trừ phiền não.

B . Các loại Trí Huệ:

Chỉ có một Trí Huệ Bát-nhã nhưng biểu lộ ra dưới nhiều hình thức. Luận văn sắp xếp thành hai loại, ba loại bốn loại.

1. Hai loại Trí Huệ:

11. Trí Huệthế gian, còn nhiều lậu hoặc;
12. Trí Huệ xuất thế gian, dứt lậu hoặc.

2. Ba loại Trí Huệ:

21. Văn huệ, Tư HuệTu Huệ:

Văn Huệ: nhờ nghe mà được huệ;
Tư Huệ:
do suy tư mà khởi lên Huệ;
Tu Huệ:
do tu nhập vào chánh
định.

22. Huệ đến, Huệ đi Huệ phương tiện:

Huệ đến làm lợi cho nghiệp lành;
Huệ đi
làm tăng ác nghiệp;
Huệ phương tiện dùng tất cả mọi phương tiện
để làm tăng việc hành thiện.

23. Huệ tụ, chẳng tụ, Huệ vừa tụ vừa chẳng tụ:

Huệ tụ tích luỹ nghiệp lànhba nghiệp;
Huệ chẳng tụ
ở bốn đạo hàng Thanh văn;
Huệ vừa tụ vừa chẳng tụ: Huệ ở bốn quả hàng Thanh v
ăn, tụ ba nghiệp lành, mà chẳng tụ ở bốn quả.

3. Bốn loại Trí Huệ:

31. Huệ tùy nghiệp, Huệ hợp Chơn lý, Huệ liên hệ Đạo, Huệ liên hệ Quả:

Huệ tùy nghiệp: khởi lên tại các lãnh vực của Chánh kiến;
Huệ hợp Chơn lý:
khởi lên khi thấy các đặc tướng Khổ, Vô thường, Vô ngã.
Huệ liên hệ Đạo
khởi lên khi hiểu rõ bốn
Đạo hàng Thanh văn;
Huệ liên hệ Quả khởi lên khi
đắc bốn Quả hàng Thanh văn.

32. Huệ dục giới, sắc giới, vô sắc giới, đạo quả:

Huệ dục giới khởi lên khi làm việc thiện xác định ở cõi dục giới;
Huệ sắc giới
khởi lên khi làm các việc thiện xác định ở cõi sắc giới;
Huệ vô sắc giới
khởi lên khi làm các việc thiện xác định ở cõi vô sắc giới.
Huệ liên hệ với Đạo và quả
khởi lên khi tu tập bốn Đạo và bốn Quả Thanh văn

33. Pháp trí, tỉ trí, tha tâm tâm trí đẳng trí:

Pháp trí khởi lên khi tu tập các Đạo Quả trong Chánh pháp;
Tỉ trí khởi lên khi hiểu biết sự việc quá khứ, hiện tạivị lai;
Tha tâm trí
khởi lên khi hiểu được tâm của kẻ khác;
Đẳng trí khởi lên ngoài ba
địa hạt trên.

34. Huệ do nhàm chán, chưa thông đạt; Huệ chẳng do nhàm chánthông đạt; Huệ do nhàm chánthông đạt, và Huệ chẳng do nhàm chán, chẳng thông đạt:

Huệ do nhàm chán tham dục nhưng chưa thông đạt Bốn Chơn Lý nhiệm mầu
Huệ chẳng do nhàm chán mà thông
đạt được bốn Đạo và bốn Quả Thanh văn;
Huệ do nhàm chán các tham dục mà thông
đạt được bốn Quả và bốn Đạo
Các Huệ còn lại thuộc nhóm thứ tư.

35. Có bốn loại Huệ về biện luận:

Huệ nghiã biện: phân biệt rõ về nghiã;
Huệ pháp biện:
thông
đạt Chánh pháp; hiểu rõ đầy đủ 12 loại bộ kinh;
Huệ từ biện: phân biệt rõ ngữ nguyên; giải thích rõ nghiã và lời;
Huệ lạc thuyết biện:
phân biệt chính sự hiểu biết, và thuyết giảng chẳng ngại.

36. Bốn loại Trí: Khổ trí, Tập trí, Diệt trí, Đạo trí.

Nơi Khổ trí, Huệ khởi khi hiểu Khổ đế;
Nơi Tập trí, Huệ khởi khi hiểu Tập đế, các nguyên nhân gây ra Khổ;
Nơi Diệt trí, Huệ khởi khi thực hiện việc tận diệt các nguyên nhân gây ra Khổ
Nơi
Đạo trí, Huệ khởi khi thi hành theo Bát Chánh Đạo.

III. Kết luận: Chẳng thấy phần Kết luận của Phẩm 10.

081. Tìm hiểu nghiã các chữ khó của Phẩm 10:

Huệ: Huệ = Trí Huệ = dịch nghiã chữ Bát-nhã. Chữ Bát-nhã vốn do phiên âm chữ Phạn Prajna, chữ Pàli Panna, có nghiã trí thông minh hiểu biết mọi sự vật. Sở dĩ Kinh sách thường chẳng dịch chữ Bát-nhã mà chỉ phiên âm, là vì các bực đại sư sợ người đời lẫn lộn trí thông minh thông thường với Trí Huệ Bát-nhã. Chỗ khác nhau giữa hai trí đó là, một đằng thông minh, lanh lợi, bặt thiệp, nhưng chỉ nhằm mục đích đem mối lợi về cho mình, còn đằng khác, Trí Huệ Bát-nhã thì có khả năng đưa hành giả đến bờ giác ngộgiải thoát.

Nói cách khác, trí thông minh trí tại thế gian; trong khi Trí Huệ Bát-nhã trí xuất thế gian.

A-tỳ-đàm: phiên âm chữ Pàli Abhidhamma, dịch nghiã là Luận tạng, các bộ Luận, bàn về Chánh pháp, trong Tam Tạng Kinh điển. Còn được dịch là Vi diệu pháp, nghiã là các pháp vi diệu, nhiệm mầu, giúp cho hành giả tu tập để đi đến giác ngộgiải thoát.

Chánh trí: Xem lại trang 455, Phẩm 8.

Huệ trượng: Huệ = trí huệ; Trượng = gậy gộc, một thứ vũ khí. Ví Bát-nhã như Huệ trượng, vì với Trí Bát-nhã ta có thể đánh dẹp các sự cám dỗ, các mối đe doạ, để phòng thân.

Huệ câu: Huệ = trí huệ; Câu liêm = loại vũ khí dài, ở đầu có móc câu nhọn. Lý do Bát-nhã với một vũ khí là vì Bát-nhã sức mạnh tinh thần giúp ta phòng vệ thân tâm.

Huệ quang, Huệ minh, Huệ đăng: Huệ = trí huệ; Quang = ánh sáng; Minh = sáng; Đăng = đèn. Bát-nhã chiếu sáng lên nên được ví như ánh sáng, như ngọn đèn.

Huệ điện: Bát-nhã đẹp đẽ, lộng lẫy như cung điện

Huệ bảo: Bảo = vật qúi báu. Ví Bát-nhã với bảo vật.

Biện luận = tranh luận, bàn luận, bàn cãi hơn thua nhau về lý lẽ.

Chơn Như: Chơn = chơn thật, Như = như thế. Chơn Như hoặc Như Như là tiếng chuyên môn trong Phật học để nói đến Chơn Lý tuyệt đối.

Ngoại đạo: Ngoại = ngoài; Đạo = tôn giáo. Chữ ngoại đạo trong Phật học dùng để chỉ các tôn giáo, các môn phái chẳng phải là chánh tông của Phật giáo.

Nguyên gốc của chữ nầy chẳng có nghiã xấu, nhưng sau thường được dùng để chỉ các đạo phái mê tín, các bàng môn tả đạo.

Thế pháp: Thế = đời, thế tục, đời sống thường chưa tu hành. Sống theo thế pháp là sống theo tục lệ, luật lệđời.

Lý Nhân Duyên: Xem lại trang 496, Phẩm 8

Danh-Sắc: Xem lại các trang 422 và 426 Phẩm 8.

Tứ Đế = Tứ Diệu Đế: Tứ = bốn; Diệu = nhiệm mầu, kỳ diệu; Đế = Chơn lý, Sự Thật. Bốn Chơn lý Nhiệm mầu là Khổ đế, Tập đế, Diệt đế Đạo đế. (1) Khổ đế là Chơn lý về sự khổ ở đời; (2) Tập đế là Chơn lý về nguốn gốc gây nên sự khổ; (3) Diệt đế là Chơn lý về sự tận diệt sự khổ, đắc được Niết-bàn; (4) Đạo đế là Chơn lý về con đường Bát Chánh Đạo, có tám ngành, đưa đến sự tận diệt các phiền nãođược giải thoát. Tứ Diệu Đế được Đức Phật Thích-ca thuyết giảng lần đầu tiên, sau khi Ngài thành Đạo, ở vườn Lộc uyển cho năm anh em ông Kiều trần như nghe, gọi là Kinh Chuyển Pháp Luân.

Khế Kinh: Khế = phù hợp với; Kinh = lời Đức Phật giảng, được ghi chép lại trong Tam Tạng Kinh Điển. Tại sao gọi là khế kinh? Vì Kinh của Phật giảng khế lý, nghiã là phù hợp với Chơn Lý. Và vì Kinh của Phật giảng khế cơ, nghiã là phù hợp với căn cơ, với khả năng của người nghe. Hơn nữa, khi dịch chữ Phạn Sutra, Pàli Sutta, ra tiếng Hán Việt bằng chữ Kinh, các bực đại sư sợ lộn với Ngũ Kinh của Đức Khổng Tử, nên dịch Kinh Phật là khế kinh. Đôi khi, chữ sutra chẳng được dịch mà chỉ phiên âm là Tu-đa-la.

Kết sử: Kiết sử: Kết = ràng buộc; Sử = sai khiến. Có mười kết sử, tức là mười mối tình cảm hay phiền não, ràng buôc thân tâm, sai khiến ta phải hành động theo con đường chẳng lành.

Đó là ngũ hạ kết, hoặc ngũ độn sử, năm mối ràng buộc của người căn cơ còn thấp kém: (1) tham kết, (2) sân kết, (3) thân kết, (4) giới cấm thủ kết, (5) nghi kết. Nói cách khác, năm kết sử thấp nầy gồm có: tham, giận, có thân kiến (chấp thân tâm nầy là Ta), tin thờ các nghi thức mê tín, dị doan, và sự nghi ngờ; các tình cảm phiền não nầy che mờ con đường lành, súi dục con người theo đường dữ.

ngũ thượng kết, hoặc ngữ lợi sử, năm mối ràng buộc cao hơn, nhưng vẫn sai khiến con người hành động chẳng đúng theo Chánh pháp: (6) sắc ái kết, (7) vô sắc ái kết, (8) trạo kết, (9) mạn kết, (10) vô minh kết. Nói cách khác, n ăm kết sử cao nầy gồm có: yêu thích cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, thân tâm còn xao động, vụt chạc, sự kiêu mạn, phách lối, và sự ngu si, mê mờ; các tình cảm phiền não nầy, tuy cao hơn, nhưng vẫn che mờ con đường lành theo Chánh pháp.

Văn huệ: Văn = nghe; Huệ = trí huệ. Văn huệ trí huệ phát khởi lên nhờ nghe người chỉ dạy; sự hiểu biết từ bên ngoài vào.

Tư huệ: Tư = suy nghĩ. Tư huệ trí huệ phát khởi lên nhờ sự suy tư của chính mình; sự hiểu biết từ bên trong nhờ suy nghĩ mà phát giác được.

Tu huệ: Tu = tu tập. Huệ = trí huệ. Tu huệ trí huệ phát khởi như tu tập Định lực; nhờ tâm an định, chú ý đến đề mục quán tưởng mà sự hiểu biết trong Thiền Định được tăng lên. Chẳng do suy nghĩ, chẳng do nghe nói đến, sự hiểu biết bên trong nầy phát khởi do định lực nhờ tu tập bốn cấp Thiền.

Tam-muội: Xem lại trang 506, Phẩm 10.

Bốn Đạo và Bốn Quả: đạo và quả cấp Tu-đà-huờn, đạo và quả cấp Tư-đà-hàm, đạo và quả cấp A-na-hàm, đạo và quả cấp A-la-hán. Đạo là con đường đang tu tập; Quả là kết quả việc tu tập đã thành công, còn gọi là quả vị.

Kham nhẫn: Kham = ưng chịu, gánh vác được; nhẫn = nhịn nhục, bền chí. Kham nhẫn vui lòng gánh chịu sự khó khăn, khổ sở mà chẳng than van.

Pháp trí: Pháp = chánh pháp, giáo pháp, đạo pháp; Trí = trí huệ. Pháp trí trí huệ khởi lên khi theo đúng Chánh pháp.

Tỉ trí: Tỉ = so sánh; trí = trí huệ. Tỉ trí trí huệ khởi lên khi có sự hiểu biết trong việc so sánh thời hiện tại với hai thời quá khứvị lai. Trái nghiã với Đẳng trí.

Đẳng trí: Đẳng = bình đẳng, ngang hàng, chẳng có sự phân biệt kỳ thị chỗ hơn chỗ kém. Đẳng trí trí huệ khởi lên khi tâm bình đẳng, đối xử với mọi việc đồng đều, chẳng so đo hơn kém, bỏ sự chấp thủ, chọn lấy sự buông xả với xả niệm.

Nghiã biện: Nghiã = ý nghiã, phần nội dung; Biện = biện luận, tranh luận. Nghiã biện là một ngành của sự tranh biện, bàn cãi về ý nghiã, nội dung của đề mục.

Pháp biện: Pháp = chánh pháp, giáo pháp; Biện = tranh biện, bàn cãi. Pháp biện trí huệ khởi lên khi xét đến cách luận bàn về đạo pháp được thông suốt.

Từ bìện: Từ = chữ, ngôn ngữ; Biện = biện luận, môn học về... Từ biện là khoa học cứu xét về căn nguyên của ngôn ngữ, còn gọi là ngữ nguyên học. Giỏi về từ biện là rành rẽ về nguồn gốc của chữ, của ngôn ngữ.

Lạc thuyết biện: Lạc = vui; Thuyết = nói; Biện = tranh biện, bàn cãi. Lạc thuyết biện là trỏ vào người khéo nói, vui nói trong khi tranh biện, giảng giải giáo pháp rành rẻ, dễ hiểu, dễ nhớ khiến người nghe thích thútin theo.

Thập Nhị Bộ Kinh = Mười hai loại Bộ Kinh = Những lời thuyết giảng của Đức Phật Thích-ca được kết tập thành mười hai loại hình thức bài pháp; xin đừng lầm rằng Đức Phật chỉ nói có 12 Bộ Kinh; Ngài đã thuyết giảng trong hơn 45 năm, vô số Kinh kệ, ghi trong Tam Tạng Kinh Điển, số lượng kinh đến hơn ngàn bộ. Các hình thức bài pháp đó gồm có:

Khế Kinh: Xem lại trang 514, Phẩm 10 nầy. Còn gọi là Trường hàng, những bản Kinh dài. (Phạn: sutra)

Trùng tụng: Trùng = nhắc lại, lập lại ý chánh dưới hình thức ngắn gọn hơn. (Phạn: geya)

Thọ ký: bản Kinh trong đó Đức Phậttuyên bố một hay nhiều người đệ tử sẽ đắc ngôi vị Chánh đẳng Chánh giác, trong tương lai. (Phạn: vyakarana)

Phúng tụng: Phúng = tiếng đọc trầm buồn để cảm hoá người; Tụng = đọc. Phúng tụng là một hình thức bốn câu thơ ngắn, gọi là tứ cú kệ, hay nói tắt là Kệ. Như các bài Kệ trong Kinh Pháp Cú. (Phạn: gathà)

Tự thuyết: Tự = chính mình; Thuyết = nói. Khi thuyết giảng, phần nhiều bản Kinh do các đệ tử nêu một vấn đề thắc mắc lên, được Đức Phật giải thích. Nhưng trong phần tự thuyết, tự Đức Phật nêu lên vấn đề chẳng có ai thưa hỏi, mà đem dạy cho đệ tử. Còn gọi là vô vấn tự thuyết. (Phạn: Udàna).

Nhân duyên: Nhân = nguyên nhân; Duyên = duyên cớ; Xin xem lại trang 496, Phẩm 8. Ở đây, nói đến các bản Kinh giải thích về Mười hai Nhân duyên liên kết nhau tạo thành vòng Luân hồi sanh tử của chúng sanh. 12 nhân duyên: (1) Vô minh, (2) Hành, (3) Thức, (4) Danh-Sắc, (5) Lục nhập, (6) Xúc, (7) Thọ, (8) Ái, (9) Thủ, (10) Hữu, (11) Sanh, (12) Tử, sẽ được Phẩm 11: Năm Phương tiện giảng rõ thêm. (Pàli: Nidàna).

Thí dụ: Những bản Kinh dùng thí dụ để giải thích nghiã thâm sâu. (Phạn: Avadàna)

Bổn sự: Quyển thứ tư của Tiểu Bộ Kinh gồm các bản kinh ngắn, khởi đầu bằng câu: "Đức Phật có nói như vầy" (Pàli: Itivuttaka)

Bổn sanh: Những bản Kinh thuật lại các tiền kiếp của Đức Phật Thích-ca. (Pàli: Jàtaka)

Phương quảng: Phương đẳng = Những bản Kinh lớn của Đại Thừa Phật giáo, như Kinh Hoa nghiêm, Kinh Thủ lăng nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Đại Bát-Niết-bàn, v.v. (Phương = vuông; Quảng = rộng lớn; Đẳng = bình đẳng, ngang hàng nhau) (Phạn Valpulya)

Vị tằng hữu: Vị = chưa; tằng = từng; hữu = có. Vị tằng hữu là những bản Kinh thuật lại những sự việc phi thường chưa từng xảy ra trong đời, như việc khi Đức Phật mới đản sanh đã bước đi bảy bước, hào quang sáng chói khắp bốn phương. (Phạn: Abhudharma)

Luận nghị: Luận = Nghị = bàn luận về ý nghiã của sự việc. Đây là những bản Kinh Đức Phật giảng rõ nghiã và phân biệt các tướng mạo. (Phạn: Upadesa).

Khổ trí: Khổ = đau khổ; Trí = trí huệ. Khổ trí trí huệ khởi lên khi thông hiểu rõ về Khổ đế.

Khổ tập trí: Khổ tập = nguồn gốc gây ra sự đau khổ. Khổ tập trí trí huệ khởi lên khi thông hiểuTập đế, Chơn lý thứ hai nói về các nguyên nhân của sự Khổ.

Khổ diệt trí: Khổ diệt = sự tận diệt các nỗi Khổ. Khổ diệt trí trí huệ khởi lên khi thông hiểuthực hiện được sự tận diệt các nỗi Khổ nói trong Diệt đế, Chơn lý thứ ba nói về sự diệt Khổ và Niết-bàn.

Đạo trí: Đạo = đây là Bát Chánh Đạo, con đường tám ngành thuộc về Đạo đế, Chơn lý thứ tư về phương cách tu tập để tiêu diệt các nỗi Khổ.

Cụ túc trí: Cụ túc = đầy đủ;Cụ túc trí gồm có 4 trí trên.

082. Tìm hiểusuy gẫm về Phẩm 10:

1) Tóm tắt ý nghiã của Phẩm 10:

11. Luận văn nơi Phẩm 10, chẳng có phần Nhập đề và phần Kết luận, mà lại đi thẳng vào đề mục Trí Huệ Bát-nhã. Tưởng cũng nên nhắc lại rằng, mục tiêu việc tu tập theo Giáo lý nhà Phật là đạt đến nơi giác ngộ, để tự mình giải thoát mình ra khỏi cảnh khổ đau sanh tử của Luân hồi. Nhằm mục tiêu nầy, việc giữ Giới ở các Phẩm đầu tiên có nhiệm vụ tạo nên một kỷ luật tự giác chính mình đặt mình vào khuôn khổ tu tập. Một khi việc giữ giới được thanh tịnh, thân tâm trở nên an tịnh, dễ mà đắc được Định lực. Nhờ định lực nầy, càng ngày càng thâm hậu, khiến cho Trí Huệ được khởi lên, vẹt hết mọi che mờ u ám của vô minhphiền não, khiến cho con đường giải thoát càng ngày càng sáng tỏ; mọi cố gắng đưa đến các kết quả trông thấy rõ rệt, và do đó mà vững bước tiến tu.

12. Luận văn đưa ra định nghiã rất rõ ràng về Trí Huệ: tâm ý nhìn thấy sự vật đúng như hiện thấy, chẳng bị che mờ, chẳng có sẵn thành kiến, chẳng có sự phân biệt kỳ thị. Sự Thật như thế nào thì thấy ra như thế ấy, đó là trí Bát-nhã.

Sau định nghiã, Luận văn kể ra những đức tánh cao qúi của Trí Bát-nhã, ta chỉ cần nhớ đức tánh quan trọng bực nhứt nầy: cắt đứt mọi phiền não. Tại sao? Vì trước kia, thiếu trí, ta cũng dư biết các phiền não làm khổ cho ta, nhưng ta chưa thấy rõ cách thức để dẹp bỏ chúng. Giờ đây, với Trí Bát-nhã, thấy rõ các lợi hại, việc dẹp bỏ tùy ở ý chí của ta, và một khí ý chí còn ngần ngại, còn lùi sụt, Trí Bát-nhã nơi ta soi sáng thêm cho Chánh niệm, khiến ta cảm thấy tự hổ thẹn khi rời xa con đường chánh đạo, do đó mà biết chăm lo tu tập.

Phần quan trọng của Luận văn phân biệt tỉ mỉ các loại Trí Huệ Bát-nhã. Thật ra, mỗi người được phú sẵn một tâm trí sáng suốt, chớ chẳng phải có hai, ba, bốn loại; chẳng qua Trí ấy biến hiện dưới nhiều hình thức. Khi ta xét đến Đạo và Quả hàng Thanh văn, Trí ấy giúp ta thấy rõ bốn Đạo và bốn Quả mà Luận văn phân biệt một cách rất khó thấy là Huê tụ, chẳng tụ, và chẳng chẳng tụ. Cũng vậy, đối với bốn loại Trí huệ mà Luận văn liệt kê, Khổ trí, Khổ tập trí, Khổ diệt trí và Đạo trí, ta chỉ cần nhớ đến Bốn Chơn lý nhiệm mầu: Khổ, Tập, Diệt, Đạo là biết được Trí huệ khởi lên khi xét về Khổ, về Tập, về Diệt và về Đạo, vì cùng một Trí Bát-nhã mà hiểu thấu, thông đạt và thực hiện đến hoàn mãn. Giản dị và dễ nhớ hơn.

Nhưng điểm quan trọng bực nhứt về Trí huệ Bát-nhã là việc dẫn dắt mọi hành động, mọi suy tư của con người theo đúng con đường Chánh đạo, mà ta xét trong tiểu mục kế đây.

2) Khẩu hiệu của Đạo Phật: Từ BiTrí Huệ.

Đạo Phật là con đường đưa hành giả đến nơi giác ngộgiải thoát: giác ngộ được cảnh khổ đau phải trôi lăn mãi trong cảnh sanh tử của vòng lẩn quẩn Luân Hồi; giải thoát khỏi mọi ràng buộc, phiền não của cuộc đời thế tục, sướng ít khổ nhiều nầy, để cất bước thênh thang, tự tại theo con đường an lạc của Niết-bàn. Giúp thực hiện mục tiêu đó, Đạo Phật nêu ra khẩu hiệu Từ BiTrí Huệ. Từ là ban vui; Bi cứu khổ; Trí là thoát cảnh ngu si, mê mờ, Huệ là nhìn Sự Thật đúng như thật.

Mình tu tập để được giác ngộgiải thoát; mình đã biết được con đường đi đến mục tiêu, đem chia xẽ với người khác, đó là con đường tu hành của Bồ-tát, vừa tự độ lại vừa độ tha. Nhưng muốn đem nguồn vui đến cho mọi người thì trước nhứt, chính lòng ta phải tràn đầy niềm vui ấy. Thế cho nên muốn thực hiện hạnh Từ Bi, người Phật tử phải biết yêu chính mình, phải biết cứu khổ cho chính mình. Giúp cho ta nhận chân được điều ấy, chính là vai trò của Trí Huệ Bát-nhã, khả năng của tâm trí dẫn hành giả đến bờ giác ngộgiải thoát.

trí thông minh tuyệt đỉnh ở đời, nhưng còn thiếu ánh Từ Bi rạng chiếu thì việc tranh danh đoạt lợi cho mình cũng khó tránh khỏi. Có lòng Từ Bi quảng đại ở đời, nhưng vắng bóng Trí Huệ Bát-nhã thì việc cứu giúp đồng loại cũng còn khiếm khuyết. Thế cho nên sức mạnh của Trí Huệ cần được đức Từ Bi dịu dàng hướng dẫn; cũng như hạnh Từ Bi cũng phải nhờ đến Trí Huệ soi đường. Cả hai, Từ BiTrí Huệ, bổ sung cho nhau, giúp đỡ lẫn nhau, đồng đưa hành giả cùng nhơn loại đến cảnh thanh bìnhan lạc lâu dài.

Thế nên, việc tìm hiểusuy gẫm về Phẩm 10: Phân biệt về Huệ, người học Luận văn nầy nên hướng tâm đến khẩu hiệu nêu trên của Đạo Phật, và nhận ra tầm quan trọng của Trí Huệ: thiếu Trí huệ là thiếu tất cả; nhưng có đầy đủ Trí huệ cũng chưa được hoàn toàn, vì:

- Trí Huệ phải đi song hành với Từ Bi,

thì mục tiêu giác ngộgiải thoát mới mong có ngày sớm đạt được.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31332)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26223)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27515)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27904)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26702)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31225)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20263)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22918)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30039)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21571)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20238)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22659)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20747)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30308)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28788)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34723)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44221)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35511)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22536)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21376)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20683)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24753)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37917)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19034)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19323)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21815)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20870)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29521)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35119)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28815)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32601)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26222)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28930)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43141)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34949)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43920)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37888)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21326)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43025)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49009)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39835)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53777)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36823)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40811)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49732)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47307)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27696)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27025)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27233)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24070)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20845)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34315)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22465)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25120)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25845)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22950)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22472)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21749)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23319)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21183)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant