Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Ðệ Nhất Nghĩa

03 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9591)
1. Ðệ Nhất Nghĩa

KINH LĂNG GIÀ
LĂNG GIÀ A BẠT ĐA LA BỬU KINH
Pháp Sư Tam Tạng Ấn Độ Cầu Na Bạt Đà La dịch từ Phạn sang Hán đời nhà Tống.
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực

PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM
(Phần 1)
QUYỂN THỨ NHẤT

Ðệ Nhất Nghĩa
Nhất Thiết Phật Ngữ Tâm
Lý Luận Về sừng Thỏ
Nhất Xiển Ðề
Ba Thứ Tự Tánh
Hai Vô Ngã
Pháp Tánh Không

Ta nghe như vầy, một hôm Phật ở trên đảnh núi Lăng Già tại bờ biển Nam, có đủ các thứ hoa báu trang nghiêm, khi ấy các Đại Tỳ Kheo Tăng và chúng Đại Bồ Tát từ các cõi Phật đến, những Đại Bồ Tát ấy đều đủ sức tự tại, vô lượng chánh định, du hý thần thông.

Bồ Tát Đại Huệ là bậc thượng thủ (đại diện đương cơ của Kinh này), được tất cả chư Phật đích thân làm phép quán đảnh, cảnh giới tự tâm hiện lượng của Ngài đối với mọi chúng sanh, mọi tâm và sắc, vô lượng pháp môn, cho đến năm pháp của tự tánh và hai thứ Vô ngã đều được từng loại phổ hiện, khéo giải nghĩa lý, thông đạt cứu cánh.

Khi ấy, Bồ Tát Đại Huệ cùng Bồ Tát Ma Đế dạo khắp tất cả cõi Phật, và thừa oai thần của Phật từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo tay phải, chắp tay quỳ gối, cung kính dùng kệ tán thán rằng:

Thế gian lìa sanh diệt

Như hoa đốm trên không.

Trí chẳng trụ hữu, vô,

khởi tâm đại bi.

Tất cả pháp như huyễn,

Xa lìa nơi tâm thức.

Trí chẳng trụ hữu, vô,

khởi tâm đại bi.

Xa lìa chấp đoạn thường,

Pháp thế gian như mộng.

Trí chẳng trụ hữu, vô,

khởi tâm đại bi.

Biết nhơn pháp Vô ngã

Phiền nãonhĩ diệm (1)

Thường trong sạch vô tướng,

khởi tâm đại bi.

(1) NHĨ DIỆM : Theo Thật Dụng Phật Học Tự điển giải thích thì gồm có bốn nghĩa: Sở tri, cảnh giới, trí mẫu, trí cảnh. Bốn từ ngữ này cũng có tương tự cũng có hơi khác, như nghĩa SỞ TRI và CẢNH GIỚI thì thông cả trí và ngu, còn TRÍ CẢNH và TRÍ M"U thì riêng cho bậc trí, lại gồm cả năng sở: Mẹ của trí là năng sanh, cảnh của trí là sở sanh, vì bao gồm nhiều nghĩa như thế, nên người dịch chỉ dịch nguyên âm, chúng tôi cũng chỉ dịch nguyên âm mà tùy theo trường hợp ghi chú.

Niết bàn chẳng thể lập,

Chẳng có Niết Bàn Phật,

Chẳng có Phật Niết Bàn,

Lìa năng giác, sở giác.

Hoặc có hoặc không có,

Cả hai thảy đều lìa.

Pháp thiền quán tịch tịnh,

Vốn lìa sự sanh khởi.

Chẳng đời này đời sau,

Gọi là chẳng thủ xả.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát nói kệ tán thán xong, tự xưng tên họ rằng:

Con tên là Đại Huệ,

Thông đạt pháp Đại Thừạ

Một trăm lẻ tám câu,

Dùng kệ hỏi Thế Tôn.

Đức Phật nghe kệ rồi,

Quán sát tất cả chúng.

Bảo các Phật tử rằng,

Nay cho mặc tình hỏi.

Tôi sẽ vì các ngươi,

Thuyết cảnh giới tự giác.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát kính vâng lời Phật, đảnh lễ chân Phật, chắp tay cung kính, dùng kệ hỏi rằng:

Thế nào niệm trong sạch?

Thế nào niệm tăng trưởng?

Tại sao thấy mê hoặc?

Mê hoặc sao tăng trưởng?

Cách giáo hóa cõi Phật,

Chúng sanh và ngoại đạo?

Thế nào thọ, vô thọ?

Tại sao gọi vô thọ?

Phật tử là nghĩa gì?

Giải thoát đến mức nào?

Ai trói ai giải thoát?

Cảnh giới thiền ra sao?

Tại sao có Tam thừa?

Mong Phật giải thích cho.

Duyên khởi từ đâu sanh?

Sao nói tác, sở tác?

Sao có pháp đồng dị,

Giảm bớt và tăng trưởng?

Sao gọi Vô Sắc Định,

Và gọi Chánh Định diệt?

Thế nào là tưởng diệt?

Vì sao có xuất định?

Tại sao sanh sở tác,

Tinh tấn và trì thân

Thế nào hiện phân biệt?

Chư Địa từ đâu sanh?

Phá tam giới là ai?

Thân này là thân gì?

Vãng sanh đến nơi nào?

Bồ Tát Tối Thắng Tử,

Nhân gì đắc thần thông,

tự tại Tam Muội?

Sao gọi Tam Muội Tâm?

Cúi xin vì con nói.

Chữ "Tạng" là nghĩa gì?

Sao gọi ý và thức?

Sanh diệt là thế nào?

Sở kiến trả về được,

Năng kiến trả về đâu?

Thế nào là tâm lượng,

Chủng tánh phi chủng tánh?

Làm sao kiến lập tướng,

Nghĩa ngã và phi ngã?

Sao nói chẳng chúng sanh?

Sao gọi thuyết thế tục?

Cách nào chẳng sanh khởi,

Đoạn kiến và thường kiến?

Chư Phật và ngoại đạo,

Tại sao chẳng trái nhau?

Phật tánh vốn bất nhị,

Tại sao đời vị lai,

Nhiều bộ phái khác nhau?

Nhân gì lập nghĩa không?

Sao nói sát na hoại?

ỀThai tạng sanhỂ là gì?

Thế pháp sao chẳng động?

Nhân gì như mộng huyễn,

Như thành Càn Thát Bà,

Như bóng trăng trong nước?

Thế gian như dương diệm,

Sao lại nói Giác Chi,

Và Thất Bồ Đề phần?

Quốc độ sao hỗn loạn?

Tại sao chấp hữu kiến?

Thế nào chẳng sanh diệt,

Thế pháp như hoa đốm?

Cách nào giác thế gian,

Thuyết pháp lìa văn tự?

Lìa vọng tưởng là ai?

Sao dụ như hư không?

Mấy thứ pháp như thật?

Mấy tâm Ba La Mật?

Nhân gì độ chư Địa,

Đến nơi Vô Sở Thọ,

Và hai thứ Vô Ngã?

Làm sao cảnh trí sạch?

Trí huệ có mấy thứ?

Giới tánh có bao nhiêu?

Hạt chơn châu Ma Ni,

Thật tánh từ đâu sanh?

Ai lập ra ngữ ngôn,

chủng tánh chúng sanh?

Sáng sủa và kỹ thuật,

Do đâu mà hiển bày?

Kệ tụng có mấy thứ,

Tụng dài và tụng ngắn,

Tất cả có mấy thứ?

Thế nào gọi là Luận?

Sao có sự ăn uống,

Và sanh những ái dục?

Tại sao gọi là vua,

Chuyển Luân và Tiểu Vương?

Cõi trời có mấy thứ?

Hộ vệ quốc độ nào?

Thế nào gọi là Địa,

Tinh tú và nhựt nguyệt?

Người tu hành giải thoát,

Mỗi môn có mấy thứ?

Đệ tử có mấy loại?

Sao gọi A Xà Lê?

Phật có bao nhiêu thứ?

Sự sanh có mấy loại?

Ma và các ngoại đạo,

Mỗi mỗi có mấy thứ?

Tự tánhbản tâm,

Có mấy thứ riêng biệt?

Những số lượng thi thiết?

Niệm thông minh là gì?

Cúi xin Phật khai thị.

Hư không và gió mây,

Cây cỏ và rừng rậm,

Tất cả là thế nào?

Tại sao lại bắt lấy,

Những loài voi, ngựa, nai?

Thế nào là thấp hèn?

Nhân gì mà thấp hèn?

Làm sao dứt lục căn?

Sao gọi Nhất Xiển Đề?

Nam nữ, phi nam nữ?

Từ đâu mà sanh khởi?

Thế nào phát tâm tu?

Sao lại tu lui sụt?

Thiền sư dùng pháp gì?

Dạy cho những người nào?

Chúng sanh vào các cõi,

Tướng nào thuộc loại nào?

Thế nào là giàu sang?

Nhân gì được giàu sang?

Thế nào là Thích Chủng?

Nhân gì được Thích Chủng?

Thế nào dòng Cam Giá (1)?
Xin Thế Tôn giải thuyết.

Những Tiên nhơn khổ hạnh,

Truyền thọ như thế nào?

Sao thân Phật hiển hiện,

Khắp thời gian không gian,

Có đủ loại chúng sanh,

Bồ Tát nhiễu quanh?

Tại sao chẳng ăn thịt?

Tại sao cấm ăn thịt?

Những loại nào ăn thịt?

Nhân gì phải ăn thịt?

Sao hình thành nhựt nguyệt,

Tu DiLiên Hoa.

Cõi nước rất thù thắng,

Trùm khắp cả thế giới?

Như lưới báu Đế Thích,

(1) DÒNG CAM GIÁ : Dòng họ Thích Ca, là con của vua Cam Giá, nên gọi là dòng Cam Giá.

Tất cả những trân bửu.

Cây đàn dáng trống cơm,

Và đủ loại hương hoa,

Sáng chói lìa nhựt nguyệt,

Mỗi mỗi đều vô lượng?

Thế nào là Hóa Phật?

Thế nào Báo Thân Phật?

Thế nào Như Như Phật?

Thế nào Trí Huệ Phật?

Tại sao nơi Dục giới,

Chẳng thành Đẳng Chánh Giác?

Sao cõi Sắc Cứu Cánh,

Lìa dục đắc Bồ Đề?

Chư Phật nhập Niết Bàn,

Ai duy trì chánh pháp?

Như Laichánh pháp,

Được trụ thế bao lâu?

Thành tựukiến chấp,

Mỗi loại bao nhiêu thứ?

Từ giới luật Tỳ Kheo,

Thanh VănDuyên Giác,

Cho đến bậc Bồ Tát,

Nhân duyên gì kiến lập?

Nhân gì nhiều biến đổi?

Tại sao Vô Sở Thọ?

Thế Tục Thông là gì?

Tại sao xuất thế gian?

Thế nào là Thất Địa?

Cúi xin Phật diễn thuyết.

Tăng Già có mấy loại?

Thế nào phá hoại Tăng?

Y Phương Luận là gì?

Bởi do nhân duyên gì,

Sao lại Phật Thế Tôn,

Thuyết những lời như thế :

"Ca Diếp (Phật), Câu Lưu Tôn (Phật),

Câu Na Hàm (Phật) là Ta? ".

Cớ sao nói đoạn thường?

Có ngã và Vô Ngã?

Sao không tất cả thời,

Đều diễn chơn thật nghĩa?

Mà lại vì chúng sanh,

Phân biệt thuyết Tâm lượng?

Tại sao cõi Ta Bà,

Núi Kim Cang, Thiết Vi,

Tất cả đều sung mãn,

Như trái Yêm Ma La?

*
Phật nghe bài kệ hỏi,

Về độ môn Đại Thừa.

diệu tâm Chư Phật;

Lành thay những câu hỏi.
Đại Huệ hãy lắng nghe,

Nay Ta vì các ngươi,

Theo thứ lớp giải đáp :

Pháp sanh và bất sanh,

Các loại đến Niết Bàn,

Sát na chẳng tự tánh.

Từ Phật tử, ngoại đạo,

Thanh VănDuyên Giác,

Bồ Tát Ba La Mật,

Và hạnh cõi Vô Sắc.

Mỗi mỗi việc như thế,

Núi Tu Di, biển cả,

Các bộ châu, quốc độ,

Tinh tú và nhựt nguyệt,

Cõi trời A Tu La,

Sức thiền Tam Ma Đề,

Giải thoát được tự tại.

Giác Chi, Như Ý Túc,

Và các phẩm trợ đạo;

Từ những thân ngũ ấm,

Cho đến Diệt Tận Định,

Gồm vô lượng thiền định.

Phật từ Tam muội khởi,

Thuyết pháp độ chúng sanh.

Tâm (thức thứ tám), Ý (thức thứ bảy), và Ý thức (thức thứ sáu),

Năm pháp và Vô ngã,

Năng tưởng và sở tưởng,

Tự tánh hiện nhị kiến.

Các thừa và chủng tánh,

Vàng bạc, châu Ma Ni,

Cho đến Nhất Xiển Đề,

Nhiều loại với nhất Phật,

Trí Nhĩ Diệm chứng đắc.

Chúng sanh hữu hay vô,

Những cầm thú voi, ngựa,

Tại sao bị bắt lấy,

Do nhân duyên thành tựụ

Năng tác và sở tác,

Tòng lâm cùng mê hoặc,

Tâm lượng chẳng hiện hữu,

Chư Địa chẳng đến nhau.

Biến hiện thọ, Vô thọ,

Y phương và công xảo,

Nội ngoại trong Ngũ Minh,

Đại địa, núi Tu Di,

Biển cả, nhựt, nguyệt, tinh,

Chúng sanh thượng, trung, hạ,

Quốc độsắc thân,

Mỗi mỗi bao vi trần.

Thước tấc và số dặm,

Số ngắn đến số dài.

Nói chung những câu hỏi,

Danh từ các số lượng,

Diễn tả sự hiện hữu,

Không gianthời gian,

Nên hỏi những việc này,

Đâu cần hỏi việc khác.

Thanh VănDuyên Giác,

Bồ Tát cho đến Phật,

Mỗi thân bao nhiêu trần,

Số lượng của tứ đại,

Thân ngũ uẩn con người,

Vua chúa trên thế gian,

Cho đến Chuyển Luân Vương,

Đều ham giữ của cải,

Làm sao được giải thoát?

Nghĩa hẹp và nghĩa rộng,

Như chỗ hỏi của ngươi,

Việc Phật tử nên hỏi.

Muốn mỗi mỗi tương ưng,

Phải xa lìa kiến chấp.

Thành tựu lìa ngôn thuyết.

Nay ta sẽ khai thị,

Kỹ càng từng lớp một,

Phật tử hãy lắng nghe.

Trăm lẻ tám câu này,

Như chư Phật sở thuyết.

Cú sanh cú bất sanh, cú thường cú vô thường, cú trụ dị phi trụ dị, cú sát na cú phi sát na, cú tự tánh cú phi tự tánh, cú không cú bất không, cú đoạn cú bất đoạn, cú biên cú phi biên, cú trung cú phi trung, cú duyên cú phi duyên, cú nhân cú phi nhân, cú phiền não cú phi phiền não, cú ái cú phi ái, cú phương tiện cú phi phương tiện, cú xảo cú phi xảo, cú tịnh cú phi tịnh, cú thành cú phi thành, cú ví dụ cú phi ví dụ, cú đệ tử cú phi đệ tử, cú sư cú phi sư, cú chủng tánh cú phi chủng tánh, cú tam thừa, cú phi tam thừa, cú sở hữu cú phi sở hữu, cú nguyện cú phi nguyện, cú tam luân cú phi tam luân, cú hữu phẩm cú phi hữu phẩm, cú câu cú phi câu, cú duyên tự Thánh trí hiện pháp lạc cú phi hiện pháp lạc, cú sát độ cú phi sát độ, cú thủy cú phi thủy, cú cung cú phi cung, cú thật cú phi thật, cú số cú phi số, cú minh cú phi minh, cú hư không cú phi hư không, cú vân cú phi vân, cú công xảo kỹ thuật minh xứ, cú phi công xảo kỹ thuật minh xứ, cú phong cú phi phong, cú địa cú phi địa, cú tâm cú phi tâm, cú thi thiết cú phi thi thiết, cú ấm cú phi ấm, cú chúng sanh cú phi chúng sanh, cú huệ cú phi huệ, cú Niết Bàn cú phi Niết Bàn, cú nhĩ diệm cú phi nhĩ diệm, cú ngoại đạo cú phi ngoại đạo, cú hoang loạn cú phi hoang loạn, cú huyễn cú phi huyễn, cú mộng cú phi mộng, cú diệm cú phi diệm, cú tượng cú phi tượng, cú luân cú phi luân, cú Càn Thát Bà cú phi Càn Thát Bà, cú thiên cú phi thiên, cú ẩm thực cú phi ẩm thực, cú dâm dục cú phi dâm dục, cú kiến cú phi kiến, cú Ba La Mật cú phi Ba La Mật, cú giới cú phi giới, cú nhựt nguyệt tinh tú cú phi nhựt nguyệt tinh tú, cú đế cú phi đế, cú quả cú phi quả, cú khởi diệt cú phi khởi diệt, cú trị cú phi trị, cú chi cú phi chi, cú thiền cú phi thiền, cú mê cú phi mê, cú hiện cú phi hiện, cú hộ cú phi hộ, cú tục cú phi tục, cú tiên cú phi tiên, cú vương cú phi vương, cú nhiếp thọ cú phi nhiếp thọ, cú bảo cú phi bảo, cú ký cú phi ký, cú Nhất Xiển Đề cú phi Nhất Xiển Đề, cú nữ nam bất nam cú phi nữ nam bất nam, cú vị cú phi vị, cú sự cú phi sự, cú thân cú phi thân, cú giác cú phi giác, cú động cú phi động, cú căn cú phi căn, cú hữu viphi hữu vi, cú vô vi cú phi vô vi, cú nhân quảphi nhân quả, cú sắc cứu cánhphi sắc cứu cánh, cú thiết cú phi thiết, cú tòng thọ cát đằng cú phi tòng thọ cát đằng, cú tạp cú phi tạp, cú thuyết cú phi thuyết, cú Tỳ Ni cú phi Tỳ Ni, cú Tỳ Kheo cú phi Tỳ Kheo, cú xứ cú phi xứ, cú tự cú phi tự.

Lược giải :

Từ CÚ SANH CÚ BẤT SANH cho đến CÚ TỰ CÚ PHI TỰ, chúng tôi lược giải chung như sau : Tất cả pháp thế gian, cho đến xuất thế gian, lời nói diễn tả được đều nằm trong tương đối; như sanh, trụ, dị, diệt, sáng, tối và sắc, không v.v... mỗi mỗi gồm có tứ cú, thật ra chẳng thể kể xiết. Như tứ cú của chữ SANH: Cú thứ nhất là SANH, cú thứ nhì BẤT SANH, cú thứ ba CHẲNG SANH, CHẲNG BẤT SANH, cú thứ tư CŨNG SANH, CŨNG BẤT SANH. Chữ THỪƠNG cũng vậy: Cú thứ nhất THỪƠNG, cú thứ nhì VÔ THỪƠNG, cú thứ ba CHẲNG THỪƠNG, CHẲNG VÔ THỪƠNG, cú thứ tư CŨNG THỪƠNG, CŨNG VÔ THỪƠNG... Những chữ khác cũng đều như thế cả.

Lược giải hết

CHÁNH VĂN

Phật bảo Đại Huệ rằng :

- Đó là 108 câu Phật xưa đã nói, người và các Đại Bồ Tát cần nên tu học.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Các thức có mấy thứ sanh, trụ, diệt?

Phật bảo Đại Huệ :

- Các thức có hai thứ sanh, trụ, diệt, chẳng phải suy nghĩ biết được. Hai thứ sanh gọi là lưu chú sanh và tướng sanh; hai thứ trụ gọi là lưu chú trụ và tướng trụ; hai thứ diệt gọi là lưu chú diệt và tướng diệt.

- Đại Huệ! Các thức có ba thứ tướng, gọi là chuyển tướng, nghiệp tướng và chơn tướng. Nói tóm tắt có ba thứ thức, nói rộng có tám thứ tướng. Ba thứ thức ấy là : Chơn thức, hiện thứcphân biệt sự thức. Đại Huệ! Ví như gương sáng hiện những sắc tướng, chỗ hiện của hiện thức cũng như thế.

- Đại Huệ! Hiện thứcphân biệt sự thức, hai thức này tướng hoại và chẳng hoại làm nhân với nhau. Đại Huệ! Sự huân tập bất tư nghì và sự chuyển biến bất tư nghì là cái nhân của hiện thức. Nhận lấy các cảnh trần và huân tập vọng tưởng từ vô thỉ là cái nhân của phân biệt sự thức.

- Đại Huệ! Nếu mỗi mỗi sự hư vọng chẳng thật che khuất chơn thức đều tiêu diệt thì tất cả căn thức đều diệt, ấy gọi là tướng diệt.

- Đại Huệ! Sao nói TƯƠNG TUC DIỆT? Bởi cái nhân của tương tục đã diệt thì tương tục phải diệt; sở nhân diệt thì sở duyên cũng diệt. Sở nhân và sở duyên đều diệt thì tương tục phải diệt. Tại sao? Vì có sở nương tựa. Nói "Nương tựa", là vọng tưởng huân tập từ vô thỉ; nói "Duyên", là tự tâm hiện những cảnh vọng tưởng của thức.

- Đại Huệ! Ví như cục đất với vi trần có khác, cũng không có khác, dùng vàng ròng làm ra những đồ trang sức cũng vậy. Đaị Huệ! Nếu cục đất với vi trần có khác thì cục đất chẳng do vi trần họp thành, mà thật thì do vi trần họp thành, nên nói chẳng khác. Nếu chấp thật chẳng khác thì cục đất với vi trần chẳng có phân biệt.

- Như thế, Đại Huệ! Chơn tướng của chuyển thức với Tạng thức nếu là khác thì Tạng thức chẳng phải cái nhân của chuyển thức; nếu là chẳng khác thì chuyển thức diệt, Tạng thức cũng phải diệt, mà chơn tướng của nó thật chẳng diệt. Cho nên Đại Huệ! Chẳng phải tự thức của chơn tướng diệt, chỉ là nghiệp tướng diệt. Nếu tự thức của chơn tướng diệt thì tạng thức cũng phải diệt. Đại Huệ! Nếu Tạng thức diệt thì chẳng khác gì đoạn kiến của ngoại đạo.

- Đại Huệ! Các phái ngoại đạo lập luận như thế này : "Cảnh giới nhiếp thọ diệt thì sự lưu chú của thức cũng diệt". Nếu sự lưu chú của thức diệt thì sự lưu chú từ vô thỉ phải đoạn dứt. Đại Huệ! Ngoại đạo nói cái nhân sanh khởi của lưu chú, chẳng do nhãn thức, sắc không và sáng tối hoà hợp mà sanh, ngoài ra còn có các nhân khác. Đại Huệ! Cái nhân của họ nói như thắng diệu, như sĩ phu (1), như tự tại, như thời gian, như vi trần v.v...

(1) SĨ PHU : nghĩa Hán là bậc trí thức, ở đây ám chỉ Năng tác hoặc Sở tác.

- Lại nữa Đại Huệ! Có bảy thứ chủng tánh của tự tánh, gọi là : Hoà hợp tự tánh, tánh tự tánh, tướng tự tánh, đại chủng tự tánh, nhân tự tánh, duyên tự tánhthành tựu tự tánh.

- Lại nữa Đại Huệ! Có bảy thứ Đệ Nhất Nghĩa, gọi là : Cảnh giới Tâm, cảnh giới Huệ, cảnh giới Trí, cảnh giới Kiến, cảnh giới Siêu nhị kiến, cảnh giới Siêu tử địa (siêu việt phiền não), và cảnh giới Như Lai tự tại. Đại Huệ! Đây là Đệ Nhất Nghĩa tâm của tự tánh, cũng là quá khứ, hiện tại, vị lai chư Phật Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác thành tựu pháp thế gianxuất thế gian, cho đến xuất thế gian thượng thượng pháp, do huệ nhãn của bậc Thánh soi vào tự cộng tướngkiến lập, kiến lập này chẳng đồng với lập luận ác kiến của ngoại đạo.

- Đại Huệ! Thế nào là lập luận ác kiến của ngoại đạo? Ấy là cảnh giới vọng tưởng của tự kiến chấp, chẳng biết do chấp tự tâm sở hiện, vì chẳng thông đạt ngằn mé (tự tánh cùng khắp không gian thời gian, vốn chẳng có ngằn mé, vì khởi tâm chấp thật thành có ngằn mé). Đại Huệ! Vì tánh ngu si của phàm phu, ở nơi bất nhị của tự tánh vô tánh (Đệ Nhất Nghĩa) lập ra nhị kiến luận (pháp tương đối).

- Lại nữa, Đại Huệ! Cái nhân vọng tưởng khổ của tam giới diệt thì các duyên của vô minh, ái nghiệp liền diệt. Nay ta sẽ thuyết những cảnh huyễn hóa tùy theo kiến chấp của tự tâm sở hiện.

- Đại Huệ! Nếu có Sa Môn, Bà La Môn muốn khiến nhân quả của sự hữu chủng, vô chủng, và sự vật thời gian có sở trụ... và những cái do chấp ấm, giới, nhập (1) nơi sanh và trụ biến hiện (hoặc nói sanh rồi thì diệt), như sự vật hoặc sanh hoặc hữu, hoặc Niết Bàn, hoặc đạo, hoặc nghiệp, hoặc quả, hoặc chân lý, hoặc thường trụ, đều là đoạn diệt luận. Tại sao? Vì những sự việc kể trên vốn là vô thỉ (chẳng có sự bắt đầu), nên hiện tiền đều bất khả đắc.

- Đại Huệ! Ví như cái bình bể chẳng dùng được, như hạt giống cháy chẳng thể nảy mầm. Như thế, Đại Huệ! Nếu tánh ấm, giới, nhập đã diệt, nay diệt, sẽ diệt điều do kiến chấp vọng tưởng của tự tâm vô nhân mà có, thì sự sanh khởi chẳng có thứ lớp.

- Đại Huệ! Nếu lại nói cái thức Vô Chủng, Hữu chủng do ba duyên kiến, tướng, thức hòa hợp sanh khởi, thì con rùa nên mọc lông, ép cát phải ra dầu, tông họ ắt phải tự hoại, vì trái với nghĩa quyết định. Cái thuyết hữu chủng, vô chủng có lỗi như thế, nếu theo đó

kiến lập sự nghiệp đều hư dối vô nghĩa.

(1) ẤM, NHẬP, GIỚI : Ấm là ngũ ấm, tức sắc, thọ tưởng, hành, thức. Nhập là lục nhập, tức lục căn nhiếp thọ lục trần, có sự cảm thọ, gọi là lục nhập. Giới là thập bát giới, tức lục căn tiếp xúc lục trần sinh ra lục thức, gọi là thập bát giới.

- Đại Huệ! Cái thuyết ba duyên hợp sanh của ngoại đạo, lập ra phương tiện nhân quả tự tướng nơi quá khứ, hiện tại, vị lai, tưởng hữu chủng, vô chủng từ xưa đến nay đã thành sự thật, giác tưởng xoay chuyển, thừa kế với nhau, là do lỗi tập khí tự sanh kiến chấp mà thuyết như thế.

- Đại Huệ! Phàm phu ngu si, say mê tà tưởng, trí huệ bị ác kiến nuốt mất, đem cái thuyết vô trí lại vọng xưng là Nhất Thiết Trí.

- Đại Huệ! Nếu các Sa Môn, Bà La Môn lìa kiến chấp tự tánh, biết trong ngoài tâm hiện như mây nổi, như vòng lửa, như thành Càn Thát Bà, như dương diệm, như bóng trăng trong nước, như mộng huyễn, những vọng tưởng hư dối từ vô thỉ chẳng lìa tự tâm. Nếu nhân duyên vọng tưởng diệt hết, lìa năng thuyết sở thuyết, năng quán sở quán của vọng tưởng, kiến lập thân của Tạng thức, nơi cảnh giới thức có thọ dụng, nhiếp thọ và kẻ nhiếp thọ v.v... Đối với những việc kể trên đều chẳng tương ưng, chẳng có tất cả cảnh giới ấy, lìa sanh trụ diệt, lìa tự tâm khởi, lìa tùy chỗ nhập mà phân biệt, Bồ Tát này được như thế thì chẳng bao lâu sẽ chứng đắc sanh tửNiết Bàn bình đẳng, được đại bi phương tiện khéo léo mà chẳng thấy có sự mở mang phương tiện.

- Đại Huệ! Nơi tất cả chúng sanh thảy đều như huyễn, chẳng do nhân duyên, xa lìa cảnh giới trong ngoài, ngoài tâm chẳng thấy pháp khác, lần lượt nhập chỗ vô tưởng, từ cảnh giới Tam muội của Địa này đến Địa kia, phân biệt quán xét, thấu rõ tam giới như huyễn, sẽ chứng đắc như huyễn Tam muội, siêu việt tự tâm hiện, trụ nơi Bát Nhã Ba La Mật, lìa bỏ phương tiện, lìa Kim Cang Dụ và Tam Ma Đề, liền vào thân Như Lai, liền vào thần thông biến hóa tự tại, từ bi phương tiện, đầy đủ trang nghiêm; vào tất cả cõi Phật và chỗ ngoại đạo, bình đẳng như như, lìa tâm, ý, ý thức, ấy là sự lần lượt chuyển thân của Bồ Tát, cho đến chứng đắc Pháp thân Như Lai, cuối cùng qui về Vô Sở Đắc.

- Đại Huệ! Cho nên muốn đắc vào Pháp thân Như Lai, phải xa lìa ấm, giới, nhập và nhân duyên làm phương tiện của tâm, duy tâm thẳng quán xét lỗi vọng tưởng tập khí hư dối từ vô thỉ, sanh, trụ, diệt là vọng tưởng hư dối, Phật Địa vô sanh, tư duy tam giới chẳng thật có, đến Tự giác Thánh trí, tự tâm tự tại, đến chỗ hành vô sở hành, như hạt châu Ma Ni tùy sắc (hạt châu tự chẳng có màu sắc, mà tùy màu sắc của người xem hiện ra màu sắc), nghĩa là tùy tâm lượng vi tế của chúng sanhbiến hóa thân hình, nên chư Địa lần lượt được tương tục kiến lập. Cho nên, này Đại Huệ! Việc tự thành tựu pháp thiện phải siêng tu học.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15798)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11097)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53706)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13015)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16558)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15431)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19192)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19977)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15593)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15376)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15177)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20383)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 24016)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15521)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13068)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20184)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13310)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29044)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11738)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18342)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16672)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13270)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12832)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13282)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 13025)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12911)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13040)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13583)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11745)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14273)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17777)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22652)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13475)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14366)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105838)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14629)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19823)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38458)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15560)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34727)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16099)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11385)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15702)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 14056)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12861)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13742)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12539)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19410)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27060)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13172)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13516)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21646)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 18011)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21948)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14242)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16099)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16177)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19156)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24826)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant